Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn ngữ văn 12.....

Tài liệu Skkn liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn ngữ văn 12..

.DOC
28
1067
119

Mô tả:

Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Môn Ngữ Văn là một trong những môn chính trong các bộ môn học ở nhà trường. Nhưng thực trạng học sinh ngày nay không hứng thú với môn này ngày càng nhiều. Các em không nhân thấy rằng:Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người . Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng ,tình cảm cho học sinh.. Mặt khác “ Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện” ( Nghiên cứu giáo dục , số 28, 11/1973), chính vì vậy nội dung giáo dục tư tưởng , đạo đức cho HS trong quá trình dạy và học văn là vô cùng quan trọng và có nhiều cơ sở sát thực để giáo viên liên hệ giáo dục thuận lợi hơn các môn học khác . Trong những năm vừa qua , thực hiện chương trình sách giáo khoa mới cùng với phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông , môn văn đã mang tính cập nhật hơn , gắn với thực tế cuộc sống hơn . Theo quan điểm của tôi, muốn dạy chữ, trước hết phải dạy các em làm người. Đó là vấn đề vô cùng khó. Nhưng tôi mong rằng, làm cho các em có ý thức trước rồi may ra, dạy và học mới có hiệu quả. Đặc biệt với vai trò giáo dục thái độ, tư tưởng, đạo đức nhằm mục tiêu hoàn thiện nhân cách cho học sinh để các em trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa , đồng thời góp phần tích cực trong việc chấn hưng nền tảng đạo đức xã hội trong giai đoạn hiện nay , vấn đề tích hợp nội dung cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là vô cùng thiết thực và cần phải có sự quan tâm đúng mức của mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy . Môn Ngữ văn ở trường phổ thông có nhiều ưu thế, thuận lợi trong việc tích hợp bộ môn . Giáo viên có thể đưa vào tích hợp giảng dạy , giáo dục , tuyên truyền cho học sinh nội dung các cuộc vận động lớn của ngành giáo dục trong những năm vừa qua như cuộc vận động Hai không , phong trào Xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực …với tuyên truyền bảo vệ môi trương Xanh – Sạch – đẹp, giáo dục ý thức của các em đối với môi trường xung quanh. Đồng thời qua một số bài có liên quan, có thể giáo dục các em lòng thương người, lòng yêu nước, nói thêm cho các em biết thêm về kĩ năng sống, về tình yêu trong sáng, về văn hóa truyền thống…. Có thể nói, tham vọng trên của tôi là quá lớn, nhưng thiết nghĩ, một trong những nguyên nhân khiến cho HS ngày nay không thích học văn vì các em thấy nó xa rời, không thiết thực với cuộc sống. Nhiều GV lại dạy khô khan, ít liên hệ, áp đặt, nặng nề , không cho các em nói ra suy nghĩ của mình….GV nói rồi lại đọc, rồi lại chép…khiến giờ học văn trở nên công thức, nhàm chán. Một số học sinh chưa có ý thức và nhận thức đúng đắn đối với các vấn đề xã hội và vấn đề tự giáo dục đạo đức bản thân. Do sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và thông tin , liên lạc do vậy học sinh thường bị phân tán tư tưởng vào những vấn đề hoặc nội dung thông tin ngoài luồng khiến cho các em thờ ơ và rất nhanh quên lãng những nội dung ngoài kiến thức chuẩn của bài học nếu giáo viên chỉ đề cập đến một cách qua loa , đại khái . Đa số các em lười hoặc không bao giờ suy nghĩ ,liên tưởng , so sánh , suy luận nội dung tri thức gắn với cuộc sống khi đọc sách ,kể cả văn bản trong SGK cũng như các loại sách báo và các kênh thông tin khác . Chính vì vậy, việc dạy học văn trở nên là một bài toán vô cùng khó. Để có một lời giải đưa môn văn thiết thực hơn, không chỉ đổi mới phương pháp dạy và học mà còn làm cho HS thấy môn văn “gần” với cuộc sống. Vì những suy nghĩ nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài “ Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn.” GVTH: Lê Thị Thu Hằng 1 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. Vì khả năng và thời gian có hạn, bản thân tôi đưa ra ở một số bài nhưng có thể mở rộng ra ở nhiều bài khác nếu có nội dung tương tự. Đây là suy nghĩ của riêng cá nhân sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong quý thầy cô góp cho những ý kiến quý báu để tôi có dịp bổ khuyết. Tôi xin chân thành cảm ơn! II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lí luận : - Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ- BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS.” - Trong tài liệu bồi dưỡng thay sách giáo khoa năm 2002 đã nêu rõ : Môn ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường trung học cơ sở : Góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở , chuẩn bị cho họ ra đời , hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn .Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng , biết thương yêu , quý trọng gia đình , bạn bè , có lòng yêu nước , yêu chủ nghĩa xã hội ; biết hướng tới những tư tưởng , tình cảm như lòng nhân ái , tinh thần tôn trọng lẽ phải , công bằng …, lòng ghét cái xấu , cái ác ( …).Đó là những con người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn làm được điều đó thì vấn đề tích hợp trong dạy học ngữ văn là một trong những nội dung đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học trong chương trình sách giáo khoa mới mà chúng ta đã thực hiện trong những năm qua. Tích hợp các nội dung giảng dạy đối với các bộ môn khoa học xã hội là mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất của nội dung – tư duy – tư tưởng , luôn tiềm ẩn và rất linh hoạt . Trong chương trình giảng dạy , giáo viên ngữ văn không chỉ cần có sự tích hợp nội dung kiến thức , kĩ năng của ba phân môn văn – tiếng Việt – tập làm văn mà còn phải tích hợp nội dung kiến thức , kĩ năng của các môn học khác có liên quan , các vấn đề trong thực tiễn đời sống và đặc biệt là các nội dung giáo dục thái độ tư tưởng cho học sinh một cách linh hoạt , uyển chuyển và tinh tế . Có thể nói dạy học văn là một bài toán nan giải, quá trình đổi mới là một quá trình tìm tòi ,nhọc nhằn. Cần có hiểu biết đến nơi đến chốn về lí luận, về thực tế, cần có phương pháp tiếp cận đồng bộ và thái độ khiêm tốn, cầu thị, mới có thể có được những suy nghĩ chín chắn, có chất lượng và bổ ích. Như chúng ta biết: Những tác phẩm văn chương lớn, nhất là những tác phẩm văn chương kiệt xuất, bao giờ cũng có ý nghĩa phổ quát toàn nhân loại. Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là nỗi đau của người phụ nữ Việt Nam tài sắc đầu thế kỉ XVIII. Bất hạnh của cô bé Cô – dét đâu chỉ là chuyện của trẻ em nước Pháp thời V. Huy – gô. Thơ Nguyễn trãi được giới văn học Pháp đánh giá là có “sens cosmique” ( tinh thần vũ trụ ). Thế nhưng, không phải vì vậy mà mỗi tác phẩm văn chương lại mất đi giá trị lịch sử của nó. Ví như, nếu tách Vợ nhặt của Kim Lân ra khỏi không khí tiền khởi nghĩa thì làm sao cảm nhận được những chi tiết nghệ thuật sáng giá trong ý đồ sáng tác của Kim Lân ở cuối tác phẩm “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...”. Cho nên, để giúp các em yêu mến môn văn, cần làm cho các em hiểu nội dung tác phẩm nói gì? Bài đó nói gì? Mà để hiểu tác phẩm, hãy liên hệ tác phẩm đến những gì xung quanh cuộc sống của các em. Từ đó, các em thấy được sự đồng cảm, sự gần gũi, các em như đang là người trong cuộc... GVTH: Lê Thị Thu Hằng 2 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: - So với chương trình và sgk cũ, chương trình và sgk Ngữ Văn 12 có những thay đổi nhất định trong việc lựa chọn tác phẩm với ý tưởng mở rộng phần sáng tác sau năm 1975. - Chương trình thay thế và đưa thêm một số tác phẩm như: Đò Lèn ( Nguyễn Duy), Đàn ghi ta của Lor – ca ( Thanh Thảo), Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( Hoàng Phủ Ngọc Tường ), Một người Hà Nội ( Nguyễn Khải ), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu), Hồn TRương Ba, da hàng thịt ( Lưu Quang Vũ),… - Chương trình cũng chú ý thêm về loại thể. Về văn nghị luận, có thêm bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc ( Phạm Văn Đồng ). Ngoài ra, còn có một bài về chân dung văn học của Xvai – gơ và hai văn bản nhật dụng. Kịch sau năm 1975 được đưa vào sgk với Hồn TRương Ba, da hàng thịt ( Lưu Quang Vũ). Kí được bổ sung thêm với hồi kí Những năm tháng không thể nào quên ( Võ Nguyên Giáp) và bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( Hoàng Phủ Ngọc Tường ). - Chương trình không chỉ chọn các sáng tác nghệ thuật văn chương mà còn tăng cường phần nghị luận xã hội, nghị luận văn học và thêm một số văn bản nhật dụng. Từ sự phong phú đó, sẽ giúp chúng ta lựa chọn những bài phù hợp để tích hợp trong bộ môn này. 2.1. Tích hợp nội dung Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. a/ Cơ sở: - Trong giáo dục và đào tạo, cũng như trong mọi công tác khác, việc tuân thủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tư tưởng Hồ Chí Minh là điều quan trọng. Bởi vì, đó là “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. - Môn Ngữ văn ở trường phổ thông có nhiều ưu thế, thuận lợi trong việc tích hợp nội dung bộ môn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh gồm nhiều bộ phận, trong đó tư tưởng đạo đức có vai trò, ý nghĩa quan trọng bởi vì đạo đức là nền tảng của người cách mạng. Hơn nữa, nhân dân ta đang triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh” nên việc quán triệt và làm theo tấm gương đạo đức của Người càng cấp thiết. Công việc này sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đạt mục tiêu giáo dục đã xác định. - Tài liệu “ Nội dung tích hợp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong môn Ngữ Văn gồm có: + Môn Ngữ văn với việc giáo dục tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho Học sinh. + Nội dung giáo dục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong môn Ngữ Văn ở trường Phổ thông. + Hướng dẫn dạy học một số bài theo hướng tích hợp. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 3 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. - Để sử dụng tài liệu một cách hiệu quả, Gv phải nhận thức về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ( Nguồn gốc, quá trình hình thành, nội dung cơ bản và thực hiện học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay), giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh qua môn Văn, năm được các yêu cầu , nguyên tắc của việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho HS… b/ Giải pháp: Việc giáo dục tư tưởng nói chung, về đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh nói riêng phải được tiến hành trên cơ sở nguyên tắc phương pháp luận về sư phạm sau đây: - Liên kết nội dung bài học với nội dung tư tưởng Hồ chí Minh. - Nêu kết luận khái quát về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cần học tập. - Vận dụng sáng tạo, cụ thể nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động thực tiễn. - Phát huy tính tích cực của HS trong giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ( vận dụng nguyên tắc tự giáo dục, hình thành và phát triển năng lực của HS trên cơ sở phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo.) c/ Lưu ý: Không làm tăng thêm nội dung, thời lượng dạy học, không phải là đưa thêm các thông tin, kiến thức làm nặng thêm nội dung mà vẫn đảm bảo được các nội dung và yêu cầu dạy học của môn học. Dựa trên sự tương đồng giữa nội dung bài học Ngữ Văn với nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, đựa trên hiểu biết, kinh nghiệm vốn có của bản thân người học và quá trình đối thoại, tương tác giữa người học với nhau để thực hành, vận dụng linh hoạt vào các tình huống cuộc sống phù hợp với lứa tuổi. d/ Một số bài tích hợp: d1. Bài: Tác gia Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh: Trong quá trình dạy phần tác giả, ở mục vài nét về tiểu sử và sự nghiệp văn học của Người, giáo viên lồng ghép về gương sáng Hồ ChíMinh. * Mức độ: liên hệ * Phương pháp: Liên kết nội dung bài học với nội dung tư tưởng Hồ chí Minh, từ đó, nêu kết luận khái quát về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cần học tập. - Vài nét về tiểu sử: Bảy mươi chín tuổi của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp Người đã dâng hiến để làm nên mùa xuân tươi đẹp cho Tổ quốc - Quan điểm sáng tác: + HCM coi văn học là vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CM, nhà văn là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá. + HCM luôn chú trọng đến tính chân thật và tính dân tộc của văn học, đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ. + Khi cầm bút, HCM luôn xuất phát từ mục đích (Viết để làm gì?) và đối tượng tiếp nhận (Viết cho ai?) để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Do vậy, tác phẩm của Người thường rất sâu sắc về tư tưởng, thiết thực về nội dung và rất phong phú, sinh động, đa dạng về hình thức nghệ thuật. - Di sản văn học:lớn lao về tầm vóc tư tưởng, phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách nghệ thuật. -> Tích hợp: Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức, yêu nước, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật và những đóng góp lớn lao về văn học nghệ thuật và vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất đạo đức cách mạng của Bác qua sáng tác văn học nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và là nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc. Người là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào công nhân quốc tế. Là nhà nghệ sĩ lớn trên nhiều lĩnh vực , là danh nhân văn hóa thế giới. * Thời điểm: Sau mục tiểu sử, quan điểm sáng tác và di sản văn học của Hồ Chí Minh. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 4 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. * Tài liệu tham khảo:Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự do ( Tư tưởng Hồ Chí Minh, di sản văn hóa dân tộc, tr 225 – 229) d2. Bài Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh:: Tích hợp lòng yêu nước và độc lập dân tộc * Mức độ: Liên hệ * Chủ đề: Thuộc chủ đề yêu nước, độc lập dân tộc. Qua tác phẩm này, tích hợp tư tưởng dân tộc về độc lập, tự do và những đóng góp lớn lao về văn chính luận của Bác. * Nội dung: - HS nắm được hoàn cảnh ra đời của bản TNĐL. - Gía trị của bản TNĐL: + Là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xó bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới , là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta. + Là một tác phẩm chính luận đặc sắc. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc,… + Là áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta. * Tài liệu tham khảo: Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp ( Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, tr 33 – 71) d3. Bài Việt Bắc của Tố Hữu: Tích hợp lối sống giản dị, phong thái ung dung tự tại của Hồ Chí Minh - hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh: Ông Ké Cách mạng giản dị, gần gũi, ung dung tự tại, vượt mọi khó khăn…trong những ngày tháng ở chiến khu Việt Bắc. * Mức độ: Liên hệ * Thời điểm: Dạy ở khổ thơ : “- “Ở đâu u ám quân thù, Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi, Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mười lăm năm ấy, ai quên Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà”. -> Cảm hứng về kháng chiến, về cách mạng gắn liền với cảm hứng ca ngợi lãnh tụ ( Việt Bắc và cụ Hồ là một). Đấy là đặc điểm thường thấy trong thơ Tố Hữu. * Tài liệu tham khảo: Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị ( Lê Anh Trà, Hồ chí Minh, tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, tr 781) d4. Bài Bác Ơi của Tố Hữu: Tích hợp lí tưởng độc lập dân tộc, sự hi sinh quên mình vì hạnh phúc dân tộc, tình yêu thương nhân loại, lẽ sống giản dị, đức khiêm tốn…của Hồ Chí Minh. Qua đó, giúp HS thấy được vẻ đẹp của Hồ Chí Minh. * Mức độ: Liên hệ * Thời điểm : Dạy ở những câu thơ: Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi Năm canh bớt nặng nỗi thương đời Bác ơi, tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông mợi kiếp người. Bác để tình thương cho chúng con Một đời thanh bạch, chẳng vàng son GVTH: Lê Thị Thu Hằng 5 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. Mong manh áo vải hồn muôn trượng Hơn tượng đồng phơi những lối mòn … Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn … Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn. * Tài liệu tham khảo: Hồ Chí Minh, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp (Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, tr 33 – 71) Ngoài ra, GV có thể tích hợp ở những bài có nội dung có thể liên hệ được. 2.2. Giáo dục bảo vệ môi trường : a. Cơ sở: Môi trường có vai trò cực kì quan trọng đối với đời sống. Đó không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi lao động và nghỉ ngơi, hưởng thụ, trau dồi những nét đẹp văn hóa, thẩm mĩ,…… Chính vì vậy, thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 31/01/2005, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ra Chỉ thị về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường, xác định nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến 2012 cho giáo dục phổ thông là trang bị cho HS kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường bằng hình thức phù hợp trong các môn học, thông qua các hoạt động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, xây dựng mô hình Xanh – sạch –đẹp phù hợp với các vùng miền. Bảo vệ môi trường hiện nay là một trong những mối quan tâm mang tính toàn cầu. Ở nước ta, bảo vệ môi trường cuãng đang là vấn đề được quan tâm sâu sắc. Nghị quyết số 41/NQ-TƯ ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quyết định số 1363/QĐ- TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án : “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” và Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02 /12/ 2003 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho những nỗ lực và quyết tâm bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển một tương lai bền vững của đất nước. - Trong những năm gần đây, giáo dục môi trường (GDMT) được xem là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của Nhà nước ta và các nước trên thế giới, bởi lẽ đó là việc làm để bảo tồn và phát triển bền vững “cái nôi của nhân loại”. - Giáo dục môi trường trong nhà trường lại càng có ý nghĩa quan trọng, được xem là một trong những biện pháp hàng đầu để bảo vệ môi trường (BVMT) có hiệu quả. GDMT sẽ giúp con người có nhận thức đúng đắn về môi trường, về việc khai thác sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và có ý thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước, những người sẽ làm nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục sau này. Nếu họ có đầy đủ những nhận thức về bảo vệ môi trường, thì từ khi đang học trên ghế nhà trường và cho đến khi ra đời, dù họ làm việc gì, ở bất cứ nơi đâu, bất kì cương vị hoạt động nào, cũng đều có thể thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả. - Ở trường THPT, việc truyền thụ kiến thức GDMT đến học sinh thuận lợi và hiệu quả nhất vẫn là hình thức tích hợp và lồng ghép vào các môn học. Bên cạnh những kiến thức từ nội dung bài học, các em còn có thể tích lũy được các kiến thức về môi trường từ đó hình thành ý thức bảo vệ, giữ gìn. Hiện nay, nội dung này đã và đang được triển khai, phổ biến rộng rãi trong giờ học kể cả chính khóa lẫn ngoại khóa, đặc biệt là lồng ghép trong môn Ngữ Văn. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 6 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. b. Giải pháp:Giáo dục bảo vệ môi trường là một lĩnh vực liên ngành, vì vậy, được triển khai theo phương thức tích hợp. Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường được tích hợp trong môn học thông qua các bài cụ thể. Trong môn văn, chủ yếu dừng lại ở mức độ liên hệ ( có điều kiện liên hệ một cách logic), giúp HS ý thức được giá trị của lao động, rèn luyện kĩ năng, thói quen bảo vệ môi trường, biết yêu quý thiên nhiên xung quanh chúng ta… c. Lưu ý: - Giáo dục bảo vệ môi trường không phải là ghép thêm vào chương trình giáo dục như một bộ phận riêng biệt hay một chủ đề nghiên cứu mà nó là một hướng hội nhập vào chương trình. Giáo dục Bảo vệ môi trường là cách tiếp cận xuyên bộ môn. Giáo dục phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Không làm tăng nội dung học tập dẫn đến quá tải. - Chỉ tích hợp với nhứng bài có nội dung thật sự có liên quan đến môi trường, không gượng ép, không tràn lan…không biến giờ học văn thành giwof trình bày về giáo dục môi trường, giáo dục mô trường chỉ là nội dung được tích hợp một cách tự nhiên, hòa đồng trong các đơn vị kiến thức chuyên môn. d. Một số bài tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường: d1.Bài Phong cách ngôn ngữ Khoa học : Khi tìm hiểu đặc điểm và rèn kĩ năng sử dụng phong cách ngôn ngữ khoa học GV rèn luyện và giúp HS làm quen với các thuật ngữ khoa học môi trường và các văn bản phổ biến khoa học môi trường hay kết hợp trong các bài tập rèn luyện kĩ năng, phân tích ngữ liệu hoặc bài tập tìm từ ngữ( các thuật ngữ hay dùng trong các văn bản khoa học môi trường, đặt câu, viết đoạn,… d2. Bài Bài viết số 2 ( Bàn về một hiện tượng đời sống): Trong khi củng cố các kĩ năng nghị luận và liên hệ nâng cao ý thức, thái độ đúng đắn đối với những hiện tượng đời sống hiện nay, giáo viên có thể khái thác khả năng liên hệ đến những vấn đề về môi trường. Ví dụ: Với đề bài : Suy nghĩ của anh ( chị) về hiện tượng “nghiện” Karaoke và in ter nét trong nhiều bạn trẻ hiện nay. GV có thể hướng dẫn HS khai thác những vấn đề ô nhiễm âm thanh, mất trật tự công cộng, tình trạng nhiễu loạn thông tin, ô nhiễm thông tin,…thậm chí, nhiều vấn đề có thể dẫn đến: nghiện Ka ra ô kê, in ter nét quá, không dọn dẹp không gian mình ở, bỏ rác bừa bãi…đó cũng là ô nhiễm môi trường. Hay giáo viên có thể cho các em một số đề liên quan đến môi trường như: Anh ( chị) suy nghĩ như thế nào về hiện tượng ô nhiễm môi trường? Anh chị làm gì để góp phần môi trường làm Xanh – Sạch – Đẹp ? Anh chị suy nghĩ gì về vấn đề nhiều bạn trẻ hiện nay vứt rác bừa bãi?... -> Có thể nói, GV tranh thủ mọi nội dung để hướng các em đến ý thức với môi trường nhưng nhớ không được lạc hướng, quá sa đà vào vấn đề môi trường mà quên mất mục tiêu của tiết học văn. d3. Bài Vận dụng các thao tác lập luận. GV yêu cầu HS về nhà sưu tầm trước những văn bản viết về môi trường có sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận. Đến lớp, những văn bản đó sẽ giúp các thực hành tiết luyện tập hiệu quả. Vừa luyện tập các thao tác lập luận, vừa gợi nhắc bảo vệ môi trường. d4. Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Trong quá trình dạy học bài này, đặc biệt là phần đọc – hiểu văn bản. GV giúp HS từ việc cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp tự nhiên nên thơ, vẻ đẹp trầm lắng, tích đọng lịch sử - văn hóa bao đời của dòng sông Hương qua ngòi bút tài hoa, tinh tế của HPNT – người nghệ sĩ nặng lòng với Huế, gợi liên hệ đến tình yêu thiên nhiên, ý thức giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, những giá trị từ môi trường lịch sử - văn hóa. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 7 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. - Cụ thể: Khi tìm hiều : Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế, GV có thể liên hệ và khẳng định: Sự xuất hiện một loạt các địa danh văn hóa vốn gắn liền với xứ Huế thực không vô tình, tác giả muốn nói với bạn đọc: Sông Hương chính là hiện thân, là bộ mặt, là linh hồn của văn hóa Huế. Người Việt nào cũng yêu con sông ngọn suối gắn bó với cuộc đời, với quê hương, với dân tộc mình. Thiên nhiên đã tô điểm cho cuộc sống những màu sắc, hình hài, những giá trị văn hóa lớn lao. - Từ tác phẩm đó, rút ra ý nghĩa của văn bản: Thể hiện những phát hiện , khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương. -> Liên hệ: Tuổi thơ lớn lên, trong cuộc đời mỗi người đều gắn với một con sông. Những con sông đã tô điểm cho cuộc đời và con người, những con sông như chứng nhân của thời gian, của đời người. Vì vậy, hãy yêu và bảo vệ những con sông … d5. Người lái đò sông Đà ( Nguyễn Tuân): - Khi cho HS đọc hiểu tác phẩm này, yêu cầu HS đọc kĩ và gạch tất cả những dẫn chững có liên quan đến con Sông Đà. - Với hai nét tính cách nổi bật của con sông là : Hung bạo và trữ tình, ta thấy được sự giàu có về tài nguyên và phong cảnh tuyệt vời của miền tây Tổ quốc. Từ đó, nâng cao ý thức trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên – con người, giữ gìn giá trị môi trường thiên nhiên của đất nước. - Qua bài này, GV cũng làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: Việc mô tả con sông Đà lắm thác nhiều ghềnh đã làm nổi bật hình ảnh người lái đò khỏe mạnh, lão luyện, giàu ý chí, ca ngợi thiên nhiên Tây Bắc. -> Niềm tự hào của tác giả về Tổ Quốc hùng vĩ giàu đẹp. Đoạn văn là âm hưởng của những khúc ca ca ngợi sức mạnh thiên nhiên thật hoang dại mà cũng hết sức tự do và hào phóng. Đó là biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. GV có thể liên hệ thêm về vai trò của Sông Đà trong thủy điện, đóng góp lớn lao vào cuộc sống con người. Vì vậy, chúng ta hãy yêu và bảo vệ những con sông quanh ta. d6. Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành. - Mở đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu, miêu tả rừng xà nu dưới bom đạn: Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại và đặc quyện thành từng cục máu lớn. - Kết thúc truyện cũng lại là hình ảnh rừng xà trong bom đạn của kẻ thù: “Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó, vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây đang nhú lên khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê….Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác mgoaif những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời. -> Sự xuất hiện hình ảnh rừng xà nu ở đầu và cuối thiên truyện là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Vẻ đẹp của tác phẩm là vẻ đẹp của thiên nhiên và khí phách, truyền thống của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Vẻ đẹp ấy hội tụ , ẩn chứa trong vẻ đẹp của rừng xà nu. Ấn tượng về “rừng xà nu” là ấn tượng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Xà nu hiện diện trong toàn bộ câu chuyện, gắn liền với đời sống dân làng Xô man. Rừng xà nu chịu nhiều tàn phá đau thương của bom đạn nhưng không khi nào mất đi sức sống mãnh liệt, quật cường. Rừng xà nu là hiện thân của dân làng Xô man, mỗi cây xà nu là mỗi người của dân làng Xô man, các thế hệ xà nu nối tiếp không ngừng là các thế hệ làng Xô man nối tiếp nhau đứng lên chiến đấu. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 8 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. Ý nghĩa biểu tượng của “rừng xà nu” còn là sức mạnh từ sự giao kết bền chặt giữa thiên nhiên và con người. Thiếu đi rừng xà nu là dân làng Xô man thiếu đi sức mạnh quật cường, nghệ thuật mất đi một biểu tượng sử thi đặc sắc. -> Khi đoc – hiểu văn bản, GV giúp và hướng dẫn, khơi gợi, dẫn dắt để từ việc cảm nhận vẻ đẹp của rừng xà nu trong tác phẩm, liên hệ đến ý thức bảo vệ rừng: Trong tác phẩm, rừng như là biểu tượng che chở cho dân làng, song hành cùng dân làng đánh giặc. Ông cha ta thương nói “Rừng vàng biển bạc”, chính vì vậy, chúng ta ra sức bảo vệ rừng, phủ xanh đồi trống, trồng thêm cây xanh và không được chặt phá rừng. Trong thời chiến, rừng cùng con người đánh giặc, che chở cho chúng ta. Thời bình, rừng ngăn lũ lụt, cung cấp bóng mát và khí co2… Hãy bảo vệ rừng vì cuộc sống của chúng ta. d7. Bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. - Với đề 1: Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh: Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. -> Từ việc GV gợi ý cho HS tìm hiểu đề và lập dàn ý như: Vẻ đẹp của núi rừng đêm trăng khuya được miêu tả như thế nào?( Hình ảnh Trăng, hoa, cây cổ thụ, tiếng suối…)-> HS thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên -> thêm yêu và quý thiên nhiên xung quanh ta như hài hòa với con người. - Ngoài ra, GV có thể đưa ra một số đề bài là đoạn thơ, bài thơ có liên hệ đến những vấn đề môi trương, thiên nhiên như đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu, như đoạn thơ trong Tây Tiến của Quang Dũng… d8. Bài Việt Bắc của Tố Hữu. Thông qua một số câu thơ, đoạn thơ, ta thấy được thiên nhiên Việt Bắc. Đặc biệt nhất trong nỗi nhớ là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh và người với bức tranh bốn mùa thật đẹp. Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. -> Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa. o Mùa xuân: trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ nở trắng rừng”. o Mùa hè: rực rỡ, sôi động với âm thanh “rừng phách đổ vàng”. o Mùa thu: yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hoà bình”. o Mùa đông: tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Thiên nhiên đẹp là thế và gắn bó với con người như thế, Gv dẫn dắt bằng những câu hỏi để đưa đến kết luận : Thiên nhiên rất đa dạng và đẹp qua bốn mùa khác nhau, nên chúng ta phải biết yêu thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên... GVTH: Lê Thị Thu Hằng 9 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. 2.3. Tích hợp kĩ năng sống(KNS). a. Cơ sở: - KNS( Kĩ năng sống) bao gồm một loạt các KN cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là KN tự quản bản thân và KN xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với XH, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. - Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp HS có được những hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người. - Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người. - Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Vì thế, Ngữ văn là môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục các Kĩ năng sống cho HS. b. Giải pháp: - Bồi dưỡng cho HS tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hoá; tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; lí tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ, nhân văn; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế; ý thức tôn trọng, phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại. - Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như các giá trị tốt đẹp của nhân loại; góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung, khắc sâu kiến thức đã học về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, về định hướng nghề nghiệp. - Giúp các em nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất, tinh thần của bản thân và người khác. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 10 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. + Có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hàng ngày. + Có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống. + Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống (tệ nạn xã hội, HIV/AIDS, bạo lực, nạn xâm hại tinh thần, thể xác....); giúp HS phòng ngừa những hành vi, nguy cơ có hại cho sự phát triển của cá nhân. Muốn thực hiện được điều đó, trong những giờ dạy học văn, để tiết dạy bớt nặng nề, Gv có thể kể chuyện- những chuyện mang tính giải trí nhưng giàu tính giáo dục. Đồng thời, từ những bài văn, có thể liên hệ đến thực tế để trang bị thêm cho các em hiểu thêm về cuộc sống. c. Lưu ý: - GV phải làm sao để HS có hứng thú và có nhu cầu được thể hiện các KNS mà bản thân đã rèn luyện được đồng thời biết động viên người khác cùng thực hiện các KNS đó. Từ đó, giúp các em hình thành và thay đổi hành vi, nhất là những hành vi liên quan đến lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với bản thân, bạn bè, gia đình, cộng đồng. Có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội; có ý thức định hướng nghề nghiệp. - Liên hệ, giáo dục phải rõ ràng, tránh gây sự hiểu nhầm ở HS. Tạo tâm lí tự nhiên, thích thú cho HS, làm giảm áp lực học tập và đặc biệt, giúp các em thấy môn Văn thật là gần, thật là thiết thực và bổ ích. - KNS không phải tự nhiên mà có mà phải hình thành trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục. - KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân. KNS mang tính xã hội vì nó phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa của gia đình, cộng đồng, dân tộc. d. Một số bài có thể cung cấp, trang bị cho các em các kiến thức, kĩ năng cần thiết: d1. Bài Sóng – Xuân Quỳnh. Giáo dục các em về tình yêu trong lứa tuổi học đường Qua hình tượng Sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa Sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, giúp các em nhận thức rằng: Tình yêu là một tình cảm cao đẹp của con người, là một hạnh phúc lướn lao của con người. - Ở lứa tuổi các em, phần lớn các em đã biết rung động, biết để ý và nhiều HS đã yêu. Tuy nhiên, các em còn khá non nớt và hiểu về tình yêu. Vì vậy, khi dạy đến bài này, tâm lí của HS rất hào hứng. Những HS đã yêu hào hứng đón nhận, những HS đang yêu và cả những HS chưa yêu, nhưng nhắc đến đề tài Tình yêu, hầu hết HS đều rất thích và chăm chú. Vì thế, GV một mặt phải dạy bài học để HS hiểu thêm về Xuân Quỳnh, hiểu nội dung và nghệ thuật của Sóng. Một mặt phải trang bị thêm kiến thức về tình yêu học đường. Kể chó các em nghe những câu chuyện liên quan đến tình yêu mang tính giáo dục và học tập. các em rút ra được gì sau những câu chuyện, sau những lời liên hệ bổ ích của GV -> Các em thấy mình giống và khác trong những câu chuyện như thế nào, thấy môn văn gần gũi với các em. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 11 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. d2.Bài Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 của Cô –Phi – An – Nan. Giáo dục các em biết thêm về căn bệnh thế kỉ. - Qua bài này giúp HS tự nhận thức: Nhận thức được đây là một căn bệnh thế kỷ có tính chất nóng bỏng của toàn cầu. Từ đó, xác định được trách nhiệm của mỗi cá nhân khi tham gia vào cuộc chiến đấu này, có những hành động thiết thực góp phần ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh thế kỷ. - Giao tiếp/ trình bày ý tưởng: Thảo luận, trao đổi với bạn bè, thầy cô,...về hiện trạng cuộc chiến đấu phòng chống AIDS hiện nay, tác hại, nguy cơ lây lan của căn bệnh thế kỷ và những giải pháp để góp phần vào cuộc chiến này. - Ra quyết định: Xác định những việc cá nhân và xã hội cần làm để góp phần vào cuộc chiến đấu chống lại căn bệnh thế kỉ. d3.Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Giáo dục các em biết cảm thông và rung động, biết thêm một số vấn đề mà xã hội đang quan tâm… Đây là bài mới đưa vào trong sgk, nội dung tác phẩm rất gần gũi trong cuộc sống. Những cảnh trong tác phẩm này gần như chũng ta đã bắt gặp đâu đó. Qua tác phẩm này, ngoài nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, GV có thể liên hệ thêm đến vấn đề bạo lực gia đình và nạn sinh nhiều con, nguyên nhân và hậu quả của chúng. Từ đó, giúp các em hiểu thêm về tác hại của bạo lực gia đình, của vấn đề sinh nhiều con, gia đình lại nghèo, con cái thất học…đặc biệt, lại sống nhờ trên sông nước. - Qua bài này, rèn cho HS có Kĩ năng thể hiện sự cảm thông: là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, qua đó hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ. Tham khảo: - Nhà văn Nguyễn Minh Châu thực sự đã trở thành một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học nước nhà sau năm 1975. Khuynh hướng sáng tác văn học của ông trong giai đoạn này thường hướng về cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm như thế. Bằng một tình cảm dạt dào với tấm lòng thiết tha hiểu đời, hiểu nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu không chỉ cho người đọc thấy được mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa sự lam lũ của cuộc sống và tình người bao la, mà còn lên tiếng tố cáo, đấu tranh cho một vấn nạn đầy bức xúc và nhức nhối trong xã hội: đó là bạo hành trong gia đình. Bạo hành trong gia đình không chỉ là một đề tài mà Nguyễn Minh Châu quan tâm và nhắc tới trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, mà còn là vấn nạn cả xã hội chúng ta đang đối mặt và cần phải giải quyết. . Chỉ có một nhà văn lớn mới khái quát được nhiều vấn đề như thế trong một tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã làm được điều đó. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã cho người đọc “thấy” được biết bao triết lí nhân văn cũng như đạo đức luân lí. Bạo lực gia đình trong “Chiếc thuyền ngoài xa” hiện lên một cách quá đỗi ngạc nhiên và ngỡ ngàng qua con mắt luôn chứa chan vẻ đẹp từ nghệ thuật của nhân vật Phùng. Phùng, và hẳn là nhiều bạn đọc đã bức bối trong lòng biết bao khi phải chứng kiến cảnh bạo hành này. Đó là hình ảnh một người chồng, người cha vũ phu, đánh vợ mình với chiếc thắt lưng một cách tàn bạo, vừa đánh vừa nhục mạ người đàn bà khốn khổ đó. Cảnh tượng hiện lên hệt như những trận đòi roi thời Trung cổ mà người ta vẫn rùng mình khi nghĩ đến, chỉ khác ở chỗ có lẽ người đàn bà ấy không bị trói lại và cũng không chạy trốn mà thôi. Bằng một cảnh tượng quá đỗi tàn ác ấy, Nguyễn GVTH: Lê Thị Thu Hằng 12 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. Minh Châu không chỉ dẫn dắt người đọc đi tìm hiểu thân thế người đàn bà hàng chài, mà còn cho ta thấy được biết bao là sự đời, nhân tình thế thái mà con người ta cần phải hiểu. Phải chăng vì mang hình dáng xấu xí, thô kệch, thất học hay vì cuộc sống quá lam lũ, lầm than mà người chồng đã đã đánh người vợ mình như thế. Đánh, chửi ác nghiệt tới nỗi chị ta phải xin chồng cho lên bờ đánh, để các con không phải chứng kiến cảnh đó. Thật tội nghiệp biết bao khi bức màn về cuộc đời và số phận người phụ nữ hàng chài được hé mở. Làm sao có thể sống mà mưu sinh trên vùng biển này khi không có một người đàn ông, dù cho hắn ta có đối xử như một con dã thú? Phải sống vì con cái, sống để chúng được nên người là niềm hạnh phúc của chị ta – tuy nhỏ nhoi nhưng thật cao thượng! Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài khép lại ở đó, nhưng hẳn sẽ còn để lại trong lòng độc giả bao ngổn ngang, suy tư về cuộc sống. Mối quan hệ đa chiều giữa cuộc đời và nghệ thuật không nên ở cái nhìn phiến diện. Làm sao ta có thể phán xét người, xét đời một cách xác đáng khi ta chỉ nhìn nó có một bề! Không, những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu luôn mang trong bản thân nó đầy sinh khí với những triết lí, đạo đức mà con người luôn phải trăn trở, luôn muốn hoàn thiện. Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài và nạn bạo hành gia đình trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chỉ là một cái nhìn rất bé nhỏ đối về vấn nạn này trong xã hội ngày nay. Bạo hành gia đình không chỉ là một khái niệm để chỉ các hành vi bạo lực trong gia đình, mà nó còn là một vấn nạn mà một xã hội văn minh không thể chấp nhận tồn tại với nó. Hẳn là nhà văn Nguyễn Minh Châu đã hiểu và cảm thông sâu sắc với người đàn bà hàng chài nhiều lắm khi viết nên thật xúc động những áng văn chan chứa sự hi sinh âm thầm cũng như tình cảm mẫu tử thiêng liêng ấy trong tác phẩm của minh. Nguyễn Minh Châu đã không chọn đối tượng bị bạo hành trực tiếp là người con, vì có lẽ ông hiểu rằng: người phụ nữ, người vợ trong gia đình mới là những nạn nhân chính của bạo lực gia đình. Nói như vậy có lẽ nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi, rằng chỉ có phụ nữ mới bị bạo hành thôi sao? Câu trả lời là không! Bởi lẽ không chỉ riêng phụ nữ, mà ngay tới cả nam giới cũng là nạn nhân của bạo hành trong gia đình. Từ xưa, không chỉ ở nước ta, mà còn ở nhiều nước khác, ở nhiều nền văn hóa khác, bạo hành gia đình đã không còn xa lạ. Có thể dễ dàng nhận ra bạo hành gia đình ở nhiều trường hợp, ví như việc dùng vũ lực với các thành viên trong gia đình, việc dùng lời nói để làm tổn thương tinh thần … và còn nhiều hình thái bạo hành khác. Nhưng phổ biến hơn cả, và được nhiều người biết đến hơn cả là bạo hành thể xác, tức là có những hành động như đấm, đá, tát, đánh … tác động trực tiếp tới sức khỏe nạn nhân. Ngày nay, tuy xã hội đã văn minh hơn, nhưng tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ” vẫn tồn tại song song với đó. Có lẽ điều tiến bộ hơn chỉ là người phụ nữ được bảo vệ và đối xử công bằng với nam giới bởi nhiều chính sách tiến bộ của Nhà nước mà thôi, ví như phụ nữ được đi học, được tham gia hoạt động cộng đồng, chính trị, tôn giáo … “Chiếc thuyền ngoài xa”, nguyên nhân chủ yếu khiến người đàn bà hàng chài đó bị đánh là vì cứ mỗi khi khổ quá, anh chồng lại lôi chị ra đánh. Rõ ràng hoàn cảnh và điều kiện sống cũng là một nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, đó là còn chưa kể tới những hệ lụy của nó. Cái gì quá khó khăn, quá vất vả thường khiến con người ta ích kỉ và tàn nhẫn hơn, khó mà giữ được mình trong sạch, giữ mình là mình nữa. Chính vì thế, khi ý thức được về bạo hành trong gia đình và nhân quyền, con người ta đã ngày càng tiếp thu và học hỏi nhiều hơn để xây dựng xã hội thêm văn minh. Bạo hành trong gia đình chính là nguyên nhân của nhiều hậu quả thương tâm. Nhiều cặp vợ chồng đã đưa nhau ra tòa li dị, để lại cho nhau nhiều tổn thương, để lại cho đàn con bơ vơ những kí ức đen tối, không hay về mái ấm, về cha mẹ GVTH: Lê Thị Thu Hằng 13 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. Hãy cùng nhìn lại mọi chuyện mà xem, hãy lật lại những trang viết mà Nguyễn Minh Châu đã viết trong “Chiếc thuyền ngoài xa” mà xem. Người đàn bà hàng chài ấy đã van xin được chồng cho lên bờ mà đánh, chỉ vì chị ta hiểu rằng không nên để con thấy những cảnh như thế! Tâm hồn con trẻ cần được nuôi dưỡng trong một môi trường trong sạch, hãy để chúng phát triển nên người trong hạnh phúc, bình yên. Một khi những tâm hồn và con tim non nớt đó bị chai sạn vì tổn thương, chúng sẽ không thể là những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên như bản chất của chúng nữa. Cuộc sống ấm no về vật chất sẽ là nền móng vững vàng cho những tiến bộ về tinh thần. Đó là về vấn đề chung của cộng đồng. Còn đối với từng “tế bào” của xã hội, tức là đối với từng gia đình, từng tổ ấm, thì mỗi thành viên phải cùng sống chan hòa, yêu thương lẫn nhau. Điều quan trọng hơn cả chính là sự hiểu nhau, có hiểu nhau thì ta mới có thể thông cảm cho hoàn cảnh của người khác. “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu hẳn không chỉ kết thúc ở đó, nó còn để lại biết bao bài học cho mỗi người. Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài mở ra cho mỗi chúng ta những suy nghĩ đau đáu về cuộc đời và hạnh phúc của mỗi thành viên trong gia đình. Bạo hành trong gia đình – vấn đề nhức nhối của mỗi cộng đồng, mỗi đất nước liệu có bao giờ kết thúc? Câu trả lời nằm ở mỗi chúng ta - là những chủ nhân tương lai của đất nước. Tôi tin rằng chúng ta sẽ là những thế hệ mang đủ niềm tin, nghị lực và ý chí để cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp hơn. Hạnh phúc gia đình là động lực cho sự thành công của mỗi con người, là sự thịnh vượng của mỗi xã hội, là bằng chứng văn minh cho sự tiến bộ của loài người! Nói tóm lại, qua bài này, GV giáo dục cho HS : - Biết và khắc sâu hơn về tấm lòng của người mẹ. Người đàn bà trong tác phẩm nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung: yêu thương con vô bờ bến, hi sinh và chịu đựng tất cả vì con. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể nào quên được câu trả lời của người đàn bà ở Tòa án huyện: “Vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. - Giáo dục cho HS: nguyên nhân dẫn đến người đàn ông trong tác phẩm vì sao lại đánh vợ?từ đó, suy ra cuộc đời. - Giáo dục cho HS thấy hậu quả của việc sinh con nhiều ( “giá tôi đẻ ít đi” như người đàn bà đã nói), lại nghèo khổ, sống chật chội, dẫn đến các con thất học, chồng đánh vợ…. -> Từ đó, các em hiểu hơn về tác phẩm, hiểu hơn về cuộc đời. Nhân vật người đàn bà và những gì liên quan sẽ khắc sâu trong tâm trí của các em. Giúp các em biết nhìn đa diện hơn về cuộc đời, hiểu thêm nhiều vấn đề trong cuộc đời, biết cảm thông cho nỗi đau người khác. d4. Bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt ( trích) của Lưu Quang Vũ. Giáo dục về lối sống của con người. - Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh giữa các mặt khác nhau trong một con người, tác giả muốn nhắn gửi: Con người cần chăm sóc nội dung và hình thức, con người nhu cầu và con người thiên chức, cái cao cả và cái tầm thường để thống nhất, hài hoà giữa hồn và xác. => Lời cảnh báo của tác giả: Khi con người phải sống trong dung tục thì sớm hay muộn những phảm chất tốt đẹp cũng sẽ bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá. Vì thế, phải đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhan văn hơn. - Qua đối thoại giữa hồn với Đế Thích: + Cho thấy cái nhìn quan liêu, hời hợt về cuộc sống của con người. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 14 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. + Khẳng định không thể chữa sai bằng cách vá víu, tạm bợ; nếu không sẽ càng trầm trọng (vì nó không đem lại kết quả tốt đẹp mà gây ra tai hoạ cho nhiều người tốt, tạo cơ hội cho những kẻ xấu sách nhiễu, làm vẫn đục cuộc sống). - Đoạn kết: qua lời thoại của Trương Ba và cái Gái: Kết thúc vở kịch, hồn TB chấp nhận cái chết , một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực. -> GV rút ra giá trị tư tưởng: - Phê phán: + 2 quan niệm sống lệch hoặc chỉ chú trọng đến thân xác, ham muốn vật chất, hoặc chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần. + Lối sống giả tạo làm con người có nguy cơ rơi vào con đường tha hoá, đánh mất mình. + Những tiêu cực trong xã hội: lối sống và cái nhìn hời hợt, sửa cái sai này bằng cái sai khác. - Kêu gọi con người hãy sống là chính mình, biết đấu tranh để hoàn thiện nhân cách. → Giá trị nhân văn của tác phẩm. - Nói tóm lại, đây là vở kịch đầy ý nghĩa, từ tác phẩm, GV định hướng cho các em rút ra những bài học bổ ích cho chính mình. Sau đó, khẳng định lại ý nghĩa của văn bản: Một trong những điều quý giá nhất của mỗi con người là được sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hòa tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn. d5. Qua bài Tây Tiến ( Quang Dũng), giáo dục tinh thần yêu nước của tuổi trẻ, lí tưởng “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” d6. Qua bài Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, giáo dục tinh thần yêu nước, căm thù giặc. d7. Qua bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm: - Giáo dục tinh thần yêu nước và hiểu thêm về Đất Nước: ĐN không ở đâu xa mà ở trong căn nhà, trong hạt gạo ta ăn hàng ngày, trong môi trường học tập, sinh hoạt…và ở ngay trong mỗi chúng ta, vì vậy, chúng ta hãy bảo vệ và yêu ĐN như yêu cơ thể chúng ta…chúng ta phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ đất nước…. - Giáo dục lòng tự hào về nguồn gốc, về dân tộc, về truyền thống tốt đẹp của con người VN-> giúp HS thêm yêu cội nguồn và đất nước -> ra sức học tập... - GV đặt vấn đề : Bản thân em cần có trách nhiệm và nghĩa vụ gì với ĐN ?-> Ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức... như vậy cũng là cống hiến, là góp sức mình cho ĐN thêm giàu mạnh... d8. Qua diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), giáo dục các em về sức sống mãnh liệt của con người… d9. Qua Vợ nhặt của Kim Lân, giáo dục tấm lòng nhân ái, cưu mang , để khẳng định: ngay trên bờ vực của cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Ngoài ra, ở tất cả các tác phẩm, tùy theo mức độ, chúng ta đều có thể kết hợp giáo dục cho các em. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 15 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. 2.4. Tích hợp tri thức văn hóa: a. Cơ sở: Dựa vào nội dung của một số tác phẩm, GV có thể khai thác khía cạnh về tri thức văn hóa, nghĩa là cung cấp thêm một số thông tin để từ đó, các em hiểu thêm về văn hóa, thấy yêu và quý văn hóa của con người tạo ra. b. Giải pháp: Đưa thêm thông tin về văn hóa qua một số tác phẩm. c. Lưu ý: cung cấp thêm , không làm nặng thêm kiến thức bài học. d. Một số bài có thể cung cấp thêm: d1. Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường GV có thể nói thêm cho Hs những nét văn hóa cổ kính của Huế: Huế cũng như mỗi vùng, miền khác trên đất nước ta đều có những sắc thái văn hóa địa phương độc đáo. Cùng với Thăng Long, Huế là kinh đô của nước Việt trong nhiều thế kỷ. Nói đến Huế, không chỉ là Huế trong phạm vi hành chính hiện nay, mà Huế là cả địa bàn Châu Hóa xưa, nay là tỉnh Thừa Thiên Huế, từ Mỹ Chánh đến Lăng Cô, từ núi đồi Trương Sơn đến đầm phá ra biển Đông. Vì vậy, có thể khái quát một số đặc điểm tiêu biểu của văn hóa Huế như sau: - Văn hóa Huế, một nền văn hóa của sự hài hòa và gắn bó giữa môi trường sống và chủ nhân của nó (Huế không chỉ là xứ sở của sông Hương - núi Ngự mà Huế có đủ núi - đồi, sông - biển, đầm - phá, đất - cát, cồn - bàu. Huế có núi đồi nhấp nhô với Kim Phụng, Ngự Bình, Vọng Cảnh; có dòng sông êm đềm với Hương Giang, An Cựu, Như Ý, Lợi Nông; có đầm Chuồn, Cầu Hai; có phá Tam Giang; lại có Cồn Hến, Giã Viên v.v... Huế có tất cả đất núi đồi, đất thịt và cả đất cát ven phá, ven biển... Không những thế, thiên nhiên Huế lại quyện vào nhau, sơn thủy hữu tình, phong cảnh kỳ thú. Sống trong khung cảnh thiên nhiên hòa quyện như vậy, con người Huế đã sớm đùm bọc, gắn bó với nhau, kể từ ngày vào mảnh đất làm "quà cưới" này lập làng, sinh sống. Con người đã biết dựa vào và biến đổi cái tự nhiên của Huế để sáng tạo nên lịch sử - văn hóa Huế. Cái hài hòa, êm đềm của phong cảnh Huế đã ăn nhập vào con người Huế nhuần nhị và sâu lắng.) - Văn hóa Huế, một nền văn hóa được làm giàu bởi các dòng văn hóa đô thị - văn hóa làng (chùa) và văn hóa cung đình (bác học) - văn hóa dân gian không có sự đối lập, loại trừ. - Văn hóa Huế, một nền văn hóa của cái đẹp trong nghệ thuật kiến trúc và phong cách sống. - Nét riêng của văn hóa Huế còn được thể hiện qua ăn nói, ăn mặc, ăn uống, ăn học và cả ăn chơi của người Huế. GVTH: Lê Thị Thu Hằng 16 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. Tóm lại, GV có thể nói thêm về những địa danh ở Huế mà Sông Hương chảy qua, cung cấp thêm những câu chuyện về sông Hương, về Chùa Thiên Mụ…để tăng hiểu biết về văn hóa, và tạo cảm giác linh thiêng của mảnh đất Thần Kinh. d2.Bài Vợ chồng Aphủ của Tô Hoài. Qua tác phẩm này, Tô Hoài đã thể hiện sự hiểu biết rất sâu sắc và phong phú về phong tục, tập quán của người miền núi Tây Bắc.Vì vậy, khi dạy tác phẩm này, GV có thể cung cấp thêm một số phong tục của người dân tộc miền núi. - Đoạn nói về Mị bị ASử bắt về làm vợ…, GV có thể nói thêm về tục cưới hỏi ở đây, để giúp HS thấy được sự khác nhau của tục cưới hỏi ở đó với tục cưới xin bây giờ ở đồng bằng, ở người Kinh chúng ta. - Tục cưới hỏi Lễ cưới (người H'Mông): Người con trai phải biết về sáo H'Mông, kềnh H'Mông, vào các đêm thổi trước cửa nhà cô gái. Nếu điệu sáo hay điệu kềnh thu hút được lòng cô gái thì cô gái sẽ đi ra trò chuyện. Vào các ngày lễ hội để mong được người bạn gái để ý đến, người con trai cũng thể hiện làn điệu nhạc để thu hút bạn gái. + Nếu người bạn gái đồng ý thì hẹn bạn trai làm một thủ tục Bắt vợ. Theo tục bắt vợ của người Mông, sau ba ngày bắt được vợ, người con trai phải cùng bố mẹ đẻ đem lễ vật gồm thịt lợn, thịt gà, rượu sang nhà gái để tạ ơn và làm vía thành hôn đồng ý cho hai người lấy nhau. Sau khi làm vía, người con trai phải cùng vợ ngủ lại nhà gái một đêm rồi sáng mai mới được về sớm. Bắt được vợ rồi thì hai người có thể về chung sống với nhau đến lúc nào có điều kiện kinh tế khá giả thì mới tổ chức đám cưới, thậm chí có những đôi ở với nhau có con rồi cưới cũng chẳng sao. + Ngày nay thủ tục này có phần thay đổi khác tiến bộ hơn, biến đổi giống người Kinh. Người con gái tìm hiểu kỹ hơn, tự do lựa chọn người bạn đời - GV có thể nói thêm phong tục xử kiện, phong tục đón Tết, tục trình ma, đêm tình mùa xuân, tục phạt trói đứng…mà trong tác phẩm đã có nới đến để HS hiểu thêm về kiến thức, vừa thấy thoải mái hơn trong tiết học văn. d3. Bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Trong quá trình phân tích bài thơ này, đặc biệt là đoạn thơ đầu, GV có thể cung cấp thêm về một số văn hóa của đất nước ta như: - Phong tục ăn Trầu Cau, tập tục bới tóc của người phụ nữ ngày xưa, văn hóa ở nhà của người Việt và đặc biệt là văn minh lúa nước…. - Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã -> giáo dục các em về nền văn minh nước nhà, để có được hạt gạo ta ăn, người làm ra nó phải trải qua biết bao công đoạn: xay, giã, giần, sàng…để các em thêm quý trọng hạt gạo, quý trọng công sức lao động… GVTH: Lê Thị Thu Hằng 17 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. 2.5. Giáo án minh họa cho những giải pháp của đề tài: ( Minh họa cho việc có tích hợp môi trường và tích hợp tri thức văn hóa ) Bài: Đọc – hiểu: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) I/ Mức độ cần đạt: - Thấy được tình yêu, niềm tự hào của tác giả đối với sông Hương xứ Huế. - Cảm nhận được vẻ đẹp của sông Hương và cố đô Huế với phong cảnh hữu tình, với bề dày văn hóa thâm sâu. - Hiểu được đặc trưng của thể loại bút kí và đặc sắc nghệ thuật của bài kí. - Về tư tưởng, thái độ: + Giáo dục cho HS tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước, tự hào và quý trọng về truyền thống và những giá trị văn hóa cao đẹp của dân tộc. + Ý thức được vai trò của mình trong quá trình giữ gìn và phát huy những giá trị và vẻ đẹp của nền văn hóa Việt. II/ Trọng tâm kiến thức, kĩ năng: 1. Kiến thức: - Vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của sông Hương và tình yêu, niềm tự hào của tác giả đối với dòng sông quê hương, xứ Huế thân thương và đất nước. - Lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình ảnh và nhịp điệu, nhiều so sánh , liên tưởng mới mẻ, bất ngờ, thú vị, nhiều ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ được sử dụng tài tình. 2. Kĩ năng: - Đọc hiểu thể kí văn học theo đặc trưng thể loại. - Rèn luyện cho HS khả năng cảm thụ tác phẩm văn chương theo hướng tiếp cận văn hóa. III. Phương tiện thực hiện - Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án. - Sách chuẩn kiến thức, sách tham khảo khác, bài viết về chuyên đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”… - Tư liệu về tranh ảnh tác giả, về sông Hương, xứ Huế,… IV/ Phương pháp thực hiện: - Đọc - hiểu kết hợp với câu hỏi nêu vấn đề. - Gợi mở, phát vấn, thuyết giảng. V/ Tiến trình lên lớp 1. Ổn định lớp: KTSS 2. Kiểm tra bài : không kiểm tra – tiết trước luyện tập 3. Bài mới: GV dẫn vào bài…. Trên dải đất cong cong mềm mại này có biết bao nhiêu dòng sông cho tình nhân soi bóng, cho con người chiêm ngưỡng yêu thương và suy tưởng cội nguồn…. - Tế Hanh đi xa mà lòng đau đáu “Nhớ con sông quê hương” biếc xanh có nước gương trong soi bóng những hàng tre. - Nguyễn Khắc Hiếu cung kính lấy tên sông đặt cho một nửa tên mình trong đời cầm bút - Nguyễn Tuân gọi sông Đà là “cố nhân” GVTH: Lê Thị Thu Hằng 18 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. - Nguyễn Khoa Điềm cảm khái : ôi những dòng sông bắt nước từ đâu, mà khi về Đất Nước mình thì cất lên tiếng hát - Viết về sông Hương, người con xứ Huế tài hoa và tâm hồn mềm mại đã trân trọng cái nhìn bâng khuâng của một nhà thơ Hà Nội, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông Hương và hỏi trời, hởi đất : ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoạt động của GV và HS - GV: Gọi HS đọc tiểu dẫn SGK. * Tác giả: + Vài nét về tác giả? + Phong cách nhà văn? + Những tác phẩm tiêu biểu? * GV khái quát: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tri thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên về bút kí, là “ một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên Ngọc), sáng tác luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giũa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận và tư duy đa chiều với một lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. -> HS trả lời, GV hướng dẫn HS gạch chân sgk những kiến thức liên quan tác giả. Hãy nêu xuất xứ của tác phẩm? Yêu cầu cần đạt I. Tìm hiểu chung 1.Tác giả ( sgk / 197 ) Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế, nguyên quán tỉnh Quảng Trị. - Học Trung học tại Huế, tốt nghiệp ĐHSP Sài Gòn năm 1960 và Đại học Huế năm 1964. 1966 thoát li lên chiến khu. - Từng là: Tổng thư ký Hội văn học nghệ thuật Trị Thiên - Huế, Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế,… - Là một trong những nhà văn chuyên về thể loại bút kí. - Phong cách: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. - 2007: ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. - Các tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu ( 1971)…(SGK) 2. Tác phẩm a/ Xuất xứ: (sgk) viết tại Huế ngày 4/1/1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm ba phần, đoạn trích học trong sgk là phần thứ nhất. b/ Thể loại: Thể kí( nghiên về tùy bút) giàu chất trữ tình, giàu lượng thông tin. c/ Bố cục: 3 phần: - Đoạn 1: Sông Hương nhìn từ cội nguồn. - Đoạn 2: Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế. - Đoạn 3: Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca. - Qua việc chuẩn bị bài ở nhà, hãy phân chia bố cục của văn bản?Nêu ý chính mỗi đoạn? + Đoạn 1: Từ đầu đến “dưới chân núi Kim Phụng” + Đoạn 2: Từ “Phải nhiều thế kỷ” đến “quê hương xứ sở” + Đoạn 3: Còn lại Hoạt động 2: Hướng dẫn HS đọc hiểu II. Đọc - hiểu văn bản: văn bản GV hướng dẫn HS phân tích giá trị nội GVTH: Lê Thị Thu Hằng 19 Liên hệ thực tế mang tính giáo dục ở một số bài trong môn Ngữ Văn 12. dung và nghệ thuật của đoạn trích. HS chú ý vào phần dẫn dắt và yêu cầu của giáo viên khi chuyển sang phần hai. - GV hướng dẫn lại cách đọc, vì HS đã đọc ở nhà và đã tìm hiểu chú thích. GV dẫn vào tìm hiểu. * GV: Sông Hương vùng thượng lưu được tác giả miêu tả như thế nào? Những hình ảnh, chi tiết, những liên tưởng và thủ pháp nghệ thuật nào cho thấy nét riêng trong lối viết kí của tác giả? - HS đọc SGK và trả lời câu hỏi trên cơ sở đã soạn bài ở nhà. - GV gợi ý dẫn dắt: + Trước khi về vùng châu thổ êm đềm, sông Hương được cảm nhận như thế nào?( HS trả lời, GV nhấn lại và cho HS gạch dẫn chứng sgk - GV có thể so sánh với Nguyễn Tuân khi nói về Sông Đà +Di gan: một tộc người thích sống lang thang tự do… - Sông Hương có quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. …Theo tác giả: nếu chỉ mải mê nhìn ngắm dòng sông ở kinh thành thì sẽ …thì không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ… - Gv nói thêm về mẹ phù sa - GV giảng thêm về “Sử thi buồn” + “…chế ngự bản năng ở người con gái…xứ sở” -> sông Hương thay đổi về tính cách, dịu dàng và trí tuệ, là “mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” * GV: Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố được tác giả miêu tả như thế nào? Hiệu quả thẩm mỹ của lối viết đó? * GV dẫn dắt gợi ý: + Ra khỏi rừng núi + Giữa cánh đồng Châu Hóa + Từ ngã ba Tuần - HS dựa vào việc chuẩn bị ở nhà, đọc GVTH: Lê Thị Thu Hằng 1. Gía trị nội dung: a. Sông Hương nhìn từ cội nguồn : - Sông Hương có quan hệ với dãy Trường Sơn, “là một bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: +Lúc “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” + Lúc “mãnh liệt qua những ghềnh thác” + Lúc” cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực”. + Lúc“ trở nên dịu dàng và say đắm... hoa đỗ quyên rừng” -> sông Hương hiện ra tựa cô gái Di gan phóng khoáng, man dại vói bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng. => Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa và cảm nhận hướng nội tài hoa của tác giả, đời sông tựa như đời người nên sông Hương vùng thượng nguồn mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính mà theo tác giả , không tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn khó mà hiểu hết vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm của lòng sông. b. Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế: * Sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố: - Ra khỏi rừng núi, Sông Hương thay đổi về tính cách, dịu dàng và trí tuệ, là “mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” - Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại -> Sông Hương như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng” - SH “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, uống mình theo những đường cong thật mềm” - Từ ngã ba Tuần đến điện Hòn Chén…Ngọc Trản… 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan