Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn hiệu trưởng với công tác xã hội hóa giáo dục tại trường th b vĩnh trường...

Tài liệu Skkn hiệu trưởng với công tác xã hội hóa giáo dục tại trường th b vĩnh trường

.DOC
37
1115
83

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "HIỆU TRƯỞNG VỚI CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG TH B VĨNH TRƯỜNG" 1 PHẦN MỞ ĐẦU I. Bối cảnh của đề tài Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đó là một sự đúc kết truyền thống hiếu học, vì sự nghiệp “ Trăm năm trồng người”, đề cao tính ham học, khả năng tìm tòi, nghiên cứu khám phá kiến thức văn hóa xã hội, nhân loại, đồng thời cũng đề cao sự chăm lo việc học hành của dân tộc ta. Xã hội hóa giáo dục vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại vì lợi ích Quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích gia đình và từng cá nhân con người. Giáo dục liên quan tác động trực tiếp đến mọi người, là lợi ích mọi người, của cộng đồng. Đối với gia đình đó là lợi ích của mỗi công dân. Ai cũng có quá trình học tập nên chịu ảnh hưởng ít nhiều của công tác giáo dục. Trong các văn kiện của Đảng cũng xác định “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” muốn tạo ra nguồn nhân lực thật tốt để đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu đó không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, phải có sự tham gia tích cực, phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội. Sự tham gia phối hợp ấy phải được tiến hành có tổ chức, khoa học, thường xuyên liên tục mới mang lại hiệu quả 2 cao. Phải đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát triển giáo dục và đào tạo “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” Xác định mục tiêu xã hội hoá giáo dục là xây dựng môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh; tăng cường sự phối hợp giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; huy động nhân lực, vật lực, kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ cho giáo dục phát triển nhanh và bền vững. II. Lý do chọn đề tài Những năm qua công tác xã hội hóa giáo dục nói chung và đơn vị nhà trường nói riêng đã đạt nhiều kết quả đáng trân trọng, nhận thức chung về giáo dục-đào tạo được nâng lên, huy động sự tham gia đóng góp nhân lực, tài lực, vật chất cho giáo dục,…Từ đó bộ mặt của nhà trường có nhiều khởi sắc, thu hút được sự quan tâm chăm lo cho sự phát triển, đầu tư để ngày càng khang trang, đầy đủ hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa giáo dục ở đơn vị vẫn chưa phát huy một cách toàn diện sự tham gia của toàn thể cộng đồng, mỗi người dân, công tác tuyên truyền cả bề rộng lẫn chiều sâu chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Còn một bộ phận gia đình cha mẹ học sinh có tư tưởng giao khoán chuyện dạy dỗ, giáo dục con cái cho thầy cô, nhà trường, thờ ơ 3 đến các hoạt động giáo dục, nhận thức rất hạn chế so với sự phát triển giáo dục trong tình hình mới. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, muốn phát triển nhà trường nhanh và bền vững phải ra sức làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, khi và chỉ khi mọi người dân, mọi gia đình trên địa bàn quản lý nhận thức sâu sắc về giáo dục, cùng nhau chăm lo, hiến kế để trường học phát triển, tích cực tham gia vào các hoạt động của ngành với tinh thần tự nguyện, tâm huyết nhất, khi ấy nhà trường mới là chỗ dựa đáng tin cậy của cộng đồng, góp phần giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người lao động có tri thức, công dân hữu ích cho xã hội, địa phương sau này. Tôi cho rằng, trong khi ngân sách chi cho giáo dục còn hạn hẹp, thì nguồn huy động vật chất từ cha mẹ học sinh, tổ chức xã hội đem lại cho con em họ môi trường giáo dục tốt. Nếu toàn xã hội và các gia đình quan tâm với công tác xã hội hóa giáo dục thì con em của chúng ta được hưởng môi trường giáo dục tốt hơn. Chính vì thế, là một cán bộ quản lý nhà trường tôi nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục nên mạnh dạn chọn đề tài này để cùng chia sẻ, học tập kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, các đơn vị thực hiện tốt công tác xã hội hóa. Bằng những biện pháp nhà trường đã áp dụng vào công tác xã hội hóa giáo dục chẳng những mang lại hiệu quả trước mắt mà còn định hướng phát triển lâu dài, bền vững, tạo 4 tiền đề làm thay đổi bộ mặt nhà trường và nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động phong trào trong đơn vị. Từ đó, tạo được hiệu quả lâu dài, vì cộng đồng xã hội cùng chung tay xây dựng, tháo gỡ khó khăn trong các hoạt động trường học mới tạo điều kiện tốt nhất cho nhà trường phát triển, nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và các phong trào thi đua khác. Khi mối quan hệ giữa nhà trường- gia đình và xã hội được gắn kết một cách chặt chẽ đó là nguồn động lực, sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giải quyết công việc một cách chủ động đạt hiệu quả cao, đồng thời tính cộng đồng trách nhiệm cũng thể hiện rõ nét hơn sự quyết tâm, làm đến nơi đến chốn. Mọi hành động cho giáo dục sẽ mang tính tự giác, trách nhiệm, vì sự nghiệp chung, vì sự tiến bộ của chính con em mình. Tất cả đều vươn tới mục tiêu “ Giáo dục cho mọi người, thì mọi người phải làm giáo dục”. III. Phạm vi nghiên cứu Vấn đề xã hội hóa giáo dục là việc làm có tính xã hội rộng lớn trong phạm vi cả nước mang tầm khái quát cao, nhưng trong đề tài này bản thân chỉ đề cập đến công tác xã hội hóa giáo dục trong địa bàn nhà trường quản lý, gồm có hộ gia đình và công tác huy động các nguồn lực từ các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, các tổ chức, cá nhân trong, ngoài xã có tâm huyết đối với công tác giáo dục của đơn vị. IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 5 Vận dụng các phương pháp điều tra, so sánh, thống kê tổng hợp từ thực tiễn công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn qua từng năm có xem xét tổng thể về điều kiện phát triển kinh tế-xã hội. Từ đó, tổng kết những mặt làm được, hạn chế tồn tại, học tập kinh nghiệm từ các đơn vị thực hiện có hiệu quả công tác này. Vận dụng và phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa công tác xã hội hóa giáo dục với công tác chống lưu ban, bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục. PHẦN NỘI DUNG I.Cơ sở lý luận Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chỉ có sự tham gia đông đảo của quần chúng thì mới thành công. Nếu hoạt động của quần chúng mang tính xã hội, không tách rời xã hội thì sự nghiệp giáo dục chỉ thành công khi được thực hiện xã hội hóa. Hồ Chí Minh đã khẳng định “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn” 6 Quan điểm của Đảng về xã hội hóa giáo dục:“Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” Quá trình giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người lao động có tri thức, có năng lực đáp ứng sự phát triển của kinh tế- xã hội không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục, mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, phải có sự tham gia tích cực phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội. Sự tham gia phối hợp ấy phải được tiến hành có tổ chức, khoa học, liên tục mới mang lại hiệu quả. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo”. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế- xã hội. Huy động toàn xã hội giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. 7 Vì vậy, ngoài việc đầu tư của Nhà nước cho giáo dục, cần có sự đóng góp của nhân dân, thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” bằng con đường xã hội hóa giáo dục. II. Thực trạng của vấn đề Trường có 19 lớp, một điểm lẻ với tổng số học sinh 527 em, được đặt ở vị trí của 2 ấp, Vĩnh Thành và La Ma. Nơi đây có dân tộc Chăm cùng sinh sống, điều kiện kinh tế lại khó khăn. Là một xã cù lao đất chật người đông, dân cư sống chuyên canh nghề nông, mua bán nhỏ, không đất canh tác đi làm thuê kiếm sống, họ thường đi làm ăn xa mang con theo. Một số phụ huynh phó thác việc học tập của con em mình cho nhà trường. Bên cạnh những khó khăn chung, học sinh phần lớn không có đủ tập vở, quần áo đi học, các em học sinh lớp 4,5 phải phụ giúp gia đình, một số ít học sinh nhà xa trường (khoảng cách 3km) phải đi qua một khu dân cư mới đến trường nên việc học tập của các em có phần hạn chế. Sách giáo khoa không đủ để đáp ứng cho hoạt động dạy-học. Sân trường không bằng phẳng để các em sinh hoạt vui chơi, học tập, phòng học xuống cấp, không đủ ánh sáng. Vào những năm 2002-2003, 2004-2005 đến năm 2005-2006 học sinh bỏ học bình quân 20 em/năm, phần nhiều do không đủ điều kiện đến trường. Chất lượng học tập thấp so với bình quân chung của huyện, cụ thể: Năm 2003-2004 có 34 em xếp loại yếu; năm 2004-2005 có 31 em; năm 2005-2006 có 29 em; năm 2006-2007 có 22 em. 8 Một bộ phận cha mẹ học sinh ở vùng nông thôn nhận thức về công tác xã hội hóa còn hạn hẹp, nghĩ là việc đó của nhà nước, nhà trường. Dân ở nơi đây khó khăn về kinh tế, phần đông làm thuê, bán vé số để sinh sống, nên công tác xã hội hóa không vận động rộng rãi trong địa bàn, chỉ có một số ít nhà hảo tâm, mạnh thường quân đi làm ăn xa thường xuyên đóng góp hỗ trợ cho nhà trường. Công tác tuyên truyền vận động xã hội làm công tác xã hội hóa giáo dục chưa đi vào chiều sâu, người dân thường giao khoán cho nhà trường. Các phiên họp cha mẹ học sinh định kì do trường tổ chức, số lượng phụ huynh tham dự rất ít nên việc trao đổi, bàn bạc về vấn đề học tập không được thuận lợi. Nhu cầu về cơ sở vật chất vẫn chưa được đáp ứng kịp thời như: hàng rào, sân chơi, bãi tập, ánh sáng trong lớp học,…rất cần sự đóng góp từ phía xã hội để chăm lo cho giáo dục. Các phong trào ngành phát động, nhà trường chỉ tập trung cho công tác giảng dạy là chính, chưa đầu tư đúng mức nên trong những năm qua không gặt hái nhiều thành tích. Từ đó, dẫn đến việc duy trì sĩ số đạt hiệu quả không cao. Trong nội bộ nhà trường chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác xã hội hóa giáo dục; phương pháp, cách thức tiến hành xã hội hóa giáo dục còn mang tính tự phát chưa tuân thủ theo quy trình, các nguyên tắc cơ bản nhằm thực hiện đạt hiệu quả cao. 9 Từ thực trạng trên, cần xây dựng mục tiêu phấn đấu của trường, từng bước làm chuyển biến nhận thức trong đội ngũ cán bộ, giáo viên và củng cố lòng tin đối với xã hội. Đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển nhà trường trong xu thế chung của ngành giáo dục. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, thực hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” góp phần tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, hợp tác, cộng đồng trách nhiệm vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ đúng theo quan điểm của Đảng: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. III. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề Quán triệt trong nhà trường mục đích xã hội hóa giáo dục: Để hiểu và thực hiện đúng vấn đề xã hội hóa giáo dục cần nhận thấy các đối tượng có thể huy động tham gia xã hội hóa giáo dục gồm: Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp (lực lượng quan trọng quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều kiện cho việc xã hội hóa giáo dục triển khai thuận lợi); gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh (lực lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường và cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh); các cơ quan, ban ngành (nhất là các ngành có chức năng, có trách nhiệm đối với nhà trường như Y tế, Công an, Bảo vệ, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến 10 binh, Hội Khuyến học, các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện,…); các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo khả năng liên kết trong việc huy động các nguồn lực vật chất; bản thân ngành giáo dục đào tạo cũng là một đối tượng để xã hội hóa giáo dục; các tổ chức quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân”... Trong quá trình huy động đối tượng thực hiện hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục cần thực hiện tốt nguyên tắc huy động cộng đồng tham gia xây dựng giáo dục gồm: Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của cả hai phía: nhà trường và cộng đồng, mỗi bên tham gia đều cần tìm thấy lợi ích chung của cá nhân, tập thể. Nhà trường cũng như các lực lượng xã hội, các tổ chức,... đều có những chức năng và trách nhiệm riêng. Để khai thác, phát huy, khuyến khích họ tham gia vào một hoạt động nào đó thì phải phát hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác. Thí dụ: Đối với cấp ủy và chính quyền địa phương thì nội dung huy động phải là chủ trương, văn bản chỉ đạo, hoặc đất xây dựng,... Tạo môi trường công khai, bình đẳng để cộng đồng hiểu đúng về giáo dục và nhà trường hơn, đồng thời góp phần thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” các hoạt động xã hội hóa giáo dục để mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực. 11 Cán bộ quản lý giáo dục phải biết lựa chọn thời gian thích hợp nhất để đưa ra một chủ trương xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc này là phải xây dựng cho được kế hoạch cụ thể và kế hoạch mang tính định hướng. Khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo lý, đề cao sự học, đề cao giá trị của học vấn... của mỗi gia tộc, dòng họ; niềm tin của cá nhân vào sự nghiệp phát triển chung của giáo dục, của từng nhà trường để có thể huy động nhiều nguồn lực khác nhau chăm lo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa địa phương và ngành giáo dục, “nhà trường gắn liền với xã hội”. Kế hoạch hóa là một trong bốn chức năng quản lý và là một chức năng mang tính chủ đạo trong quá trình quản lý của người Hiệu trưởng. Kế hoạch xã hội hóa giáo dục được xây dựng trên một số yếu tố sau: Mục tiêu của việc huy động xã hội; xác định đối tượng huy động; kết quả dự kiến đối với từng đối tượng; thời gian thích hợp nhất; nguyên tắc ưu tiên để sử dụng trong quá trình triển khai thực hiện huy động cộng đồng; sự phân công một số thành viên trong chủ thể huy động; chi tiết hóa kế hoạch và hệ thống giải pháp cụ thể. Kinh nghiệm cho thấy, trong nhiều trường hợp đối tượng tham gia xã hội hóa giáo dục tuy ít nhưng lại cho những kết quả bất ngờ nếu như người cán bộ quản lý giáo dục biết 12 đột phá vào các bước phát triển quan trọng có thể làm thay đổi chất lượng giáo dục. Ngành giáo dục và đào tạo là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai công tác xã hội hóa giáo dục trong đó bản thân nhà trường, cán bộ quản lý giáo dục cùng tập thể sư phạm, đội ngũ giáo viên giữ vai trò quan trọng trong quá trình giảng dạy và giáo dục trẻ. Mặt khác, mỗi nhà giáo có mối quan hệ xã hội rất rộng bởi vì họ có rất nhiều cha mẹ học sinh. Chính quyền các cấp với chức năng quản lý Nhà nước của mình không chỉ huy động, khuyến khích mà còn tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động và tổ chức điều hành sự phối hợp các lực lượng xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục. Trong quá trình quản lý, tổ chức mọi hoạt động giáo dục, phương châm đặt ra là phải xã hội hóa, trong đó có phân tích đánh giá tiềm năng của cộng đồng, năng lực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, xác định nội dung cần phối hợp, phân định trách nhiệm rõ ràng, luôn lắng nghe ý kiến, dư luận xã hội về nhà trường để từ đó điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với thực tiễn. Định hướng mục tiêu phát triển đơn vị: Đây là công việc phải đầu tư đúng mức, phù hợp với nhiệm vụ từng năm học do ngành đề ra. Trong huy động xã hội hóa giáo dục gắn với việc xây dựng nhà trường đạt được các tiêu chí trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, mức chất lượng tối thiểu trường Tiểu học. 13 Điều quan trọng là phải xây dựng kế hoạch cụ thể, vừa sức mang tính khả thi. Mỗi nội dung công việc đều được thông qua các tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể địa phương, Ban đại diện cha mẹ học sinh, những cá nhân có uy tín, ảnh hưởng lớn trong địa bàn quản lý. Vào dịp khai giảng mỗi năm học, trường phải nêu được những việc cần làm, tham khảo ý kiến để hoàn chỉnh các điều kiện thực hiện, khi mọi người có ý kiến, tham gia hiến kế thì trong triển khai, tổ chức thực hiện sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn. Lưu ý: trường học chỉ dừng lại xin “chủ trương” thực hiện chứ không “xin tiền”, vì khi xã hội thấy điều đó cần làm, thiết thực, giải quyết được bức xúc nào đó trong hoạt động dạy học, thì mọi việc sẽ nhận được sự hỗ trợ đến nơi đến chốn. Ví dụ: Đặt vấn đề về xây dựng sân chơi để các em có được các hoạt động vui chơi bổ ích góp phần giáo dục toàn diện, tránh được những thói hư tật xấu. Hỗ trợ trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy-học; giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để các em được cắp sách đến trường đảm bảo quyền được học hành của trẻ,….Những vấn đề đó khi nhà trường đưa ra bàn bạc thì các lực lượng sẽ đồng tình ủng hộ ngay. Nếu nhà trường làm được như vậy, các tổ chức, cá nhân cảm thấy mình được tôn trọng, nhận rõ trách nhiệm vì sự phát triển chung, dám đầu tư suy nghĩ làm và làm cho bằng 14 được, bổ sung những vấn đề chưa được, hiệu quả cao, ngày càng thấy gắn bó với trường lớp hơn phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường-gia đình và xã hội. Qua nhiều năm thực hiện, các tổ chức cá nhân đã có sự chuyển biến tích cực, cùng làm giáo dục, xem giáo dục là của mỗi gia đình, mỗi người. Mọi sự huy động đóng góp cho nhà trường đều được tiến hành thuận lợi, mọi người cảm thấy tự hào khi mình có đóng góp vào cái chung ấy. Tạo ra vấn đề bức xúc cần giải quyết: Ngoài định hướng mục tiêu phát triển như trên, bản lĩnh của người quản lý nhà trường là phải biết tạo ra tình huống thật sự, việc làm trước mắt mọi người để lôi cuốn tất cả các lực lượng vào cuộc, chung vai gánh vác với nhận thức trách nhiệm cùng nhau làm, không đắn đo, so sánh mà muốn trường được đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Khơi dậy tính tập thể, tính quần chúng trong giải quyết công việc, không được đứng riêng lẻ. Xem phối hợp các lực lượng thường xuyên, liên tục là trọng tâm trong quản lý giáo dục ở đơn vị. Tuy nhiên, không phải việc gì cũng huy động mọi lực lượng, tổ chức qui mô, nên cân nhắc các tính chất, mức độ để vừa làm, dễ quan hệ, gọn nhẹ nhưng đạt kết quả mong muốn. Xã hội, cộng đồng muốn san sẻ, lo toan cho giáo dục, nhưng điều gì cần san sẻ, lo toan cái gì và lo như thế nào thì lại là sự chủ động, sáng tạo trước hết từ phía nhà trường. Với 15 tư cách là cơ quan chuyên môn không chỉ đề xuất các nhu cầu, giải pháp mà còn chủ động đặt ra tình huống, nêu được vấn đề bức xúc để tranh thủ cộng đồng chia sẻ cùng tổ chức thực hiện. Chẳng hạn: muốn đổi mới phương pháp dạy học thì điều kiện học tập của học sinh, giảng dạy của giáo viên phải đầu tư tốt hơn, từ đó các lực lượng xã hội nhận thức được sẽ cùng chăm lo với nhà trường. Để vận động một học sinh bỏ học có khi cần một người có uy tín ảnh hưởng đến gia đình các em, như thế thì hiệu quả hơn nhiều (ít tốn thời gian, công sức). Bằng cách làm này, nhà trường đã san lắp mặt bằng sân trường hoàn chỉnh hơn 700m 3 cát, lát đal sân trường điểm lẻ hơn 11 triệu đồng, hỗ trợ 7 chiếc xe đạp cho học sinh nghèo có điều kiện đến trường, bình quân hàng năm vận động được hơn 20 triệu đồng hỗ trợ trực tiếp cho học sinh khó khăn. Đẩy mạnh công tác tham mưu, tuyên truyền giáo dục: Muốn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục thì công tác tham mưu và tuyên truyền vận động là vô cùng quan trọng, tham mưu phải biết cách, tuyên truyền vận động phải khôn khéo và tạo được lòng tin trên cơ sở dựa vào các văn bản pháp quy. " Không có lí luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng " (Lê nin). 16 Trong quá trình tuyên truyền, tham mưu thực hiện công tác xây dựng cơ sở vật chất cần lưu ý: Phải căn cứ vào tính cấp bách, yêu cầu cụ thể và khả năng thực hiện để đề ra nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài theo từng giai đoạn. Vấn đề đặt ra là tham mưu phải có hiêu quả, phải đảm bảo tính khả thi và huy động cao nhất nội lực sẵn có. Việc xây dựng, mua sắm phải đảm bảo tính lâu dài, tính bền vững không chắp vá và đảm bảo tính khoa học cao. Xuất phát từ những yêu cầu đó, nhà trường đã định hướng nội dung công tác xã hội hóa giáo dục hàng năm, tích cực tham mưu với Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã, đưa ra bàn bạc công khai, dân chủ trong ngày khai giảng, họp cha mẹ học sinh đầu năm học. Qua thống nhất ý kiến chung, tất cả các bên chắc lọc những vấn đề trọng tâm cần giải quyết trước mắt cũng như lâu dài theo khả năng thực tế, đồng thời tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể cộng động nhằm tranh thủ sự đồng thuận chung trong tổ chức thực hiện. Với quy trình tham mưu, tuyên truyền xã hội hóa giáo dục như trên, nhìn chung hàng năm nhà trường đều huy động tốt các nguồn lực để giải quyết cơ bản những yêu cầu bức thiết đặt ra, tích lũy thêm kinh nghiệm thực tiễn nhằm cải tiến, đổi mới cách làm đem lại hiệu quả cao. Xây dựng mối quan hệ, phối hợp: 17 Trong Điều lệ trường Tiểu học cũng đã qui định trường Tiểu học có nhiệm vụ phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện các hoạt động giáo dục. Trách nhiệm của nhà trường phải chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình, Ban đại diện cha mẹ học sinh để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục. Huy động mọi lực lượng của cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Từ đó, đơn vị đã xây dựng được mối quan hệ theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Chỉ có quan hệ tốt, phối hợp đồng bộ thì công việc chung của nhà trường mới được giải quyết, xử lý kịp thời đạt hiệu quả. Nhà trường là môi trường “Văn hóa giáo dục” của địa phương, nơi trực tiếp tiến hành công tác giáo dục và phối hợp các lực lượng xã hội, gia đình cùng chăm lo công tác giáo dục từ xây dựng cảnh quan sư phạm, cơ sở vật chất, nền nếp kỉ cương, chất lượng giảng dạy, học tập,…cho đến việc giám sát, đánh giá các hoạt động giáo dục do trường tổ chức. Tham mưu với cấp ủy, Ủy ban nhân dân địa phương đề ra được các Nghị quyết về giáo dục, giúp Ủy ban nhân dân chỉ đạo, huy động các lực lượng xã hội tham gia vào xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển có chất lượng và hiệu quả cao. 18 Trường học luôn thực hiện xã hội hóa giáo dục, xây dựng được môi trường đồng bộ từ gia đình, nội bộ nhà trường và trong xã hội, để xã hội chăm lo, giúp đỡ nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn được nhân dân giao phó. Vì vậy mọi hoạt động của đơn vị được các lực lượng trong và ngoài nhà trường ủng hộ, vừa làm vừa góp ý rút kinh nghiệm, có sơ kết đánh giá những mặt hạn chế, tồn tại trong mối quan hệ phối hợp. Từ đó, xây dựng niềm tin lẫn nhau, cùng nhau tháo gỡ khó khăn bức xúc. Trân trọng những đóng góp của các tổ chức, cá nhân: Xã hội hóa giáo dục cũng như xã hội hóa trên các lĩnh vực khác. Khi nhận thức đúng đắn và tự nguyện tham gia đóng góp không ai mong muốn sẽ được đền trả, mà luôn mong đợi xã hội ghi nhận, điều đó mang lại niềm vui và có tác động rất lớn về mặt tinh thần. Đây là một vấn đề hết sức tế nhị, trường cần thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của cá nhân được khen. Việc kê khai thành tích, khen thưởng không bao giờ thực hiện được; khâu này nhà trường phải đảm nhận, trên cơ sở tham khảo ý kiến trao đổi trước để thống nhất (vì tất cả đều thích làm vì công việc chung chứ không phô trương thành tích cá nhân). Thực trạng hiện nay cùng với xã hội hóa giáo dục trên lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, thể dục thể thao,…cũng xã hội hóa rộng rãi. Nên dù đóng góp nhỏ hay lớn đều cũng là những tâm huyết đối với sự phát triển giáo dục cần được nhà trường trân trọng và phát 19 huy, cần nhân rộng điển hình tốt để tạo chất men kích thích tham gia của tất cả mọi người, mọi gia đình. Tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm: Nhà trường đã tổ chức họp định kì nhằm đánh giá lại công tác xã hội hóa giáo dục, điểm gì chưa được thì khắc phục, điểm gì đã được thì phát huy… Phần đông cha mẹ học sinh đều có ý kiến nhà trường cần có tuyên truyền rộng rãi hơn nữa; thông tin kịp thời để cha mẹ học sinh hiểu được việc làm cụ thể chủ trương xã hội hóa giáo dục; biểu dương các gương điển hình đối với các nguồn thu từ huy động các nguồn lực; cùng với Ban đại diện cha mẹ học sinh sử dụng nguồn đầu tư cho hiệu quả; thường xuyên trao đổi thông tin; thành lập Hội đồng tư vấn, làm công tác xã hội hóa giáo dục cùng với nhà trường đề ra phương hướng cụ thể xã hội hóa giáo dục trong thời gian tới. Mặc dù, chủ trương xã hội hóa giáo dục được mọi người đánh giá là đúng đắn, tuy nhiên trong quá trình thực hiện, vẫn còn nhiều người chưa hiểu và ủng hộ công tác xã hội hóa giáo dục như: tham gia cùng với nhà trường hỗ trợ ủng hộ việc dạy và học, tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho các học sinh, chăm lo cơ sở vật chất điều kiện dạy và học… để công tác xã hội hóa giáo dục đạt hiệu quả cao hơn. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan