Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học vật lí 9...

Tài liệu Skkn kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học vật lí 9

.DOC
26
471
130

Mô tả:

1 I.TÊN ĐỀ TÀI: KINH NGHIỆM TÍCH HỢP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 9 II. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1.Tấm quan trọng của vấn đề: Chúng ta biết môi trường là không gian sinh sống của con người và sinh vật, là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất, là nơi chứa đựng và phân hủy các chất thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất…Môi trường có vai trò cực kì quan trọng đối với đời sống con người. Đó không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi lao động, nghỉ ngơi, hưởng thụ và trau dồi những nét đẹp văn hóa thẩm mĩ…Vậy nhưng chúng ta thấy hiện nay vấn đề môi trường đang là vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu, nó đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại, và sự sống của con người đang ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, bởi môi trường bị suy thoái… Đặc biệt ở Việt nam, với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế – xã hội trong những năm qua đã làm đổi mới xã hội, chỉ số tăng tưởng kinh tế không ngừng được nâng cao. Tuy vậy, sự phát triển kinh tế chưa đảm bảo cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Vì thế môi trường Việt nam đã xuống cấp, nhiều nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề môi trường. Hoạt động bảo vệ môi trường được các cấp các ngành và đông đảo tầng lớp nhân dân quan tâm và bước đầu đã thu được một số thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc bảo vệ môi trường ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 2 xã hội trong thời kì đổi mới. Nhìn chung môi trường của nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có lúc có nơi đã bị báo động. Chính vì vậy, mà ngày 31/1/2005 Bộ trưởng bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã chỉ thị về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường, xác định trọng tâm đến năm 2020 cho giáo dục phổ thông là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường bằng nhiều hình thức phù hợp trong các môn học. Riêng đối với bộ môn Vật lý thì việc giáo dục môi trường là rất quan trọng, vì Vật lý là cơ sở của nhiều ngành kỹ thuật và công nghệ quan trọng.Từ đó tôi nhận thấy cần phải nâng cao hơn nữa việc giáo dục môi trường trong môn Vật lý. Tôi chọn Vật lý khối 9 cho việc đẩy mạnh tích hợp giáo dục môi trường nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống dưới góc nhìn bộ môn. 2.Tóm tắt thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu: Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có học sinh. Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm, thậm chí thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần giáo dục học sinh biết cách bảo vệ môi trường, trước hết là môi trường sống xung quanh các em.Trong quá trình dạy học Vật lí, tôi chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn chưa thường xuyên, đôi khi còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi với đời sống thực tế học sinh. Trong khi đó,Vật lí là môn khoa học mang tính thực tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có thể vừa đưa ra các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội dung trong các bài học cụ thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính điều này sẽ có tác dụng kích thích óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học tập, mở rộng sự hiểu biết của học sinh, đặc biệt là hướng sự quan tâm của các em tới môi trường để từ đó biết cách bảo vệ môi trường. Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 3 3. Lí do chọn đề tài: Không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của môi trường đối với đời sống con người. Bởi môi trường không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên, các chất thải của đời sống và sản xuất, đồng thời là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Nhưng môi trường hiện nay đang xuống cấp, nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Vì vậy, môi trường cần được bảo vệ, bảo vệ môi trường hiện nay đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Ở nước ta, đó cũng là vấn đề được quan tâm sâu sắc của tất cả các ngành, các cấp. Năm 2005, ngành giáo dục đã có Chỉ thị về việc tăng cường giáo dục bảo vệ môi trường, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường bằng nhiều hình thức phù hợp như thông qua các môn học và hoạt động ngoại khoá... Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu đề ra, cùng với các môn học khác, trong quá trình giảng dạy Vật lí việc lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường là vấn đề không thể thiếu.Qua thực tế mà tôi tạm gọi là “Vấn nạn môi trường” tại địa phương, cũng như sự ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường đến sức khỏe, cuộc sống của con người. Qua đợt học tập về tích hợp giáo dục môi trường cho môn học Vật lý theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, của ngành GD-ĐT về công tác bảo vệ môi trường . Tôi nhận thấy việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đến với học sinh là cần thiết và rất quan trọng. Các em là những người chủ của tương lai, những người sẽ trực tiếp quản lý, chịu ảnh hưởng của môi trường sống. Vì thế các em hãy có ý thức bảo vệ môi trường và phải có trách nhiệm với môi trường mình đang sống. Đối với bộ môn Vật lý khối lớp 9 việc tích hợp để giáo dục môi trường là vấn đề không đơn giản. Nếu giáo dục không phù hợp, thiếu lô gíc, Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 4 rất có thể gây phản tác dụng, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý và nhận thức về việc bảo vệ môi trường của các em. Hơn nữa với thực tại hầu hết giáo viên chỉ chú trọng quan tâm truyền đạt kiến thức khoa học trong tiết dạy là chủ yếu, giáo dục môi trường chỉ là vấn đề thứ yếu , không được xem trọng. Tôi đã nhiều lần trăn trở để tìm ra cách tích hợp giáo dục môi trường vào môn Vật lý 9 sao cho nhẹ nhàng mà đem lại hiệu quả cao nhất Với tâm lý của các em thì dường như việc bảo vệ môi trường là của người lớn. Làm thay đổi được suy nghĩ này đã khó, tạo nhận thức và thói quen bảo vệ môi trường trong các em còn khó hơn nhiều. Tôi lấy việc môi trường ở xung quanh em: Ở nhà, ở lớp học … để hướng các em đến với việc bảo vệ môi trường là không của riêng ai. Trực nhật, vệ sinh lớp học, vệ sinh cá nhân có tạo cho em cảm giác thoải mái, tự tin trong các hoạt động. Từ những bước cơ bản và tranh thủ giáo dục ý thức bảo vệ môi trường từ cha mẹ, ông bà và từ những môn học khác. Tôi đưa các em vào giáo dục môi trường lồng ghép trong các bài học Vật lý lớp 9 một cách nhẹ nhàng, không gây nhàm chán, gò ép. 4.Phạm vi thực hiện đề tài: Với mong muốn từng bước làm thay đổi nhận thức của học sinh góp phần nhỏ vào việc cải thiện môi trường sống của con người trong đề tài này tôi chỉ đề cập một khía cạnh nhỏ “ Kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học vật lí 9” III. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Môi trường được hiểu là bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng đến đời sống và sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Vậy nhưng môi trường – lá phổi xanh, nguồn máu-đó của con người đang ngày càng bị tổn thương Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 5 nghiêm trọng. Những hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng đe dọa cuộc sống của loài người, cụ thể như: trái đất đang ngày bị nóng lên, tầng ô dôn bị thủng, các nguồn tài nguyên khác đang ngày bị cạn kiệt, thu hẹp…Hậu quả là thiên tai, lũ lụt xảy ra khắp nơi; hạn hán kéo dài, nhiều sinh vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, băng tan nước mặn tràn ngập khiến ngành nông nghiệp bị tổn thất nặng nề… Mà một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là ý thức của người dân về vấn đề môi trường còn kém. Họ nghĩ môi trường là của chung, ai lo được thì lo còn đó không phải việc của họ, cho nên trái đất đang lên tiếng kêu cứu… Nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong công cuộc xây dựng và phát nước, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và phát triển xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia. Vì vậy, nhiều văn bản được ban hành để thể chế hóa bảo vệ môi trường (BVMT), trong đó có công tác giáo dục bảo vệ môi trường, cụ thể: Ngày 17/10/2001 Thủ tướng kí quyết định 1363/QĐ-TTG về việc phê duyệt đề án: “Đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân” với mục tiêu: “Giáo dục học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng về BVMT”. Ngày 15/11/2004 Bộ chính trị đã ra NQ 41/NQ /TƯ về: “Bảo vệ môi trường trong thời kì xây dựng công nghiệp hóa –hiện đại hóa đất nước” – nghị quyết đã coi tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức là giải pháp số một trong bảy giải pháp BVMT của nước ta và chủ trương: “Đưa nội dung giáo dục BVMT vào chương trình Sách Giáo Khoa của hệ thống giáo dục quốc dân tăng dần thời lượng và tiến tới hình thành môn học chính khóa đối với các cấp học phổ thông”… Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 6 Cụ thể hóa và triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 31 tháng 1 năm 2005, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo ra chỉ thị “ về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”. Chỉ thị đã xác định nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến năm 2010 cho giáo dục phổ thông là “ trang bị cho học sinh kiến thức và kĩ năng về môi trường bằng hình thức phù hợp trong các môn học …” Trên tinh thần đó, Bộ giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa nội dung tích hợp giáo dục BVMT vào các môn học thực hiện từ năm học 20082009. Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ lựa chọn một số trường áp dụng thí điểm để tiến tới nhân rộng áp dụng đại trà cho những năm học sau. Và Bộ Giáo dục cũng xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc giáo dục môi trường trong nhà trường THCS như sau: - Về mục tiêu: - Nhận thức: + Có ý thức cao trong việc bảo vệ sức khỏe, bảo vệ thiên nhiên, giữ gìn cảnh quan sử dụng nguồn năng lượng. + Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường và các tác động của vấn đề môi trường và các tác động của vấn đề môi trường đối với bản thân, gia đình và địa phương. - Kỹ năng: + Có kỹ năng sống phát hiện vấn đề môi trường và xử lý kịp thời, dự đoán và cảnh báo các vấn đề môi trường. - Thái độ: + Bảo vệ, cải tạo và phát triển môi trường. + Tham gia, hành động vì môi trường vận động những người xung quanh cùng hành động. Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 7 -Về nguyên tắc tích hợp: + Chỉ tích hợp những bài thực sự có liên quan đến môi trường, không gượng ép, không tích hợp tràn lan, …, đảm bảo khai thác nội dung giáo dục môi trường một cách tự nhiên, hợp lí đạt hiệu quả cao. + Đảm bảo được đặc trưng bộ môn, không biến giờ học thành giờ trình bày về giáo dục môi trường. Giáo dục môi trường chỉ là nội dung tích hợp một cách tự nhiên, hợp lí, hòa đồng với kiến thức bộ môn. + Không làm tăng nội dung học tập dẫn đến quá tải. Các phương tiện về môi trường cần nghiên cứu kĩ, chọn lọc cẩn thận gia công về cách thức dẫn dắt liên hệ, đảm bảo cho học sinh vừa nắm vững kiến thức chuyên môn, vừa tăng thêm kiến thức về môi trường, có ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường và tuyên truyền cho người khác. + Chia nhỏ rãi đều vấn đề môi trường vào bài một cách hợp lí. + Đảm bảo tính hấp dẫn các hoạt động thực tiễn về môi trường Như vậy , giáo dục BVMT trong trường học có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu về bảo vệ Trái Đất ddeerddamr bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, đông thời qua đó ta thấy tầm quan trọng của việc giáo dục BVMT nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh về môi trường và BVMT. IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có học sinh. Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm, thậm chí thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần giáo dục học sinh biết cách bảo vệ môi trường, trước hết là môi trường sống xung quanh các em. Trong quá trình dạy học Vật lí chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 8 chưa thường xuyên, đôi khi còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi với đời sống thực tế học sinh. Trong khi đó, Vật lí là môn khoa học mang tính thực tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có thể vừa đưa ra các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội dung trong các bài học cụ thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính điều này sẽ có tác dụng kích thích óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học tập, mở rộng sự hiểu biết của học sinh, đặc biệt là hướng sự quan tâm của các em tới môi trường để từ đó biết cách bảo vệ môi trường. - Thời lượng của một tiết học còn hạn chế (45ph) do đó giáo viên giảng dạy ngại đi sâu vào việc tích hợp nội dung bảo vệ môi trường. - Do điều kiện phục vụ dạy học, cơ sở vật chất trang thiết bị còn thiếu, tài liệu, sách báo cho GV và HS tham khảo chưa được phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu và hấp dẫn học sinh. - Kĩ năng sử dụng các phương tiện phục vụ việc dạy học hiện đại của giáo viên còn hạn chế. Như việc sử dụng máy vi tính để chuẩn bị bài, cập nhật lưu trữ thông tin; sử dụng máy chiếu projecter để giảng dạy, sưu tầm các tư liệu điện tử, tranh ảnh, phim liên quan đến môi trường . V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 1. Cơ sở đề xuất giải pháp: Hiện nay chúng ta đang đứng trước tình trạng môi trường bị suy thoái nghiêm trọng. Nguyên nhân do sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp đã thải ra môi trường một lượng khí thải rất lớn, làm ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường sống. Tuy nhiên việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường như trên sẽ không đem lại hiệu quả, học sinh sẽ không hiểu biết về tác động của môi trường đối với loài người, như thế sẽ làm môi trường ngày càng mất cân bằng về sinh thái, đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống con người. Để cho nội dung tích hợp giáo Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 9 dục bảo vệ môi trường có hiệu quả tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp tích hợp. 2. Các giải pháp chủ yếu: 2.1.Xác định mục tiêu giáo dục môi trường: Nghiên cứu chương trình, SGK để xây dựng mục tiêu dạy học, trong đó có các mục tiêu GDMT. Việc nghiên cứu chương trình, nội dung SGK cho phép GV xây dựng kế họach dạy học phù hợp cho toàn bộ chương trình bộ môn, cho từng phần của môn học, từng chương cũng như từng bài học. Nhờ việc phân tích chương trình SGK, GV có được cái nhìn tổng thể về các đơn vị kiến thức, kĩ năng, thấy được mối liên hệ giữa chúng và dễ phát hiện các cơ hội tích hợp nội dung GDMT vào từng đơn vị kiến thức một cách hợp lí, từ đó lập kế hoạch khai thác các nội dung GDMT trong suốt quá trình dạy học mà không sa vào tình huống ngẫu nhiên, tuỳ tiện làm quá tải bài học, hoặc trùng lặp, hoặc không đưa ra được các tình huống GDMT thực sự có ý nghĩa thuyết phục. Kết thúc quá trình này GV có thể đưa ra một sơ đồ lôgic xây dựng kiến thức một cách phù hợp. Việc làm này sẽ cho cái nhìn trực quan về mối liên hệ giữa các kiến thức, cho phép xác định hợp lí các tình huống sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học thích hợp. Nó cũng cho phép xác định hợp lí các cơ hội tích hợp nội dung GDMT vào bài học. 2.2.Xây dựng nội dung tích hợp phù hợp với nội dung bài học: Căn cứ vào mối liên hệ giữa kiến thức bộ môn và nội dung GDMT, GV cần làm rõ sẽ tích hợp nội dung GDMT nào là hợp lí, thời lượng dành cho nó là bao nhiêu. Theo các nguyên tắc chung về GDMT thì các nội dung môi trường càng gần với kinh nghiệm sống của HS thì càng tốt, đặc biệt có ý nghĩa là các nội dung đề cập tới vấn đề môi trường sinh thái của địa phương. Vì vậy, với cùng một nội dung tri thức vật lí trong SGK, song khi dạy cho HS ở các vùng miền khác nhau, GV cần có cách khai thác nội dung GDMT khác nhau. Nói một cách khác, căn cứ vào đối tượng HS khác nhau, GV sẽ xây dựng các tình Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 10 huống tích hợp nội dung GDMT khác nhau.Để học sinh nhận thức đúng về vai trò của môi trường đối với cuộc sống, từ đó có những hành động cụ thể phù hợp thì trước hết cần đưa học sinh đến những vấn đề gần gũi hoặc phù hợp với nhận thức của các em. Đối với bộ môn Vật lí, việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh cần thông qua các nội dung của từng bài học cụ thể trong chương trình học. Ví dụ: Bài 12: Công suất điện - Số oát ghi trên một dụng cụ điện cho biết công suất định mức của dụng cụ đó, nghĩa là công suất điện của dụng cụ này khi nó hoạt động bình thường. - Khi sử dụng các dụng điện trong gia đình cần thiết sử dụng đúng công suất định mức. Để sử dụng đúng công suất định mức cần đặt vào dụng cụ điện đó hiệu điện thế đúng bằng hiệu điện thế định mức. - Biện pháp GDBVMT: + Đối với một số dụng cụ điện thì việc sử dụng hiệu điện thế nhỏ hơn hiệu điện thế định mức không gây ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng đối với một số dụng cụ khác nếu sử dụng dưới hiệu điện thế định mức có thể làm giảm tuổi thọ của chúng. + Nếu đặt vào dụng cụ hiệu điện thế lớn hơn hiệu điện thế định mức, dụng cụ sẽ đạt công suất lớn hơn công suất định mức. Việc sử dụng như vậy sẽ làm giảm tuổi thọ của dụng cụ hoặc gây ra cháy nổ rất nguy hiểm. + Sử dụng máy ổn áp để bảo vệ các thiết bị điện. Ví dụ: Bài 16: Định luật Jun-Len xơ - Công thức tính nhiệt lượng tỏa ra trên dây dẫn: Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 11 Q = I2Rt. Đối với các thiết bị đốt nóng như: bàn là, bếp điện, lò sưởi việc tỏa nhiệt là có ích. Nhưng một số thiết bị khác như: động cơ điện, các thiết bị điện tử gia dụng khác việc tỏa nhiệt là vô ích - Biện pháp GDBVMT: Để tiết kiệm điện năng, cần giảm sự tỏa nhiệt hao phí đó bằng cách giảm điện trở nội của chúng Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện - Cần phải thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn khi sử dụng điện, nhất là với mạng điện dân dụng, vì mạng điện này có hiệu điện thế 220V nên có thể gây nguy hiểm tới tính mạng. Sống gần các đường dây cao thế rất nguy hiểm, người sống gần các đường dây cao thế thường bị suy giảm trí nhớ, bị nhiễm điện do hưởng ứng. Mặc dù ngày càng được nâng cấp nhưng đôi lúc sự cố lưới điện vẫn xảy ra. Các sự cố có thể là: chập điện, rò điện, nổ sứ, đứt đường dây, cháy nổ trạm biến áp, … Để lại hậu quả nghiêm trọng. - Biện pháp an toàn: Di dời các hộ dân sống gần các đường điện cao áp và tuân thủ các quy tắc an toàn khi sử dụng điện. - Cần lựa chọn sử dụng các dụng cụ và thiết bị điện có công suất phù hợp và chỉ sử dụng chúng trong thời gian cần thiết. Các bóng đèn sợi đốt thông thường có hiệu suất phát sáng rất thấp: 3%, các bóng đèn neon có hiệu suất cao hơn: 7%. Để tiết kiệm điện, cần nâng cao hiệu suất phát sáng của các bóng đèn điện. Biện pháp GDBVMT: Thay các bóng đèn thông thường bằng các bóng đèn tiết kiệm năng lượng. Bài 22: Tác dụng từ của dòng điện-Từ trường Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 12 - Không gian xung quanh nam châm, xung quanh dòng điện tồn tại một từ trường. Nam châm hoặc dòng điện có khả năng tác dụng lực từ lên nam châm đặt gần nó. - Các kiến thức về môi trường: + Trong không gian, từ trường và điện trường tồn tại trong một trường thống nhất là điện từ trường. Sóng điện từ là sự lan truyền của điện từ trường biến thiên trong không gian. + Các sóng radio, sóng vô tuyến, ánh sáng nhìn thấy, tia X, tia gamma cũng là sóng điện từ. Các sóng điện từ truyền đi mang theo năng lượng. Năng lượng sóng điện từ phụ thuộc vào tần số và cường độ sóng. - Biện pháp GDBVMT: + Xây dựng các trạm phát sóng điện từ xa khu dân cư. + Sử dụng điện thoại di động hợp lý, đúng cách, không sử dụng điện thoại di động để đàm thoại quá lâu (hàng giờ) để giảm thiểu tác hại của sóng điện từ đối với cơ thể, tắt điện thoại khi ngủ hoặc để xa người. + Giữ khoảng cách giữa các trạm phát sóng phát thanh truyền hình một cách thích hợp. + Tăng cường sử dụng truyền hình cáp, điện thoại cố định, chỉ sử dụng điện thoại di động khi thật cần thiết. Bài 40: Hiện tượng khúc xạ ánh sáng Hiện tượng tia sáng truyền từ môi trường trong suốt này sang môi trường trong suốt khác bị gãy khúc tại mặt phân cách giữa hai môi trường, được gọi là hiện tượng khúc xạ ánh sáng. - Các chất khí NO, NO2, CO, CO2,… khi được tạo ra sẽ bao bọc Trái Đất. các chất khí này ngăn cản sự khúc xạ của ánh sáng và phản xạ Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 13 phần lớn các tia nhiệt trở lại mặt đất. Do vậy chúng là những tác nhân làm cho Trái Đất nóng lên. - Tại các đô thị lớn việc sử dụng kính xây dựng đã trở thành phổ biến. Kính xây dựng ảnh hưởng đối với con người thể hiện qua: + Bức xạ mặt trời qua kính: Bên cạnh hiệu ứng nhà kính, bức xạ mặt trời còn nung nóng các bề mặt nội thất luôn trao đổi nhiệt bằng bức xạ với con người. + Ánh sáng qua kính: Kính có ưu điểm hơn hẳn các vật liệu khác là lấy được ánh sáng phù hợp với thị giác của con người. Chất lượng của ánh sáng trong nhà được đánh giá qua độ rọi trên mặt phẳng làm việc, để có thể nhìn rõ được chi tiết vật khi làm việc. Độ rọi không phải là càng nhiều càng tốt. Ánh sáng dư thừa sẽ gây ra sáng chói dẫn đến sự căng thẳng, mệt mỏi cho con người khi làm việc, đây là ô nhiễm ánh sáng. - Các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của kính xây dựng: + Mở cửa thông thoáng để có gió thổi trên bề mặt kết cấu do đó nhiệt độ trên bề mặt sẽ giảm, dẫn đến nhiệt độ không khí giảm. + Có biện pháp che chắn nắng có hiệu quả khi trời nắng gắt. 2.3.Lựa chọn và vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy học phù hợp: ở đây, trước hết phải vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong đó cần thực hiện các công việc sau: 2.3.1. Thu thập tài liệu sinh động và có sức thuyết phục. - Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc tìm kiếm bất cứ tư liệu nào trên mạng internet cũng trở nên dễ dàng. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và việc tích hợp bảo vệ môi trường nói riêng. Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 14 - Sau khi xây dựng được nội dung tích hợp giáo viên tìm và lựa chọn những hình ảnh sinh động, ấn tượng phù hợp với yêu cầu để đưa vào bài giảng. 2.3.2. Sử dụng máy chiếu projecter để dạy nội dung tích hợp. Việc sử dụng máy vi tính kết hợp với máy chiếu để dạy học sẽ phát huy cao tính trực quan của bài dạy. Đặc biệt phần tích hợp bảo vệ môi trường đòi hỏi không chỉ cung cấp kiến thức, kĩ năng mà quan trọng là hình thành ở học sinh thái độ trước các vấn đề về môi trường, điều này sẽ đạt được hiệu quả cao khi các em được chứng kiến những hình ảnh về thực trạng cũng như hậu quả của ô nhiễm môi trường. 2.4.Tổ chức triển khai thực hiện: : Xây dựng tiến trình dạy học dạy học cụ thể: ở hoạt động này GV thiết kế cụ thể các yêu cầu đối với HS, các hoạt động trợ giúp của GV đối với HS và phối hợp các hoạt động đó để đạt được mục đích dạy học. 2.4.1. Chuẩn bị nội dung trước mỗi bài dạy Trước hết giáo viên tìm hiểu vấn đề cần tích hợp, chọn lựa chủ đề thật gần gũi, thiết thực và sát với nội dung bài học. VD1: Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện Trong SGK đưa ra một số lợi ích do tiết kiệm điện năng mang lại nhưng không nhắc tới lợi ích bảo vệ môi trường do tiết kiệm điện mang lại. Ở đây tôi cho học sinh thấy rằng: Tiết kiệm điện thì việc khai thác tài nguyên để sản xuất điện sẽ ít đi do đó tài nguyên nước, nhiên liệu được bảo vệ phục vụ đời sống làm giảm thiểu thiệt hại về môi trường. Qua đó học sinh thấy được rằng tiết kiệm điện không những giảm chi tiêu cho gia đình các dụng cụ và thiết bị điện được sử dụng lâu bền hơn, Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 15 giảm bớt sự cố… thì tiết kiệm điện còn đóng vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường sống của chúng ta. * Đối với mỗi nội dung cần tích hợp, giáo viên có thể yêu cầu học sinh: Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng hao phí điện năng. Học sinh tự đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường thông qua đó góp phần bảo vệ môi trường hoặc giáo viên đưa ra để học sinh tìm hiểu. Nêu một số biện pháp tiết kiệm điện năng mà các em thường áp dụng? 3.2. Thu thập thông tin và hình ảnh trên mạng internet Cách thông dụng nhất để tìm kiếm hình ảnh trên mạng là vào trang web www.google.com.vn , gõ từ khoá liên quan đến chủ đề ta đang cần tìm. Khi chọn được hình ảnh thích hợp nên lưu lại trong một tập tin với định dạng cỡ ảnh to nhất (khi đưa vào giáo án điện tử hình ảnh sẽ đạt chất lượng cao hơn) 3.3. Lựa chọn thời điểm thích hợp trong tiến trình giảng dạy để tích hợp Việc lựa chọn thời điểm và nội dung để tích hợp hết sức quan trọng. Một mặt nó làm cho bài dạy trở nên sinh động và có ý nghĩa, mặt khác nếu lựa chọn không phù hợp sẽ làm cho bài dạy bị đứt quãng và xa rời trọng tâm kiến thức. Ý thức được điều này giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng các phương án tích hợp để vừa đảm bảo dạy đúng, dạy đủ vừa đạt được mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường. VD1: Bài 25. Sự nhiễm từ của sắt, thép - nam châm điện. Ở Việt Nam đã ngày một nhiều hơn những rác thải công nghiệp. Đặc biệt rác thải là những kim loại, việc phân kim loại để tái chế là rất quan trọng. Dựa vào đặc tính kim loại từ của nam châm điện thì việc phân Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 16 loại kim loại trong rác thải công nghiệp là rất quan trọng. Từ đó làm giảm thiểu tác hại gây ô nhiễm môi trường từ rác thải công nghiệp gây ra. VD2: Bài 26. Ứng dụng của nam châm : Sản phẩm ứng dụng độc đáo là tàu chạy trên đệm từ, giảm thiếu tối đa tiếng ồn, hạn chế gây ô nhiễm tiếng ồn. VD 3: Bài 28: Động cơ điện một chiều Ứng dụng trong việc chế tạo: xe đạp điện, tàu điện… khi hoạt động ít gây tiếng ồn, giảm tối đa lượng khí thải ra môi trường. Từ đó tránh làm ô nhiễm tiếng ồn, không gây ô nhiễm khí quyển. VD 4: Bài 53. Sự phân tích ánh sáng trắng. Sống trong môi trường ánh sáng nhân tạo (ánh sáng màu) khiến thị lực suy giảm, sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút. Tại các thành phố lớn, do sử dụng quá nhiều đèn màu trang trí đã khiến cho môi trường bị ô nhiễm ánh sáng. Sự ô nhiễm này dẫn đến giảm tầm nhìn ảnh hưởng đến khả năng quan sát thiên văn. Ngoài ra chúng còn lãng phí điện năng. VD 5: Bài 61. Sản xuất điện năng Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 17 Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 18 Sản xuất điện . - Với nhiệt điện thì để sản xuất điện người ta phải sử dụng đến các nhiên liệu như: than đá, dầu mỏ, khí đốt… từ đó các nguồn tài nguyên bị khai thác sẽ làm ảnh hưởng tới cấu trúc sinh thái. - Thủy điện: Vì điều kiện công tác tại địa phương có thủy điện A Vương nên việc giáo dục thủy điện đến môi trường là rất cụ thể. Khi thủy điện An Điềm được xây dựng. Một đoạn sông dài trơ đáy chỉ thấy Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 19 là những tảng đá lớn. Rõ ràng thủy điện đã làm thay đổi sinh thái của cả một vùng, làm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái. Từ những ví dụ thiết thực tại địa phương học sinh đã nhìn nhận chính xác hơn về ý thức phải bảo vệ môi trường quan trọng như thế nào. Trên đây là các biện pháp để tích hợp nội dung giáo dục BVMT. Những ví dụ trên không phải là duy nhất . Nghã là phải lựa chọn và vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung bài dạy và đặc biệt là phù hợp với đối tượng học sinh, trong đó cần phải khai thác kĩ thuật dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua các phương tiện dạy học nhằm phát triển nhận thức và tư duy, hình thành cho các em khả năng độc lập, năng động sáng tạo, trong việc tiếp thu và sử lí thông tin. Qua đó các em tiếp thu bài học tốt hơn và có cách ứng xử đúng đắn về môi trường 2.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học giáo dục môi trường trong Vật lí. Hiện nay có nhiều phương pháp dạy học giáo dục môi trường, trong môn Vật lí sử dụng một số phương pháp sau: a. Nghiên cứu. Đây là phương pháp hướng các em làm quen với quá trình tìm tòi, sáng tạo dưới các dạng bài tập. Có nhiều dạng bài tập khác nhau đối với học sinh : Bài tập giải quyết nhanh tại lớp, bài tập đòi hỏi có thời gian dài. b.Làm việc nhóm. Đây là phương pháp dạy học có nhiều khả năng tốt trong quá trình giáo dục môi trường vì nó đề cao sự hợp tác trên cơ sở hoạt động tích cực của mỗi các nhân. c. Đóng vai. Đây là phương pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả định, mà trong đó các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện tức thời thành những hành động có tính kịch. Trong vở kịch này, các vai khác Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012 20 nhau do chính học sinh đóng và trình diễn. Các hành động kịch được xuất phát từ chính sự hiểu biết óc tưởng tượng và trí sáng tạo của học sinh. d. Quan sát, phỏng vấn. Là phương pháp thường dùng, có mục đích thu thập các thông tin về một vấn đề nào đó, hoạt động cơ bản là quan sát phỏng vấn. e. Thuyết trình. Là phương pháp trong đó học sinh thu thập thông tin tư liệu qua báo chí và tư liệu các phương tiện truyền thông khác, xây dựng một bản báo cáo và trình bày.... g. Giáo dục môi trường thông qua hoạt động ngoại khoá Vật lí. Ngoại khoá là hình thức tổ chức dạy học ngoài giờ lên lớp, không quy định bắt buộc trong chương trình hoạt động dựa trên sự tự nguyện tham gia của một số đông học sinh có hứng thú, yêu thích bộ môn và ham muốn tìm tòi, sáng tạo nôi dung học tập địa lí, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hoạt động ngoại khoá có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy học địa lí ở nhà trường góp phần tích cực vào việc nâng cao, mở rộng vốn tri thức của các em, rèn luyện kĩ năng địa lí, hình thành tăng cường hứng thú học tập và giáo dục lòng yêu thiên nhiên quê hương, đất nước. Nhờ vào hoạt động ngoại khoá, các em được mở rộng kiến thức, bổ sung cập nhật các kiến thức vật lí, các kĩ năng vật lí của học sinh có được trong học tập ở lớp học có điều kiện để củng cố và rèn luyện vững chắc.... Các hoạt động ngoại khoá vật lí với nhiều hình thức phong phú, diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau, đòi hỏi các cách thức hoạt động khác nhau sẽ rèn luyện cho học sinh đức tính thích nghi , chủ động hứng thú học tập. h. Đánh giá trong giáo dục môi trường. Việc đánh giá không chỉ nhằm mục đích ghi nhận thực trạng mà còn làm cơ sở cho những hoạt động giáo dục tiếp theo, đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng. Do vậy việc đánh giá phải khách quan, chính xác trên cơ Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan