Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn góp thêm một số ý kiến về phương pháp đọc – hiểu văn bản trong dạy học tích...

Tài liệu Skkn góp thêm một số ý kiến về phương pháp đọc – hiểu văn bản trong dạy học tích hợp ngữ văn thcs

.DOC
23
1590
92

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THCS&THPT HUỲNH VĂN NGHÊÊ Mã số:………………………. Sáng kiến kinh nghiệm GÓP THÊM MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG DẠY HỌC TÍCH HỢP NGỮ VĂN THCS Người thực hiện : NGUYỄN THỊ THANH PHƯƠNG Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn:…………………  Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác…………………………………. Có đính kèm Mô hình Phần mềm Phim ảnh 1 Hiện vật khác SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: NGUYỄN THỊ THANH PHƯƠNG 2. Ngày tháng năm sinh: 04 - 06 - 1984 3. Nữ 4. Địa chỉ: Ấp 6 – Mã Đà – Vĩnh Cửu – Đồng Nai 5. Điện thoại: 6. Chức vụ: Giáo viên 7. Đơn vị công tác: Trường THCS & THPT Huỳnh Văn Nghệ II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Đại học sư phạm - Năm tốt nghiệp: 2005 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy văn - Số năm có kinh nghiệm: 7 - Các sáng kiến kinh nghiệm trong 5 năm gần đây: + Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ văn THCS + Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học cụm văn bản nhật dụng ở trường THCS. + Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào phân môn văn bản ở trường THCS. 2 SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị : Trường THCS& THPT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HUỲNH VĂN NGHÊÊ Vĩnh Cửu, ngày 20 tháng 09 năm 2012 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011- 2012 Tên sáng kiến kinh nghiệm: GÓP THÊM MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG DẠY HỌC TÍCH HỢP NGỮ VĂN THCS. Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thanh Phương Đơn vị (tổ): Văn Lĩnh vực: Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn:………………… Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác:……………………... 1.Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến đổi mới từ giải pháp đã có 2. Hiệu quả: - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả . 3 . Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách : Tốt Khá Đạt - Đưa ra các giải pháp kiến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống : Tốt Khá Đạt - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng : Tốt Khá Đạt XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Sáng kiến kinh nghiệm: GÓP THÊM MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG DẠY HỌC TÍCH HỢP NGỮ VĂN THCS 3 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Một trong những mục tiêu của đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông được nêu trong chỉ thị số 14/2001/CT-TTCNgày 11-6-2001 của thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thực hiện nghị quyết của quốc hội “Đổi mới phương pháp dạy và học phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh”. Theo tinh thần đó môn Ngữ Văn trong SGK bậc THCS được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp gồm ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm Văn. Đọc hiểu văn bản không chỉ là hoạt động chiếm lĩnh kiến thức phân môn văn học mà còn là đầu mối cho việc vận dụng và liên thông kiến thức đối với các phân môn Tiếng Việt và Tập Làm Văn. Trước mắt người đọc (học sinh) là văn bản nghệ thuật ngôn từ - kết tinh quá trình mã hoá những thông điệp thẩm mỹ mà nhà văn hướng tới sự tác động và chia sẻ cùng người đọc. Tác phẩm sẽ thực sự trở thành đối tượng tiếp nhận của các em học sinh khi các em vượt qua được bức rào cản có tính chất hình thức bề ngoài của kí hiệu ngôn ngữ, để có thể gặp gỡ tiếng nói tâm tình giao tiếp với thế giới nghệ thuật sáng tạo của nhà văn. Đó là khi hoạt động đọc - hiểu văn bản được thực hiện tốt. Vậy làm thế nào để thực hiện hoạt động đọc hiểu văn bản đạt được cái đích như trên đã nói? Đây là một vấn đề còn nan giải mà rất nhiều người quan tâm suy nghĩ. Xuất phát từ những trăn trở ấy trong quá trình giảng dạy tôi luôn cố gắng tìm tòi nghiên cứu để tìm ra một phương pháp giúp các em học sinh đọc - hiểu văn bản sao cho có hiệu quả. Đó chính là kinh nghiệm mà tôi học tập được từ đồng nghiệp và trong quá trình giảng dạy trên lớp của bản thân. Tôi xin mạo muội góp thêm một số ý kiến về phương pháp đọc hiểu văn bản trong dạy học tích hợp Ngữ Văn bậc THCS. Tôi mong rằng những điều mà tôi trăn trở tìm tòi sẽ là một chút đóng góp rất nhỏ cho quá trình đổi mới môn Ngữ Văn ở bậc THCS. Rất mong được sự giúp đỡ và đóng góp của đồng nghiệp. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 Môn văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thông. Vị trí ấy được biểu hiện trực tiếp qua tỉ lệ thời gian dành cho phân môn trong chương trình THCS. Đã có rất nhiều ý kiến cũng như qua nhiều văn kiện, Đảng ta đã nói đến vai trò cực kỳ quan trong của văn học nghệ thuật trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với khả năng hình tượng, văn học có tác dụng sâu sắc, lâu bền đến đời sống tâm hồn và trí tuệ của học sinh. Sau khi học xong THCS học sinh có được một số những kĩ năng cơ bản sau: - Biết cách đọc một tác phẩm văn học dân gian, văn học viết theo đúng đặc trưng thể loại của tác phẩm đó. - Biết tóm tắt và kể lại các văn bản đã học trong phần đọc hiểu văn bản, trên cơ sở đó biết sáng tác các thể loại này, biết kể sáng tạo theo bố cục các văn bản đã học. - Bước đầu biết vận dụng các cách nói hay của nhân gian, những chân lí cuộc sống trong tục ngữ vào việc nói viết hằng ngày. - Biết vận dụng những tri thức về văn tự sự, miêu tả, nghị luận, tri thức về tổ chức văn bản, về cách dùng từ, đặt câu,… học tập được trong các tác phẩm văn học để viết được các bài văn miêu tả, tự sự, văn nghị luận. Do đó nhiệm vụ quan trọng của dạy học ngữ văn là tập trung hình thành cho học sinh cách đọc văn, để dắt các em có thể tự đọc - hiểu tác phẩm văn học một cách đúng đắn, khoa học. Dạy đọc - hiểu văn bản có ý nghĩa khẳng định lao động của học sinh, hướng tới người học, coi người học là trung tâm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo. Vậy phải đọc như thể nào để hiểu, giải mã được văn bản? Đọc là một trong những hoạt động nhận thức của con người phản ánh năng lực tư duy bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng với văn học, đọc và phản ánh những tình cảm, những ý chí, những ước vọng, những động lực của tâm hồn và cùng với tiếng lòng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Đọc là tiếng đồng vọng của con người trước thời đại và lịch sử. Chúng ta đều biết lịch sử phát triển của loài người gắn liền với lịch sử phát triển của tiếng nói, của ngôn ngữ. Nói cách khác không có ngôn ngữ thì không có văn hoá và lịch sử, không có văn minh và phát triển. Đặc biệt trong thời đại giữa bao tiến bộ và phát triển, ngôn ngữ là một trong những dấu hiệu đặc thù của sự phát triển. Trong nhà trường “đọc” (ở đây giới hạn là tác phẩm) là một trong 04 kỹ năng cơ bản của mục tiêu dạy học và là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học. Trên cơ sở quan niệm đọc như một hoạt động tinh thần, một hoạt động nhận thức (đọc - hiểu). Đọc ở đây được xem như một điểm khởi đầu cho các năng lực khác. 2. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 5 Đọc - hiểu văn bản là hoạt động có tính chất đầu mối của một quy trình dạy học tích hợp ngữ văn, hướng tới sự phát triển đồng bộ trong khi đảm bảo việc giảng dạy cho học sinh những tri thức và kỹ năng đặc thù cho phân môn còn phải tìm ra những yếu tố đồng quy giữa ba phân môn để góp phần hình thành và rèn luyện tri thức, kỹ năng của các phân môn khác. Điều này vừa xem như yêu cầu vừa là định hướng về đổi mới phương pháp dạy học nhằm thực hiện chương trình ngữ văn bậc THCS mà Bộ GD-ĐT ban hành. Để thực hiện được tốt hoạt động trên giáo viên cần nắm được những điểm sau: 2.1. Vấn đề đọc, người đọc Đọc ở đây được xem như điểm khởi đầu cho mọi năng lực khác. Đọc văn là cuộc đi tìm ý nghĩa tiềm ẩn của văn bản, để rồi từ đó đọc - hiểu văn bản một “văn bản lớn hơn” là thế giới và cuộc đời, nói cách khác đi là đi tìm ý nghĩa nhân sinh qua văn bản văn học. Trước hết ta cần nắm vững khái niệm đọc, khái niệm hiểu: Đọc là hoạt động tâm lí nhằm giải mã văn bản, là quá trình chuyển hóa nội dung ký tự sang âm thanh lời nói và vang trong óc. (theo GS Nguyễn Thanh Tùng) Hiểu là nắm vững và vận dụng được. Hiểu là biết kỹ và làm tốt. Hiểu tức là phải trả lời được các câu hỏi cái gì? Như thế nào? Vì sao? Làm như thế nào? Hiểu một đối tượng không chỉ dừng ở quan sát nắm bắt cái bên ngoài. Càng là đối tượng phi vật chất như tác phẩm văn chương không thể chỉ dùng năng lực quan sát mà phải dùng tri thức tâm tư, tình cảm. Đọc văn bản (tác phẩm văn học) từ lâu đã gắn liền với nhu cầu khám phá thế giới nghệ thuật của nhà văn. Đọc - hiểu là nói đến hiệu quả, là nói đến sự thể hiện vai trò cá nhân nổi bật trong năng lực nhận biết phân loại và tri giác văn bản. Muốn đọc được, người đọc phải có năng lực cảm thụ ngôn ngữ, đó cũng chính là năng lực cảm thụ văn hoá, phải có vốn sống. Nếu nghèo vốn sống thì việc hiểu biết văn hoá sẽ hạn chế. Không có khả năng giải mã các tín hiệu ngôn ngữ thì một kiệt tác cũng trở nên vô nghĩa. Vì vậy muốn tiếp cận được tác phẩm văn học thì người đọc phải có một trình độ đọc, một vốn văn hóa nhất định. Từ lâu người đọc đã trở thành một hiện tượng không thể thiếu trong quá trình phát triển văn hóa. Và bây giờ người đọc là một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ và văn minh của xã hội. Người đọc lặng lẽ đi vào văn học như một hình tượng nghệ thuật, như một nhân cách. Người đọc bằng tâm thế, sự rung động và khả năng tái hiện đời sống được mã hoá trong chất liệu để đọc được bức thông điệp tâm hồn mà nhà văn nhắn gửi. Sự hiểu biết phong phú về đời sống nói chung và khả năng nhạy cảm của ngôn ngữ nói riêng cùng với khả năng huy động vốn hiểu biết và trải nghiệm một cách kịp 6 thời, chính xác của người đọc có ý nghĩa rất lớn trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. 2.2. Đọc một phương thức tiếp nhận văn học (văn bản) Đọc là một khám phá sáng tạo, là quá trình giải mã văn bản để tìm ý nghĩa. Mà ý nghĩa là cái không hiển thị rõ ràng nên đọc là hoạt động cảm thụ kết hợp với tư duy nhằm kiến tạo ý nghĩa. Nói đọc hiểu hay đọc để hiểu không chỉ là thói quen của lời nói mà là vấn đề có tính chất nguyên lý. Có lúc ta ngỡ như mình chỉ lướt xem thì trong lúc đó trí não ta đã ghi nhận thông tin dù là mờ nhạt. Và như vậy có nghĩa là đã “trao đổi” với văn bản. Như vậy cũng có nghĩa là đọc gắn liền với nhu cầu giao tiếp mà văn bản - thế giới nghệ thuật, nhà văn là đối tượng, người đọc là chủ thể. Như thế đọc và hiểu có mối quan hệ nhân quả. Đọc để hiểu và quan hệ biện chứng hiểu để đọc tốt hơn. Hoạt động đọc hiểu xảy ra theo cơ chế tác động hữu cơ giữa 2 thành tố chính: chủ thể và đối tượng. Người đọc tác động vào văn bản bằng cảm xúc và khả năng tri giác thông qua các quá trình chuyển hoá ký hiệu ngôn ngữ thành những đơn vị thông tin thẩm mỹ. Quá trình này được thực hiện bởi hình thái tiếp nhận trung gian là ngôn ngữ nghĩ. Như vậy để tường minh ý tưởng có từ hoạt động tri giác văn bản người đọc phải cảm thụ được sự khơi gợi của âm thanh, nhạc điệu, sắc thái biểu cảm và phải có khả năng chuyển mã từ hệ thống ký hiệu ngôn từ sang những hình dung và kinh nghiệm đó là hình tượng nghệ thuật. Ngược lại khi văn bản trở thành đối tượng được người đọc tiếp nhận sẽ có một đời sống riêng.Vì vậy người đọc có thể lĩnh hội và đồng cảm cùng với nỗi buồn, cô đơn, hoài cổ của chủ thể trữ tình qua âm điệu trầm buồn, tiết tấu đều đều dìu dặt của niêm luật thể thơ thất ngôn bát cú trong tác phẩm “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan. Cảm nhận vẻ đẹp của người chiến sỹ trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước qua sức gợi của nhạc điệu rắn rỏi, khoẻ khoắn qua lời thơ Phạm Tiến Duật, cũng như nhận diện được thân phận cô độc, tâm trạng cô đơn, tủi nhục của của Thuý Kiều qua lời thơ trầm buồn, da diết của đoạn trích Kiều ở Lầu Ngưng Bích. Như vậy đọc là phải hiểu được ý nghĩa của những dấu hiệu nghệ thuật. Mỗi cách đọc được xem như là một phương án phản ánh những mức độ khác của khả năng tiếp nhận. Hiệu quả của hoạt động văn bản bao giờ cũng gắn liền với phương thức thể hiện của nó. Đọc thầm khác với đọc có diễn cảm, đọc ngẫu nhiên khác với đọc có chủ định, đọc cá nhân khác với đọc trong môi trường tập thể. Đọc như trên là một phương thức tiếp nhận nghệ thuật ngôn từ qua đó người đọc biểu lộ nhu cầu giao cảm, hưởng thụ văn hoá và phát triển nhân cách đồng thời bộc lộ chính mình. 2.3. Phương thức đọc 7 Ở đây tôi xin trình bày một số phương thức đọc - hiểu văn bản. Nhưng những gì tôi trình bày chỉ có thể được hình thành và phát triển trên cơ sở sự tìm tòi nỗ lực, rút kinh nghiệm của bản thân người đọc trong quá trình thực hiện hoạt động dạy học. 2.3.1. Xác định mục đích đọc Để hiểu được văn bản phải xác định được mục đích đọc, phải xác định được mình đọc để làm gì từ đó sẽ quyết định đọc như thế nào. Mục đích đọc quyết định phương hướng khai thác vấn đề trong cùng một văn bản. Ví dụ: Cùng một văn bản “Qua đèo Ngang” nhưng với yêu cầu tìm hiểu về cảnh thì sẽ có cách đọc văn bản khác với cách đọc khi tìm hiểu về tâm trạng của nhận vật trữ tình qua bài thơ. 2.3.2. Tìm địa chỉ của văn bản Thực hiện hoạt động này tức là chúng ta thực hiện hoạt động đọc về tên của văn bản và hiểu tên của văn bản sau đó chú ý đến thông tin về tác giả của văn bản (về thời đại, cuộc đời, quan điểm sáng tác) đọc về hoàn cảnh ra đời của văn bản (tác phẩm văn học). Đọc để nắm vững các thông tin trên cũng là căn cứ vô cùng quan trọng để có thể hiểu được tác phẩm. Ví dụ: Khi đọc hiểu văn bản “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan cần phải đọc các thông tin sau: * Đèo Ngang thuộc dãy núi hoành sơn một nhánh của dãy núi Trường Sơn chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Phải đọc để nắm được các thông tin thực tế cảnh ở đây như thế nào? tại sao lại là qua đèo Ngang mà không phải là đến và ở đèo ngang. * Đọc về cuộc đời và truy tìm nguyên nhân vì sao bà Huyện Thanh Quan lại qua đèo Ngang. * Nắm được hoàn cảnh lịch sử thời Hậu lê - Nguyễn, nắm được quan niệm đạo đức phong kiến từ đó mới có thể hiểu đựơc tâm trạng của nhà thơ * Hiểu được bài thơ phải đọc về hoàn cảnh ra đời tác phẩm: Rời xa quê hương nhớ quê nhớ nhà, nặng lòng với nhà Lê nhưng lại trên đường vào phục vụ nhà Nguyễn. => Đọc được toàn bộ các thông tin trên tức là người đọc đã bước đầu thâm nhập vào tác phẩm (văn bản). Từ đó là cơ sở là căn cứ để hiểu văn bản. 2.3.3. Đọc phần ghi nhớ Đọc phần ghi nhớ để nắm được rõ ràng các thông tin về nội dung nghệ thuật và luôn hình thành câu hỏi tại sao trong đầu khi đọc văn bản rồi từ đó đối chiếu, so sánh giữa quá trình nhận thức của bản thân và những định hướng mà SGK, nội dung bài học hướng tới. 8 Ví dụ: Khi đọc hiểu văn bản “ Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan ta cần đọc thông tin sau: “Với phong cách trang nhã, bài thơ “Qua đèo Ngang” cho thấy cảnh tượng đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút thấp thoáng có sự sống con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả”. Đọc phần thông tin trên để định hướng cho bản thân cách tìm hiểu từ đó tìm ra hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ thể hiện điều đó. Sau đó đối chiếu so sánh trong cảm nhận của bản thân có gì mới và khác. 2.3.4. Các dạng đọc: Trong dạy đọc – hiểu nổi lên ba dạng đọc mà tôi xin được trình bày sau đây: Thứ 1: Đọc kỹ: Đọc kỹ trước hết là phải đọc thật nhiều lần. Đây là một dạng đọc có tần số cao – đọc có sử dụng thao tác phân tích và tổng hợp – là đọc không bỏ sót một đơn vị nào của văn bản. Những hoạt động và thao tác của đọc kỹ là: Đọc để giới hạn quang cảnh, bối cảnh xã hội và những vấn đề liên quan đến nó. Người ta cần biết đến các thao tác đọc phân loại và hệ thống hóa từ ngữ, hình ảnh để tái hiện không gian và thời gian. Đọc để tìm vấn đề (tính có vấn đề) của con người qua việc xác lập đường dậy sự kiện, tình huống, trạng thái trong quan hệ với nhân vật văn học. Thứ 2: Đọc sâu: Đọc sâu là đọc để biểu hiện, làm bộc lộ mối liên hệ thống nhất nhiều mặt của đời sống và nghệ thuật, của trí tuệ và tình cảm ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản, … . Những hoạt động và thao tác của đọc sâu: Đọc chậm, phát hiện những cái mới lạ của từ, của hình ảnh, sự kiện, của thế giới tư duy và tâm tình nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại trong giao tiếp với môi trường sống của nhân vật tác phẩm. Đọc và thống kê những mối quan hệ giữa nhân vật với sự kiện, tình huống chính. Phân loại và hệ thống hóa nhân vật theo mối quan hệ đồng hướng và nghịch hướng theo kiểu hòa giải và xung đột để xác định nhân vật trung tâm. Đọc âm vang để nhận ra giọng điệu tác phẩm. Đọc và sơ đồ hóa mạng lưới hệ thống giữa các yếu tố hình thức và nội dung, bộ phận và toàn thể, chi tiết và chỉnh thể, giữa các tầng chuyển hóa bố cục và kết cấu, bên ngoài và bên trong tác phẩm để tìm ra kiểu tư duy nghệ thuật và phương thức trình bày nghệ thuật của tác phẩm. Đọc và tham khảo thời điểm sáng tác, chặng đường nghệ thuật, sự chuyển biến tư tưởng của nhà văn để từ đó xác định cảm hứng sác tác của nhà văn trong tác phẩm. Đọc những hồi ký và ghi chép của tác giả về quá trình sáng tạo tác phẩm và đọc những bài nghiên cứu, phê bình tác phẩm. Phải đọc, đọc thật nhiều lần để hóa giải những băn khoăn, ngộ nhận về một số điểm sáng thẩm mỹ và chi tiết nghệ 9 thuật chưa có lời giải đáp phù hợp với văn cảnh và văn bản, với bối cảnh thời đại và lẽ sống. Để lĩnh hội được tri thức từ văn bản đạt được mục đích, đạt được hiệu quả là hiểu văn bản. Công việc này đòi hỏi phải có kĩ thuật đọc. Kỹ thuật đọc là năng lực chiếm lĩnh tri thức và trình độ kỹ năng đọc thể hiện ra bằng cách đọc. Dưới đây là một số cách đọc: * Đọc lướt qua: Đọc lướt qua khi muốn khái quát những khái niệm ban đầu những nội dung cốt yếu nhất như ý chính, sự việc chính Cách đọc này sử dụng khi đọc để tìm hiểu một vấn đề nào đó đã được chuẩn bị, cần làm rõ thêm, khẳng định thêm hoặc khi cần tìm những cách diễn đạt khác nhau cho một vấn đề được đề cập đến trong văn bản. * Đọc có trọng điểm: Là cách đọc từng đoạn từng phần đã được lựa chọn từ trước nhằm tập trung sức lực và thời gian cho nhưng nội dung cần thiết cho một vấn đề đã được đưa ra để chuẩn bị. * Đọc toàn bộ nhưng không nghiền ngẫm: Là cách đọc khái quát toàn bộ chứ không đi sâu vào nội dung cụ thể. Khi đọc không bỏ qua phần nào nhưng cũng không dừng lại suy ngẫm ở nội dung nào, nội dung văn bản bàn tới điều gì? Ở mức độ nào? Bằng phương thức nào? * Đọc nghiền ngẫm nội dung văn bản: Đây là cách đọc quan trọng nhất, cần thiết nhất để lĩnh hội đầy đủ nội dung nghệ thuật của văn bản. Từng nội dung từng vấn đề được tìm hiểu cặn kẽ có đối chiếu với kiến thức kinh nghiệm thực tế để từ đó hiểu đầy đủ sâu sắc đánh giá đúng nội dung tư tưởng của văn bản. * Đọc thụ động: Cũng như với cách đọc toàn bộ hay đọc lướt nhưng người đọc hoàn toàn theo sự dẫn dắt của tác giả, chấp nhận hoàn toàn, xem xét vấn đề theo con mắt của tác giả * Đọc chủ động: Là cách đọc mà khi xem xét những vấn đề trong văn bản đề cập tới, người đọc luôn đối chiếu đánh giá nó. Mọi sự chấp nhận hay phản đối đều được người đọc dựa trên cơ sở sự đánh giá, đối chiếu với kiến thức, với kinh nghiệm được nhận thức theo thế giới quan tình cảm của mình. Từ những nhận thức đó rút ra kết luận cần thiết cho bản thân và người đọc. * Đọc nông: Chỉ khai thác nội dung tư tưởng văn bản ở trình độ chấp nhận, hoặc có phê phán nhưng chung chung chưa có sự nghiền ngẫm một cách thấu đáo. Cách đọc này thường áp dụng cho những phần kiến thức bổ sung tương trợ cho văn bản được học. * Đọc sâu: Là cách đọc đòi hỏi sự nghiền ngẫm sâu sắc nội dung văn bản để hiểu cặn kẽ. Cách đọc này được sử dụng trong quá trình chuẩn bị bài ở nhà của học sinh khi đọc văn bản. 10 * Tư duy khi đọc: Đọc văn bản mà không tư duy thì chỉ làm hao tổn thời gian. Tích cực tư duy khi đọc là luôn hình dung những ý tưởng trong sách thành những biểu tượng, những hình ảnh trong đầu, đối chiếu so sánh chúng với nhau và những hiểu biết đã có. Từ đó phát hiện cái chủ yếu, cái không chủ yếu, bản chất và không bản chất. Từ trên cơ sở ấy rút ra kiến thức cho bản thân Đọc có tư duy phải rút ra được điều gì từ nội dung văn bản, bổ sung hiểu biết gì, kinh nghiệm gì cho bản thân. Tư duy khi đọc cũng là tránh lối đọc một chiều lười suy nghĩ, ghi chép thụ động. * Tập trung chú ý cao độ khi đọc sách: Nỗ lực cố gắng định hướng toàn bộ tâm trí một cách liên tục vào việc đọc nhằm suy nghĩ thấu đáo, tư duy tích cực và ghi nhớ nhanh những vấn đề rút ra khi đọc. Để làm được người đọc phải say mê, có nghị lực và mục đích thật rõ ràng + Không suy nghĩ tản mạn ra khỏi nội dung văn bản. + Gặp vấn đề khó không nản. + Không để công việc khác làm sao nhãng tư duy khi đọc. * Rèn luyện kỹ năng đọc thật hợp lí : - Đọc bằng mắt và óc chứ không đọc bằng miệng - Tránh hiện tượng đọc nhảy - Chuyển động mắt theo chiều thẳng đứng khi đọc - Đọc với tốc độ biến đổi. Đoạn quan trọng đọc chậm kỹ và ngược lại. - Cố gắng hiểu ý nghĩa của từng đoạn văn - Nắm và thâu tóm nhanh cái chủ yếu cái cơ bản của vấn đề * Đọc có ghi chép một cách khoa học: Để đọc văn bản có hiệu quả thì phải biết ghi chép. Ghi chép giúp cho người đọc quên mệt mỏi. Một phần giúp kiểm tra mức độ lĩnh hội tài liệu tạo cơ sở ghi nhớ những vấn đề cần tìm hiểu trong văn bản. Trên đây là những phương thức đọc mà tôi đưa ra. Trong qúa trình dẫn dắt học sinh hiểu được văn bản các phương thức đọc trên cần được linh hoạt sử dụng trong từng tình huống, từng trường hợp cụ thể. Đọc là một kỹ năng, kỹ năng ấy có được hình thành ở học sinh hay không? không thể tự nhiên có được mà phải qua sự kiên trì rèn luyện của bản thân học sinh và sự dẫn dắt tài tình của người giáo viên. Thứ 3: Đọc sáng tạo: là đọc để bổ sung những nội dung mới, làm giàu có về ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm. Đọc biểu hiện sự đánh giá và thưởng thức giá trị vĩnh hằng của tác phẩm. Nó chỉ hoạt động tích cực chủ động của người tiếp nhận. Những hoạt động và thao tác của đọc sáng tạo: Đọc để tái hiện lại chặng đường đời của hình tượng nhân vật trung tâm và khái quát sự vận động của hình tượng từ dầu cho đến hết. 11 Đọc để nhận ra giá trị và ý nghĩa của kết thúc tác phẩm đối với đời sống. Phân tích đánh giá ý nghĩa thời đại lịch sử, ý nghĩa xã hội, đạo đức và ý nghĩa nghệ thuật thẩm mỹ của hình tượng đối với quá khứ, hiện tại và tương lai. Đọc để kết nối những yếu tố ngoại đề trữ tình với giọng điệu và tuyên ngôn nghệ thuật, quan điểm nghệ thuật của tác giả. Đọc để khái quát thành sức sống, tiềm năng sáng tạo của hình tượng trung tâm trong tác phẩm. Trong kho tàng văn học dân tộc và thế giới đã tôn vinh nhiều tác phẩm kiệt xuất mang truyền thống tiến bộ và nhân đạo của nền văn minh nhân loại. Truyện Kiều của Nguyễn Du với “trái tim thiên tài” và biển đời thăm thẳm sự thực đã trở thành một tác phẩm bao quát bằng tâm trí tác giả một cõi mông mênh. Truyện Kiều đã trở thành một bộ phận bất tử trong đời sống tinh thần và văn hóa của con người Việt Nam. Truyện Kiều có sức chứa vô hạn những vấn đề của con người, trong đó khẩn khiết nhất vẫn là bảo vệ và ca ngợi giá trị kết tinh những vẻ đẹp khác nhau của con người từ trời, đất để tạo ra “giai nhân” quý hiếm của mọi thời. Truyện Kiều kêu gọi các thế hệ và các nền văn hóa hãy đối thoại cởi mở và qua đó bộc lộ những khía cạnh có giá trị mà trước kia chưa được phát hiện để nó ngân lên những thanh âm tươi sáng, giúp người đương thời xác lập, tiếp xúc độc đáo với con người của các thế hệ khác và thời đại khác, làm phong phú những giá trị tinh thần của nhân loại vươn tới sự vĩnh cửu. 2.4. Đọc - hiểu văn bản trong dạy học tích hợp ngữ văn bậc THCS Phương thức đọc hiểu văn bản trong dạy học tích hợp môn ngữ văn bậc THCS đáp ứng được yêu cầu “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục chuyển từ truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người đọc chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức. Dạy cho người học phương pháp tự học tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy, phát triển được năng lực của mỗi cá nhân”. Đây là một giải pháp có ý nghĩa cách mạng trong bối cảnh dạy học hiện đại. Chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn bậc THCS được xây dựng theo hướng tích hợp. Lấy kiểu văn bản làm nội dung dạy học, xem văn bản là nơi chứa đựng những giao điểm của Tiếng Việt, Làm Văn để tiến hành dạy học đúng đắn. Vì vậy giáo viên trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, bình giá tác phẩm đồng thời hướng học sinh thấy được tính sinh động của cấu trúc các cấp độ ngôn ngữ được tác giả sử dụng trong đó để hướng tới khả năng thực hành tạo lập kiểu văn bản tương ứng. Ví dụ: Bài : Sơn Tinh Thuỷ Tinh ( Ngữ Văn 6 tập I) Ở phân môn văn học học sinh sẽ được thực hiện các yêu cầu đọc - hiểu văn bản để nhận tức được giá trị sáng tạo của nhân vật Sơn tinh và Thuỷ Tinh. Nhằm giải thích và khái quát hiện tượng lũ lụt đồng thời thể hiện ước mơ về sức mạnh và khát vọng chế ngự thiên nhiên hung dữ của người xưa. Trong khi đó học sinh được 12 tiếp xúc với Hùng Vương thứ mười tám, một người con gái, một người chồng thật xứng đáng .....mà bài danh từ trong môn Tiếng việt tiếp theo cần tìm hiểu. Và chính kết quả học tập của hai phân môn trước là sự chuẩn bị cho học sinh khả năng tìm hiểu sự việc và nhân vật trong văn bản tự ởi phân môn Tập làm văn. Văn học thuộc phân môn được xếp ở vị trí mở đầu của môn học thuộc nhóm kiến thức công cụ được thể hiện trong sách giáo khoa dưới yêu cầu đọc hiểu. Vậy để đọc hiểu được người đọc cần. 2.4.1. Đọc kỹ văn bản Trong chương trình sách giáo khoa một mặt tiếp tục khảng định xu hướng dạy học tác phẩm là chủ yếu nhưng chỉ lựa chọn tác phẩm tiêu biểu cho những thể loại quen thuộc và một mặt vẫn chú trọng hướng dẫn cách thức phân tích tác phẩm văn học, cách chiếm lĩnh các tri thức lí luận và lịch sử văn học, nhưng hướng ưu tiên là những vấn đề gắn với thể loại văn học. Theo đó đọc - hiểu văn bản là đọc văn bản theo đặc trưng thể loại . Đọc gắn liền vơí những đặc điểm của phương thức biểu đạt văn bản, gắn với ngữ cảnh với ý thức về việc nhận diện kiểu loại văn bản. Ví dụ : Để đọc văn bản Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đạt hiệu quả phải dựa trên cơ sở khắc sâu kiến thức về thể loại đã được học trước đó (từ bài Con Rồng Cháu Tiên). Để xác định các yếu tố nghệ thuật cơ bản lời kể, cốt truyện, nhân vật, chi tiết nghệ thuật trong truyền thuyết. Việc xác định được đặc trưng thể loại và kiểu văn bản gắn kiền với việc xác định giọng đọc, gắn liền với những định hướng có tính chất quy ước của nguyên tắc khai thác giá trị văn bản (tính thứ tự của sự việc, cách thức xuất hiện các tình huống nhân vật ) đồng thời nhấn mạnh sức biểu hiện của lời kể. Việc đọc như thế không chỉ nhằm đến mục đích cảm nói chung mà còn góp phần định hình kiến thức cơ sở cho phân môn Tiếng việt, Tập làm văn và phát triển các kỹ năng khác của hoạt động học tập. Đọc bao quát để cảm nhận được chung về văn bản (Dấu hiệu hình thức, những nét chính yếu về nội dung). Và để đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật của tác phẩm người đọc phải vượt qua những bước rào cản như điển tích, điển cố, từ ngữ khó hiểu, những khái niệm văn học ..... Ví dụ1: Đọc văn bản “Sơn Tinh Thuỷ Tinh” sau khi đọc bao quát cần khai thác thông tin ở phần chú thích (Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Mị Nương, cầu hôn, Tản Viên, Lạc hầu, phán, tâu, hồng mao, Phong Châu, nao núng .....) để có một cảm nhận chung về ước mơ chiến thắng thiên tai của người xưa thể hiện qua một truyền thuyết dân gian. Ví dụ 2: Đọc văn bản “Thạch Sanh” Ngữ Văn 6- Tập I cần phải nắm vững các chú thích của các từ chỉ địa danh chỉ ngôi vị thời xưa. 13 Đọc kỹ văn bản kết hợp với việc giải nghĩa xác định lớp nghĩa cơ sở và nghĩa văn cảnh của những từ ngữ khó không chỉ giúp người đọc hiểu sâu sắc văn bản, tiếp xúc được với thực chất sinh quyển của tác phẩm mà còn có ý nghĩa chuẩn bị kiến thức cho phân môn tiếng việt và phân môn tập làm văn. 2.4.2. Tham khảo hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc - hiểu văn bản Những ấn tượng ban đầu về tác phẩm thường được nhập tâm khái quát, có khi tản mạn không rõ rệt. Để hoạt động đọc hiểu văn bản không đi chệch quỹ đạo người đọc có thể tham khảo hệ thống câu hỏi sau mỗi văn bản. Đây là hệ thống câu hỏi không nhấn mạnh yêu cầu tái hiện kiến thức một cách đơn thuần mà khuyến khích người đọc tích cực động não từ việc tham gia nhận diện từng cấp độ kiến thức đến khả năng lập sơ đồ, lựa chọn phương án trả lời. Ví dụ: Văn bản “Sơn tinh Thuỷ tinh” trong sách giáo khoa ngữ văn 6 tập 1 bao gồm 6 câu: - Câu hỏi 1: Yêu cầu về đọc: - Câu hỏi 2: Yêu cầu về chia đoạn và nêu ý của mỗi đoạn. - Câu hỏi 3: Yêu cầu nêu các nội dung được phản ánh trong truyền thuyết. - Câu hỏi 4: Yêu cầu về lực chọn kiến thức để thể hiện sự nhận biết đúng về các yếu tố nghệ thuật cơ bản của truyện - Câu hỏi 5: Yêu cầu xác định nhân vật chính, chi tiết nghệ thuật tưởng tượng kỳ ảo được miêu tả, về ý nghĩa của hình tượng nhân vật chính - Câu hỏi 6: Yêu cầu khái quát ý nghĩa và chủ đề của tác phẩm. => Các yêu cầu trên được sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo một quy trình lôgíc. GV khi hướng dẫn hoạt động đọc - hiểu văn bản cho học sinh cần phải cho học sinh thấy được hệ thống câu hỏi sau mỗi văn bản chỉ được xem như những yêu cầu cần thiết của cấu trúc đọc hiểu chứ không phải là tất cả kiến thức của bài học. Muốn tiếp nhận văn bản được tốt, việc đọc hiểu có thể lấy câu hỏi đó làm điểm tựa từ đó bổ sung những suy nghĩ mới, cách cảm, cách hiểu của riêng bản thân mỗi học sinh. Và còn vì đọc văn là quá trình xác định những lớp nghĩa nghệ thuật của văn bản đồng thời cũng là quá trình chuyển hoá lớp nghĩa đó thành ấn tượng riêng của cảm xúc mỗi người. Bản thân tác phẩm văn học là một thực thể thống nhất việc phân chia nội dung câu hỏi chỉ mang tính chất tương đối. Điều quan trọng là những câu hỏi đó có tính chất định hướng cho học sinh tự học đồng thời gợi mở về một hệ thống hoạt động chiếm lĩnh kiến thức mà giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh thực hiện trong giờ dạy học. 2.4.3. Hỗ trợ tích cực cho hoạt động đọc hiểu văn bản còn có các câu hỏi phần luyện tập, phần đọc thêm và văn bản phụ 14 Phần luyện tập và đọc thêm giúp học sinh củng cố kiến thức. Học sinh có thể so sánh, liên tưởng kiến thức ở phần văn bản chính và những kiến thức các em đã nắm được từ đọc thêm và luyện tập. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết liên hệ và không bỏ qua phần đọc thêm để dẫn dắt học sinh thực hiện hoạt động đọc - hiểu văn bản đạt kết quả tốt. Ví dụ : Khi dạy bài “Con Rồng cháu Tiên” lớp 6 tập I: Có thể sử dụng phần đọc thêm, liên hệ sau: * “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba” * “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” * “Tôi nói đồng bào nghe rõ không” (Hồ Chí Minh) * “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi chim về Nước là nơi rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” (Nguyễn Khoa Điềm - Mặt đường khát vọng”) Các trích đoạn có giá trị liên hệ mở ra kiến thức (lời nhắn nhủ thiêng liêng nhớ về cội nguồn, ý thức đoàn kết cộng đồng, vẻ đẹp của truyền thống nhân văn) Đồng thời cung cấp tư liệu so sánh về cách thức thể hiện tư tưởng chủ đề bài văn đọc - hiểu. 2.4.4. Các bước dạy đọc hiểu văn bản Để có thể dạy đọc hiểu văn bản thành công theo hướng thích hợp giáo viên cần lưu ý các bước sau: - Xác định thể loại và tìm hiểu đặc trưng thể loại. - Xác định bố cục của tác phẩm văn học. - Định hướng xác định chủ đề của tác phẩm văn học. - Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản. 15 Thứ nhất: giúp học sinh hiểu thấu đáo từ ngữ trong văn bản (tích hợp với tiếng việt) + Hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần chú thích và từ ngữ khó trong SGK ngữ văn. + Hướng dẫn học sinh sử dụng từ điển tiếng việt và từ điển Hán việt. Thứ hai: Hướng dẫn học sinh xác định và phân tích các tín hiệu thẩm mĩ của văn bản bằng hệ thống câu hỏi (tích hợp Văn, Tiếng việt và Làm văn) a) Câu hỏi dạy đọc – hiểu: Hỏi về đặc điểm thể loại như đặc điểm, vai trò, tác dụng của thể loại. b) Hỏi hướng vào yếu tố của văn bản: - Câu hỏi đọc lướt, đọc thông: Tìm bố cục, nêu nội dung mỗi đoạn, thuật lại cột truyện, thống kê nhân vật, nêu cảm nhận chung. - Câu hỏi đọc sâu, cảm nhận ngôn từ: + Tên văn bản, từ khóa, câu then chốt, giải nghĩa từ khó, chi tiết, hình ảnh,… + Hiểu các biểu trưng, biểu tượng. + Nắm các điểm nhìn không gian, thời gian. + Hỏi về giọng điệu. - Câu hỏi đọc hiểu: + Chỉ ra các tư tưởng khái quát của văn bản. + Nhận định dánh giá chung về nội dung. + Giá trị thẩm mĩ, kết cấu nghệ thuật. c) Hỏi về yếu tố ngoài văn bản như hoàn cảnh ra đời của văn bản, câu hỏi về tác giả (quê hương, gia đình, bản thân tác giả) 2.4.5. Các phương pháp tổ chức dạy đọc – hiểu văn bản theo hướng tích cực trong dạy học phân môn văn học. a) Hoạt động chuẩn bị bài học * Nội dung hoạt động Khâu chuẩn bị bài là hoạt động diễn ra trước khi tiến hành dạy học trên lớp. Đối với phân môn văn học thì đây là khâu quan trọng của cả hoạt động dạy và hoạt động học. - Người dạy: + Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà từ cuối tiết học trước. + Tập hợp tài liệu. + Tiếp cận nghiên cứu và xử lí tài liệu lựa chọn những thông tin, những vấn đề phù hợp với nội dung và mục tiêu bài dạy. + Chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học có tinh chất minh họa. + Soạn bài: hình thành tất cả các hoạt động của thầy và trò ở trên lớp, sau giờ học. 16 - Người học: + Tập hợp các tài liệu có liên quan đến tác phẩm. + Soạn bài trên cơ sở các câu hỏi SGK. + Chuẩn bị một số đồ dùng theo yêu cầu của giáo viên. * Hình thức tổ chức: Học sinh hoạt động độc lập là chủ yếu có thể khuyến khích học sinh làm việc theo nhóm. b) Hoạt động trong giờ lên lớp Hoạt động tái hiện hình tượng Hoạt động này phù hợp với giai đoạn bước đầu của cảm thụ tác phẩm từ vô thanh đến lớp hình. Và đây cũng là hoạt động giúp học sinh bước vào thế giới nghệ thuật. Tác phẩm được tái hiện trong tưởng tượng của học sinh không còn là tổng hợp các kí hiệu chết, phi vật thể nữa mà là những tác phẩm đích thực tồn tại trong trí tưởng tượng của người đọc – học sinh. Các phương pháp dùng cho hoạt động này: - Đọc diễn cảm, đọc thầm, đọc to. - Đọc phân vai. - Sáng tạo lời nói ý nghĩ nhân vật. - Miêu tả tâm trạng nhân vật, phong cách. - Minh họa bằng các tác phẩm nghệ thuật khác. - Tường thuật theo văn bản. Trong các phương pháp trên giáo viên cần chú ý đến phương pháp đọc. Giáo viên đọc mẫu – đọc diễn cảm cả một bài thơ hay một câu chuyện sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn. Vì vậy, giáo viên cần nắm vững kĩ thuật đọc, biết dừng, ngắt đúng lúc, lên xuống giọng, đọc nhanh, đọc chậm, sử dụng những giọng đọc khác nhau cho các nhân vật khác nhau, …  Hoạt động tìm hiểu chú thích văn bản Xuất phát từ ý thức đòi hỏi học sinh hiểu sâu, hiểu kĩ chữ nghĩa trong văn bản để có cơ sở tìm hiểu sâu hơn văn bản. Xét về nội dung các chú thích chủ yếu tập trung giải nghĩa từ ngữ, giới thuyết về các địa danh, các tên gọi,… Các tác phẩm văn học trung đại thì có thêm chú thích về điển cố, điển tích. Đó là những thông tin hết sức cần thiết và bổ ích giúp người đọc, người học hiểu thêm về nội dung tác phẩm do đó khi dạy học trên lớp giáo viên cần quan tâm đúng mức cho hoạt động tìm hiểu chú thích tránh việc lần lượt nhắc lại hay cho học sinh trình bày sẽ gây nhàm chán. Để phát huy tính tích cực của học sinh giáo viên cần tạo cho học sinh thói quen đọc trước phần chú thích ở nhà. Đến lớp giáo viên chỉ còn chọn những chú thích quan trọng hay những chú thích khó mà SGK chưa có điều kiện trình bày một cách chi tiết. Làm tốt khâu này sẽ giúp học sinh nhanh chóng tiếp cận và hiểu sâu hơn về tác phẩm. 17 Hoạt động chiếm lĩnh tri thức (tìm hiểu văn bản) Đây là hoạt động chủ đạo chiếm lĩnh phần lớn thời gian cũng như quyết định thành công của tiết học. Nhiệm vụ của tiết học này là nhằm khai thác, tìm hiểu, phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Nó bao gồm các hoạt động của giáo viên với tư cách là người tổ chức, hướng dẫn và các hoạt động của học sinh với tư cách là người tham gia thực hiện một cách chủ động tích cực. Ví dụ: Khi dạy bài “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của “La-Phông -ten” SGK Ngữ văn tập II, giáo viên có thể tiến hành các hoạt động chiếm lĩnh tri thức như sau: - Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung. - Giáo viên có thể dung bài tập trắc nghiệm sau: Điền tên La-Phông-ten vào chỗ trống ứng với mỗi lời giới thiệu đúng về tác giả: A) …………… nhà thơ Pháp thế kỉ thứ 17, tác giả của bài thơ chó sói và cừu non. B) ……………. là nhà triết gia, nhà nghiên cứu văn học Pháp thế kỉ thứ 16, tác giả của công trình nghiên cứu La-phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông. C) …………… nhà vạn vật học, nhà văn Pháp thế kỉ thứ 18, tác giả của công trình nghiên cứu vạn vật học. - Giáo viên yêu cầu học sinh phân biệt nội dung thể loại của ba văn bản: Vạn vật học, chó sói và chiên con, chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phôngten, tìm hiểu nội dung, bố cục văn bản của đoạn trích, giáo viên tổng kết. - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng con cừu trong mắt của La-phông-ten và con cừu trong quan sát của Buy-phông. - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng con chó sói trong mắt của La-phông-ten và con chó sói trong quan sát của Buy-phông. - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích sáng tạo trong cách miêu tả cừu và chó sói của La-phông –ten. Có thể nói hoạt động chiếm lĩnh tri thức trong một giờ dạy văn mất rất nhiều thời gian. Đây chính là quá trình giúp học sinh tiếp cận và khám phá những giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Không chỉ đơn thuần tìm hiểu tác phẩm để đề cập đến vấn đề gì, thành công về nghệ thuật ra sao mà giáo viên giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của văn chương, biết bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của bản thân về một nhân vật, một chi tiết nghệ thuật, … Hoạt động này không dễ đòi hỏi giáo viên phải tài tình khéo léo, học sinh phải chủ động sáng tạo.  Hoạt động trả lời câu hỏi và giải quyết các vấn đề Hệ thống câu hỏi có thể dùng cho tất cả các giai đoạn dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh tác phẩm. Phạm vi câu hỏi có khi rất hẹp thuộc một từ, một câu, một hình ảnh, 18 … nhưng vẫn đòi hỏi sự suy nghĩ, sự hoạt động nhận thức sáng tạo, câu hỏi trong hoạt động này phải đảm bảo những yêu cầu sau: + Câu hỏi phải gợi mở, tìm tòi vấn đề. + Câu hỏi đòi hỏi học sinh phải hoạt động phân tích, học sinh có thể phải tổng hợp khái quát mới trả lời được vấn đề. + Câu hỏi phải hướng vào vấn đề trọng tâm. + Câu hỏi tái hiện vấn đề. Hình thức câu hỏi khác nhau là tùy theo hoạt động, tùy theo sự linh hoạt dẫn dắt của giáo viên. Có khi là một câu hỏi so sánh một biện pháp nghệ thuật để làm sáng rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả từ một từ, một chi tiết, một hình ảnh, một tuyến nhân vật. Có khi là câu hỏi buộc học sinh phải tổng hợp được nhiều tri thức cụ thể trong một chỉnh thể tác phẩm, có khi là câu hỏi buộc học sinh phải huy động những kiến thức ngoài tác phẩm mới có thể hiểu một điểm nào đó trong tác phẩm. Vì thế không thể có một chỉ dẫn công thức thay cho sự tìm tòi và sáng tạo của giáo viên. Ví dụ: Khi dạy “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ giáo viên không thể cung cấp cho học sinh vị trí của tác giả và bài thơ trong trào lưu thơ mới. Giáo viên có thể nêu các câu hỏi sau: ? Các em hiểu thế nào là thơ mới? ? Em biết gì về vai trò, vị trí của nhà thơ Thế Lữ trong trào lưu thơ mới? Giáo viên có thể dùng những câu hỏi sau để khai thác giá trị nội dung của bài thơ? ? Hãy xác định hình tượng trung tâm của bài thơ? ? Bài thơ có 5 đoạn, mỗi đoạn diễn tả một tâm trang của chúa sơn lâm. Em hãy làm rõ trạng thái ấy qua mỗi đoạn? ? Trong bài thơ có hai cảnh tượng tự nhiên đối lập nhau. Đó là những cảnh tượng nào? ? Cho biết ý nghĩa tượng trưng của mỗi cảnh tượng tự nhiên trong bài thơ? ? Cho biết hoàn cảnh và tâm thế của chúa sơn lâm trong vườn bách thú? ? Cho biết hoàn cảnh và tâm thế của chúa sơn lâm trong vươn quốc của mình? ? Hãy xác định hoàn cảnh và tâm thế của chúa sơn lâm trong hiện tại. Hoàn cảnh và tâm thế đó tiêu biểu cho lớp người nào lúc bấy giờ? Giáo viên có thể dùng những câu hỏi sau để khai thác giá trị nghệ thuật: ? Những từ ngữ hình ảnh nào làm nên vẻ đẹp oai hùng của con hổ trong bài thơ? Trong bài thơ, những khổ thơ, câu thơ nào theo em là hay nhất? vì sao? 19 ? Em có nhận xét gì về sự thay đổi giọng điệu trong các dòng thơ, sự thay đổi đó có quan hệ như thế nào đối với nội dung và mạch trữ tình của tác phẩm? Nhận xét về cách ngắt nhịp trong bài thơ? ? Tìm dẫn chứng chứng minh rằng: bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố thơ, nhạc, họa? ? Tại sao nói thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạng? Trong quá trình vấn đáp tìm tòi để giải quyết từng vấn đề, từng câu hỏi đặt ra cho học sinh, giáo viên tùy thuộc tình huống mà nêu them cây hỏi phụ để gợi mở, dẫn dắt người đọc đi đúng hướng.  Hoạt động củng cố hình thành kĩ năng: Là hoạt động cuối cùng đóng vai trò kết thúc giờ đọc –hiểu văn bản. khi tổ chức hoạt động này giáo viên nên gợi ý để học sinh chủ động tổng kết khái quát toàn bộ nội dung đã khai thác, tìm hiểu. Trên cơ sở đó lựa chọn ý kiến đúng, chỉ ra những ý kiến còn chưa chính xác và tổng hợp thành giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh biết cách nhận xét, khái quát, đánh giá được những thành công, hạn chế của tác phẩm, những đóng góp của tác giả. Giáo viên cần tiến hành các thao tác sau: + Tổng kết những kiến thức cơ bản của bài học. + Hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng dưới nhiều hình thức: Làm bài tập, luyện đọc diễn cảm, kể chuyện, diễn kịch,… Đây là quá trình giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học và thực tế sử dung ngôn ngữ, có thể viết một đoạn văn, kể môt câu chuyện. c) Hoạt động ngoài giờ lên lớp * Nội dung hoạt động  Hoạt động qua hệ thống bài tập ở nhà: Giáo cần quan tâm tới việc giao bài tập cho học sinh dưới các dạng: Đọc thêm các tác phẩm cùng tên của tác giả, cùng chủ đề, tìm hiểu thêm về tiểu sử cũng như về sự nghiệp sáng tác của tác giả, đọc thuộc lòng, phát biểu cảm nghĩ về một nhân vật, một chi tiết, một hình ảnh. Ví dụ: Dạy xong bài “Ca dao – dân ca” (Ngữ văn 7 tập I), giáo viên có thể yêu cầu học sinh sưu tầm thêm những bài ca dao có nội dung tương tự. - Dạy xong văn bản “Khi con tu hú” (Ngữ văn 8 tập II), giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm bài tập về nhà: viết một đoạn văn biểu cảm ghi lại cả xúc của em trước cảnh thiên nhiên vào hè được miêu tả trong bài thơ  Hoạt động sáng tác văn học: là hoạt động có tinh chất phát huy năng khiếu của học sinh. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan