Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo GDCD-GDNGLL Skkn giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn gdcd...

Tài liệu Skkn giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn gdcd lớp 12

.DOC
48
1868
74

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH Mã số: ............................. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 (Qua Khảo Sát Tại Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai) Người thực hiện: NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy môn GDCD SƠ YẾU LÝ LỊCH KHOA HỌC Năm học: 2012-2013 I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN: 1 . Họ và tên: Nguyễn Thị Bích Hồng 2. Sinh ngày 03 tháng 02 năm 1982 3. Nư 4. Long bình - Biên Hoà – Đồng Nai ĐTDĐ: 01686079363, E-mail: [email protected] 6. Chức vụ: Tổ Trưởng chuyên môn 7. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh II. TRÌNH ĐÔÔ ĐÀO TẠO : - Trình đô ô chuyên môn: Thạc Sĩ - Năm nhâ ôn bằng: 2012 - Chuyên nghành đào tạo: Lý luận và phương pháp dạy học môn GDCT III: KINH NGHIÊÔM KHOA HỌC : - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Số năm có kinh nghiệm: 08 năm - Sơ đồ hoá kiến thức môn giáo dục công dân lớp 11 - Vận dụng các tình huống pháp luật thực tế vào giảng dạy môn GDCD lớp 12 - Phát triển năng lực tự học cho học sinh thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 MỤC LỤC A. Mở đầu…………………………………………………………………1 B. Nội dung………………………………………………………………. 7 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 (QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, TP. BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI))………………………………………………………………..7 1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh…………………………………………………………………………7 1.2. Cơ sở thực tiễn của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh )…………………………………………18 Kết luận chương 1………………………………………………………...25 Chương 2: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12(QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, TP. BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI..................................................................................................26 2.1. Giải pháp đối với giáo viên bộ môn giáo dục công dân lớp 12............26 2.2. Giải pháp đối với học sinh lớp 12……………………………………27 2.3. Giải pháp về phía nhà trường………………………………………...32 2.4. Một số giải pháp khác...........................................................................34 Kết luận chương 2…………………………………………………….......38 C. Kết luận………………………………………………………………...40 D. Danh mục tài liệu tham khảo ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 (Qua Khảo Sát Tại Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai) A. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước nhưng tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật trên thế giới, nước ta luôn tiến hành đổi mới đường lối, chính sách, phát huy tối đa nội lực đồng thời tranh thủ thời cơ, tiếp thu và vận dụng sáng tạo nhưng thành tựu tiến bộ, văn minh của nhân loại vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó vấn đề giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giư một vị thế rất quan trọng của chính sách quốc gia, nhằm đáp ứng nhưng đòi hỏi của thực tiễn đối với con người trong giai đoạn mới. Do đó, thế hệ trẻ của Việt Nam hôm nay (học sinh, sinh viên, thanh niên), ngoài việc trang bị năng lực tư duy, trí tuệ, cần thiết phải được rèn luyện, giáo dục về đạo đức, ý thức công dân, … để xứng đáng là thế hệ tương lai có đủ cả đức và tài. Tuy nhiên cũng chính trong quá trình hội nhập, nhưng luồng tư tưởng, quan điểm tiêu cực cũng du nhập vào nước ta gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lối sống, sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tác động vào nền đạo đức xã hội Việt Nam, khiến cho một số giá trị đạo đức ngày càng lệch chuẩn, tệ nạn xã hội không ngừng gia tăng, tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên ngày càng phổ biến, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận giới trẻ rất kém, thậm chí còn coi thường pháp luật. Đối mặt với nhưng thách thức đó, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên là một nội dung không thể thiếu trong chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay. Mặt khác, trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi hỏi phải xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Chính vì vậy, vấn đề làm thế nào để học sinh được tiếp cận các tình huống pháp luật, được phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật đã trở thành một trong nhưng mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay, của toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Thực hiện chủ trương này, nhiều cấp uỷ Đảng đã có sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo sát sao việc tăng cường công tác phổ biến, GDPL ở địa phương, đơn vị, cơ quan, tổ chức. Quán triệt quan điểm chung đó, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai cũng xác định một trong nhưng nội dung chính trong nhiệm vụ trọng tâm của các trường là đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật cho học sinh. Vì vậy, thời gian qua các trường THPT nói chung và Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh nói riêng trên địa bàn Thành phố Biên Hòa đã tiến hành giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua nhiều hoạt động khác nhau như hoạt động ngoài giờ lên lớp, qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, qua sinh hoạt chào cờ đầu tuần hoặc qua quá trình dạy học bộ môn. Với yêu cầu cấp thiết trên, tác giả muốn nghiên cứu, làm rõ hơn về thực tiễn giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh. Do đó, tôi chọn đề tài Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh) làm đề tài sáng kiến kinh nghiêm, năm học 2012- 2013 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho nhân dân là yêu cầu tất yếu trong xây dựng đất nước và quản lý xã hội của một quốc gia. Đối với nước ta, ngay từ đầu nhưng năm 80 của thế kỷ XIX đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, phải phổ biến, GDPL trong quá trình xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định: “Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân, củng cố kỷ cương, bảo đảm an ninh, trật tự công cộng, thực hiện nguyên tắc: Mọi người sống và làm việc theo pháp luật”[14; 35]; “Đi đôi với việc nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn và năng lực thực hành, coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng”[14; 71]. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI cho rằng: “Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ”[13; 126]. Ngày 20/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định Số: 1928/QĐ-TTg, Phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường” với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và người học, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Ngày 28/6/2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch Số: 366/KHBGDĐT, Thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”. Mục đích của kế hoạch là thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt trong Đề án thuộc Quyết định số: 1928/QĐ-TTg nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, GDPL trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Tăng cường phối hợp các lực lượng làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và các điều kiện bảo đảm cho việc triển khai công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường trong các năm tiếp theo. Ngoài sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, vấn đề phổ biến, GDPL còn được nhiều tác giả nghiên cứu, trong số đó có nhưng nghiên cứu đã được in thành sách, cụ thể như: Năm 1997, Nguyễn Duy Lãm chủ biên cùng với nhiều tác giả khác đã biên soạn cuốn Một số vấn đề về phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay. Quyển sách này gồm nhiều bài viết của các tác giả là nhưng cán bộ đang công tác trong và ngoài ngành tư pháp với nhưng nội dung được trình bày như: Thực trạng, các biện pháp tăng cường phổ biến, GDPL cho đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước, học sinh trong các trường học, cán bộ quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp và các đối tượng của hoạt động tư pháp. Để góp phần vào sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thế hệ trẻ của toàn xã hội, năm 2002, tác giả Trần Đức Châm đã mang đến cho độc giả cuốn sách có tựa đề Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp. Cuốn sách gồm 4 chương, tập trung giải thích các hiện tượng sai lệch và tội phạm; thực trạng tội phạm thanh, thiếu niên ở Việt Nam. Trên cơ sở lý thuyết khoa học và nhưng nghiên cứu thực trạng vấn đề thanh, thiếu niên làm trái pháp luật, tác giả đã đề xuất một số giải pháp để phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng trên. Các công trình nghiên cứu khoa học trên về cơ bản rất có giá trị, nội dung và đối tượng nghiên cứu phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, thực tiễn về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu. Do đó, từ sự kế thừa cơ sở lý luận của các công trình nghiên cứu trước, chúng tôi tiếp tục muốn góp phần làm rõ hơn về Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Tp.Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai) 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát cơ sở lý luận về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh. - Làm rõ thực trạng của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, TP.Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai) - Đề ra một số giải pháp nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 một cách có hiệu quả. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật, nhưng quan điểm chỉ đạo, các cơ sở pháp lý của Đảng và Nhà nước về phổ biến, GDPL cho học sinh, về giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong nghiên cứu đề tài, ngoài sử dụng phương pháp luận khoa học Mác - Lênin, còn có các phương pháp mang tính đặc thù sau đây: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử và logic; phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi; phương pháp quan sát, thực nghiệm; phương pháp xử lý thông tin và phân tích số liệu. 7. Đóng góp của đề tài Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy của giáo viên giáo dục công dân trung học phổ thông, trung học cơ sở trong giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh. Kết quả đề tài còn cung cấp nhưng giá trị thực tiễn cho ngành giáo dục Việt Nam về việc thực hiện giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh nói riêng cũng như công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường nói chung. 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của đề tài được thể hiện trong 2 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, TP. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai)). Chương 2: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 B. Nội dung Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 (QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, TP. BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI)). 1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm pháp luật Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp, luôn biến động, ra đời gắn liền với Nhà nước. Từ thời cổ đại tới nay đã có nhiều quan điểm khác nhau về pháp luật. Quan niệm thần bí, duy tâm thì cho rằng: “Pháp luật là ý chí, mệnh lệnh của thượng đế, hoặc là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối”[11; 49]. Xét về mặt triết học, pháp luật là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc thượng tầng xã hội, nó do cơ sở hạ tầng quyết định đồng thời tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội thì sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Ở Việt Nam hiện nay, về mặt thuật ngư pháp lý, “Pháp luật là toàn bộ các quy phạm do Nhà nước ban hành để bảo vệ, củng cố và phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân. Nhiệm vụ chủ yếu của pháp luật trong giai đoạn hiện nay là bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Biện pháp chủ yếu bảo đảm thi hành pháp luật là tuyên truyền, phổ biến pháp luật, là thuyết phục và tạo thành phong trào quần chúng tự nguyện chấp hành pháp luật. Đồng thời, trong việc thi hành pháp luật cũng không loại trừ khả năng sử dụng biện pháp cưỡng chế trong nhưng trường hợp cần thiết để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh pháp luật”[21; 344]. Theo quan điểm của các nhà luật học Việt Nam, pháp luật được định nghĩa như sau: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền”[9; 32]. Pháp luật, về bản chất nguyên gốc là mối tương quan giưa con người với con người, giưa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự, mỗi người phải tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân hành, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi phạm. Từ sự phân tích trên có thể khái quát khái niệm pháp luật như sau: Pháp luật là nhưng quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước xác lập nhằm điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã hội. Sự điều chỉnh của pháp luật nhằm chống lại cái ác bảo vệ cái thiện, hướng con người hành động trong mối quan hệ hướng tới cái thiện. Pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy Nhà nước và được thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật chính là công cụ để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có Nhà nước. 1.1.1.2. Khái niệm chấp hành pháp luật Để điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, bên cạnh việc tổ chức xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật, Nhà nước phải tổ chức đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống. Bởi vì pháp luật chỉ có ý nghĩa đích thực khi được thực hiện, khi các quy định của pháp luật trở thành nhưng hành vi hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tất cả nhưng hành vi của mỗi cá nhân, hoặc cơ quan, tổ chức được tiến hành phù hợp với nhưng quy định của pháp luật, có lợi cho Nhà nước, xã hội và nhân dân hay nói đúng hơn đó là nhưng hành vi hợp pháp được gọi là sự thực hiện pháp luật. Như vậy, có thể hiểu chấp hành (thi hành) pháp luật là một trong nhưng hình thức của thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật (bao gồm các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, mọi công dân) phải thực hiện nhưng việc mà pháp luật bắt buộc phải làm một cách chủ động. Chẳng hạn như mọi chủ thể khi kinh doanh đều buộc phải đóng thuế cho Nhà nước, hay mọi công dân muốn lái xe mô tô trên 50cc (phân khối) phải có giấy phép lái xe theo quy định của pháp luật, … Và để chấp hành pháp luật thì các chủ thể pháp luật phải biết được nhưng gì pháp luật bắt mình phải làm và thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Định nghĩa về chấp hành (thi hành) pháp luật nêu trên được phân biệt về cách thức thực hiện pháp luật với tuân thủ pháp luật. Bởi vì tuân thủ pháp luật cũng là một hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hành nhưng hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ chủ thể lái xe không được vượt đèn đỏ, không được lạng lách, vượt ẩu; hay mọi công dân đều không được săn bắt trái phép các loài động, thực vật quý hiếm; công chức không được tham nhũng; … Hình thức này có cơ sở là các quy phạm pháp luật cấm đoán. Trong khi tuân thủ pháp luật, con người thực hiện nghĩa vụ của mình một cách thụ động. Vì vậy, để tuân thủ pháp luật, các chủ thể cần biết cái gì không được làm và kiềm chế không tiến hành nhưng việc đó. Tuy nhiên, nếu xét về ý nghĩa, nhìn một cách tổng thể thì cả tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật đều là nhưng hành vi hợp pháp, tôn trọng pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các quy định của pháp luật. Hay nếu nhìn nhận theo nghĩa rộng hơn thì chấp hành pháp luật nó bao hàm cả tuân thủ pháp luật. Từ phân tích trên có thể khái quát khái niệm chấp hành pháp luật như sau: Chấp hành pháp luật là hành vi mà bất cứ một cá nhân, tổ chức nào (bao gồm cả nhưng hành vi chủ động và hành vi thụ động) đều phải tuân theo tất cả nhưng quy định của pháp luật của bất kỳ quốc gia nào mà mình sinh sống và làm việc. 1.1.1.3. Khái niệm ý thức chấp hành pháp luật Các yếu tố cấu thành của đời sống pháp luật rất đa dạng. Nó không chỉ bao gồm lĩnh vực xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật mà còn có nhưng bộ phận khác. Một trong nhưng bộ phận ấy là ý thức pháp luật. Sự tồn tại và vận động của pháp luật trong xã hội liên quan chặt chẽ với ý thức pháp luật. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong nhưng giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức xã hội biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, mỗi hình thái phản ánh nhưng mặt nhất định đời sống vật chất của xã hội và thực hiện nhưng chức năng xã hội nhất định, chúng có tính độc lập tương đối đồng thời tác động qua lại lẫn nhau như ý thức chính trị, ý thức tôn giáo, ý thức pháp luật (ý thức pháp quyền), … Như vậy, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội cụ thể, phản ánh đời sống pháp luật của xã hội. Và khái niệm ý thức pháp luật được định nghĩa trong các tài liệu lý luận về pháp luật ở nước ta hiện nay là “tổng thể nhưng học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có; thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức khác trong xã hội”[19; 40]. Qua đó cho thấy ý thức pháp luật gồm hai bộ phận cơ bản là hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay có thể nói ý thức pháp luật gồm sự nhận thức pháp luật và thái độ đối với pháp luật. Chính vì thế, ý thức chấp hành pháp luật là một trong các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật. Ý thức chấp hành pháp luật bao gồm tư tưởng, thái độ tôn trọng pháp luật và không khoan dung đối với hiện tượng vi phạm pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Ý thức chấp hành pháp luật là cơ sở, tiền đề trực tiếp cho sự thực hiện pháp luật nói chung và chấp hành pháp luật nói riêng. Ý thức chấp hành pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật càng được đảm bảo. 1.1.2. Tính tất yếu của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh 1.1.2.1. Khái niệm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật Sự hình thành ý thức của con người là quá trình ảnh hưởng tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Cho nên sự hình thành ý thức chấp hành pháp luật cũng vừa là sản phẩm của điều kiện khách quan lẫn sự tác động định hướng của nhân tố chủ quan. Trong đó điều kiện khách quan là nhân tố ảnh hưởng mang tính chất tự phát, còn nhân tố chủ quan lại là nhân tố có tác động cực kỳ quan trọng đến sự hình thành ý thức chấp hành pháp luật của một cá nhân, mà hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội là yếu tố hàng đầu. Đó cũng là quan điểm mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng nêu. C. Mác đã từng cho rằng con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi. V. I. Lênin cũng từng nhấn mạnh ý thức pháp luật được hình thành trong quá trình giáo dục. Vậy giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là một hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành tư tưởng, tình cảm, niềm tin vào pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với nhưng quy định của pháp luật ở đối tượng giáo dục, từ đó có nhưng hành vi hợp pháp. Ở nước ta hiện nay, việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho mọi công dân, đặc biệt là trong lực lượng học sinh, sinh viên là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, của tất cả các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, của các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, … mà trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo con người. 1.1.2.2. Tính tất yếu khách quan của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh - Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh xuất phát từ mục tiêu giáo dục toàn diện Xác định rõ mục tiêu giáo dục là một điều rất quan trọng và cần thiết vì nó định hướng chiến lược đầu tư giáo dục, xây dựng nội dung chương trình, chọn lọc nội dung, xác định và chi phối toàn bộ công tác quản lý, điều hành các bậc học và toàn bộ phương pháp dạy và học. Với mỗi bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân, mục tiêu giáo dục được xác định cụ thể hơn. Riêng đối với giáo dục phổ thông (bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông), mục tiêu giáo dục hướng đến là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 27 - Luật Giáo dục)[29; 25]. Rõ ràng trong quá trình giáo dục, không thể chỉ trang bị các tri thức khoa học cho học sinh, mà còn phải kết hợp với giáo dục đạo đức, nhân cách, …để giúp các em phát triển toàn diện. Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là một dạng giáo dục có đặc trưng hướng đến điều chỉnh hành vi của con người trong mối quan hệ với người khác và với xã hội theo các chuẩn mực pháp luật. Vì thế, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật có vai trò to lớn trong sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, đặc biệt là đối với học sinh. - Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật xuất phát từ vị trí quan trọng của học sinh trong xã hội và mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực nước nhà Học sinh là thế hệ “mầm non”, tương lai của đất nước. Họ cũng là lực lượng đông đảo của xã hội. Vì vậy, nếu tất cả học sinh đều có ý thức chấp hành pháp luật, nghĩa là số người có ý thức chấp hành pháp luật trong xã hội cũng cao. Điều đó sẽ góp phần làm cho trật tự, kỷ cương của xã hội ngày càng được chấn chỉnh tốt hơn. Ngoài ra học sinh có ý thức chấp hành pháp luật tốt sẽ lan tỏa, ảnh hưởng đến nhưng người xung quanh, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Học sinh cũng chính là nguồn nhân lực tương lai trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập với thế giới. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có đạo đức, nhân cách và đặc biệt là ý thức trách nhiệm công dân. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa thì các quan hệ quốc tế cũng phải được xây dựng trên nền tảng pháp luật. Vì vậy, nhà trường cần chuẩn bị cho học sinh nhưng hiểu biết, tâm thế để xử lý các quan hệ trong và ngoài nước bằng pháp luật, theo pháp luật. Học sinh các lứa tuổi cần được giáo dục sâu sắc về ý thức chấp hành pháp luật. Nhưng đòi hỏi đó phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong việc phát huy nhân tố con người để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh xuất phát từ vị trí, vai trò tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội và trong sự hình thành nhân cách Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa là công cụ quản lý xã hội quan trọng và hiệu quả. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, pháp luật là một phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân Việt Nam chống lại các lực lượng thù địch, phản cách mạng, giư vưng an minh, trật tự xã hội, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật cũng là công cụ để cải tạo xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, … định hướng cho xã hội phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Pháp luật là phương tiện thông qua đó Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội, là cơ sở pháp lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tổ chức và hoạt động, quản lý hiệu quả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, thiết lập và đảm bảo công bằng xã hội, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra pháp luật còn tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành nhưng quan hệ mới trong xã hội, đồng thời củng cố, mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế giưa Nhà nước xã hội chủ nghĩa với các nước khác và các tổ chức quốc tế. Pháp luật là công cụ bảo vệ hưu hiệu quyền công dân, quyền con người, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ công lý. Pháp luật cũng bảo vệ, tạo điều kiện cho nhưng công cụ quản lý xã hội khác phát triển vì xã hội công bằng, hạnh phúc, văn minh, tốt đẹp hơn. Đặc biệt pháp luật còn giư một vai trò hết sức quan trọng trong giáo dục con người mới. Trong xã hội, pháp luật là một trong nhưng phương tiện để giáo dục con người mới năng động, sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng chính nhưng quy định của mình, pháp luật giáo dục mỗi cá nhân trách nhiệm của người công dân, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giư gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, … Pháp luật còn giáo dục công dân yêu lao động, yêu Tổ quốc, trung thành với Tổ quốc, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, đoàn kết, hưu nghị và hợp tác với các dân tộc khác trên thế giới vì hòa bình và tiến bộ xã hội. Ý nghĩa giáo dục to lớn của pháp luật còn thể hiện ở việc pháp luật quy định nhưng biện pháp khen thưởng và trừng phạt phù hợp đối với các hành vi pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. - Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh xuất phát từ thực trạng ý thức chấp hành pháp luật của thế hệ trẻ hiện nay Trong sự phát triển của xã hội ngày nay, vấn đề giáo dục nhân cách, lối sống tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thế hệ trẻ là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi thực tế hiện nay, nhưng biểu hiện về suy thoái đạo đức cũng như tình trạng vi phạm pháp luật của thanh thiếu niên đã gióng lên hồi chuông báo động cho gia đình, nhà trường và xã hội. Điều đáng nói là ý thức đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật của thanh - thiếu niên ngày càng có chiều hướng gia tăng. Hằng ngày, qua nhưng thông tin trên đài, báo, truyền hình cho chúng ta thấy rõ thực trạng việc học sinh vi phạm pháp luật, vô lễ với thầy cô giáo, quậy phá, đánh nhau,… ngày càng nhiều và đang trở thành một vấn đề nóng bỏng của xã hội. Đây là một vấn nạn và là nỗi lo chung của tất cả mọi người. Các loại tội phạm như: Trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản, thậm chí giết người, lừa đảo, vi phạm pháp luật về giao thông, tiêm chích ma tuý vẫn diễn ra hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi. Nguy hiểm hơn, các tệ nạn ấy đã len lõi vào tận học đường và ở khắp mọi nơi, từ đồng bằng đến miền núi, thậm chí cả nhưng vùng xa xôi hẻo lánh. Hiện tượng “trẻ hoá” phạm tội đang là một nguy cơ đáng lo ngại không nhưng cho chính các bậc phụ huynh có con em phạm pháp, mà còn cho các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong công tác giáo dục pháp luật. Nguyên nhân thanh thiếu niên phạm tội trước hết là do ý thức phấn đấu, tự rèn luyện, tu dưỡng của các cá nhân còn quá yếu hoặc hoàn cảnh khách quan đưa đến như bị bạn bè lôi kéo, rủ rê đến với con đường phạm tội. Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến đó là do lỗi của các bậc cha, mẹ ít khi nhìn thấu được nhưng hành vi sai trái của con trẻ để dạy dỗ, răn đe. Ngoài ra đối với tuổi mới lớn thì nhưng biến đổi về thể chất và tinh thần diễn ra khá phức tạp, chính trong giai đoạn này nhiều em đã bị dao động, mất phương hướng dẫn đến nguy cơ sai phạm trong hành vi cao. Cho nên, hơn ai hết, nhà trường phải thực sự coi giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh nhằm giảm thiểu tình trạng học sinh phạm tội là một yêu cầu giáo dục cấp thiết hiện nay. 1.1.3.3. Vai trò của dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 với việc hình thành ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh Trong số các môn học ở trường THPT, môn giáo dục công dân có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng, đây là môn học nhằm giáo dục, đào tạo cho đất nước nhưng công dân hoàn thiện, chuẩn mực, nhưng công dân có thể đảm đương trọng trách cao cả, gánh vác nhưng nhiệm vụ khó khăn, nặng nề của Tổ quốc, của dân tộc trong tương lai. Nhiệm vụ cơ bản của môn học này là giáo dục một cách trực tiếp và toàn diện tư tưởng chính trị trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, cũng như trang bị nhưng chuẩn mực đạo đức và pháp luật của xã hội hiện tại cho học sinh để sau khi tốt nghiệp THPT các em có thể thực sự thể hiện một cách tốt nhất tư cách công dân của mình. Riêng việc dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 giư vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hình thành ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh, góp phần hoàn chỉnh và phát triển nhân cách cho các em. Cùng với các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật khác trong nhà trường THPT, chương trình môn giáo dục công dân 12 không nhưng chỉ trang bị cho học sinh nhưng kiến thức cơ bản về một số lĩnh vực của pháp luật nước ta mà thông qua quá trình dạy học bộ môn này còn giáo dục hành vi, thái độ và ý thức của học sinh đối với pháp luật. Hoạt động giảng dạy cùng với sự định hướng, chỉ bảo của giáo viên góp phần tác động rất lớn đến tư tưởng cũng như nhận thức của các em. Nếu như chương trình môn giáo dục công dân lớp 10 và lớp 11 chủ yếu tập trung vào các nội dung như: Triết học, đạo đức, kinh tế học, các chủ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan