Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn đổi mới tổ chức lớp học ll về thể loại kịch theo hướng sân khấu hóa,nhằm ph...

Tài liệu Skkn đổi mới tổ chức lớp học ll về thể loại kịch theo hướng sân khấu hóa,nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học.

.DOC
131
1245
96

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN NĂM HỌC 2014 - 2015 ĐỀ TÀI: ĐỔI MỚI TỔ CHỨC LỚP HỌC LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI KỊCH THEO HƯỚNG SÂN KHẤU HÓA, NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC TÁC GIẢ: VŨ THỊ THU HƯƠNG BÙI THỊ DUNG LÊ THÀNH DƯƠNG TRẦN NGỌC THÚY NGUYỄN THỊ LÂM TRƯỜNG THPT NHO QUAN C GMAIL: [email protected] SỐ ĐIỆN THOẠI: 0303.674.215 1 ĐỀ TÀI: ĐỔI MỚI TỔ CHỨC LỚP HỌC LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI KỊCH THEO HƯỚNG SÂN KHẤU HÓA, NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC Nhiệm vụ nghiên cứu của các thành viên trong nhóm STT Họ và tên 1 Vũ Thị Thu Hương Nhiệm vụ Đồng tác giả Nội dung/ Mức độ tham gia - Chương 1. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực người học - Chương 2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng hình thành những phẩm chất cần có của người học - Điều tra, thống kê kết quả đạt được của học sinh trước và sau khi học thể loại kịch theo 2 Bùi Thị Dung Đồng tác giả hướng sân khấu hóa. - Chương 3. Lí luận về kịch và kịch bản văn học - Chương 4. Những yêu cầu về đọc kịch bản văn học - Dạy học tác phẩm kịch theo hướng tích hợp, phát huy năng lực, phẩm chất học sinh - Điều tra, thống kê kết quả đạt được của học sinh trước và sau khi học thể loại kịch theo 3. Lê Thành Dương Đồng tác giả hướng sân khấu hóa. - Chương 5. Thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học 2 - Chương 6. Phương pháp dạy học truyền thống về lí luận thể 4. Trần Ngọc Thúy Nhóm chịu loại kịch trưởng, - Chương 7. Một số biện pháp trách tổ chức lớp học lí luận về thể nhiệm đề tài loại kịch theo hướng sân khấu hóa, nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học - Chương 8. Thực nghiệm đổi mới tổ chức lớp học lí luận về thể loại kịch theo hướng sân khấu hóa, nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học - Chương 9. So sánh quá trình dạy - học lí luận văn học về thể loại kịch theo hướng đổi mới tổ chức lớp học sân khấu hóa với phương pháp dạy - học cũ - Chương 10. Hiệu quả, điều kiện áp dụng và khả năng phổ biến đề tài sáng kiến kinh 5. Nguyễn Thị Lâm Đồng tác giả nghiệm Đạo diễn sân khấu, định hướng học sinh tập diễn kịch. Phần một. MỞ ĐẦU I- Lí do chọn đề tài 3 Nền giáo dục - đào tạo Việt Nam hiện nay vẫn đang trên con đường kiếm tìm, đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó, phương pháp giáo dục phổ thông hướng tới mục tiêu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt, lí luận dạy học hiện đại nhấn mạnh việc hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất chung và chuyên biệt của người học. Đó cũng là định hướng cơ bản mang tính pháp lí, thiết thực đối với mỗi giáo viên đứng lớp. Hướng tới mục tiêu giáo dục chung của toàn ngành, bộ môn Ngữ văn cũng đang tích cực đổi mới phương pháp dạy học, sao cho mỗi học sinh được là trung tâm, tự giác, sáng tạo, có khả năng độc lập suy nghĩ, có khả năng thực hành tốt, mỗi học sinh là một cá thể tốt trong cộng đồng. Đúng như nhà văn M. Gor- ki từng nói: “Văn học là nhân học”, nghĩa là chúng ta đã, đang và sẽ vẫn nhấn mạnh sư mệnh cao cả, mang tính đặc trưng riêng của văn học trong việc bỗi dưỡng, phát huy vẻ đẹp phong phú, sâu sắc của thế giới tinh thần và nhân cách mỗi người. Thế nhưng, đúng như nhiều bài báo, các bản tin trên các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin, và đặc biệt là qua việc tiếp xúc trực tiếp với học sinh, chúng ta dễ dàng nhận ra một sự thật đáng suy nghĩ là nhiều học sinh không yêu thích môn Ngữ văn, không hiểu đúng, không hiểu hết đặc thù bộ môn, đặc biệt là việc học lí luận văn học gặp phải những vướng mắc khô khan thuyết lí. Trên thực tế, một số theo học chỉ vì mục tiêu thực dụng trước mắt để thi đỗ đại, nên xét ở khía cạnh nào đó, các em cũng chỉ giống như cái máy đang vận hành để cố nhồi nhét những suy nghĩ, cảm xúc,... của người khác vào trong đầu mình. Xã hội càng văn minh, hiện đại thì ta càng chú trọng đến sứ mệnh của nền giáo dục cách mạng là làm thế nào cho mỗi người học trở thành một nhân cách tốt, có khả năng bộc lộ những sáng tạo, phát huy thế mạnh riêng; sao cho mỗi ngày đến trường là mỗi ngày các em được hưởng niềm vui trọn vẹn. Đánh giá nguyên nhân của thực trạng nói trên, ta nên thẳng thắn nhìn từ nhiều phía. Song, với góc nhìn của một giáo viên bộ môn Ngữ văn, chúng tôi 4 nhận thấy khả năng đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là khả năng nhạy bén với cái mới của một bộ phận giáo viên không tốt, dẫn đến tâm lí hoang mang, lo sợ, tự ti; thậm chí cá biệt giáo viên còn luôn nghi ngờ về việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Hiện nay, chúng ta cũng đã quen nói đến đổi mới giáo dục thông qua đổi mới mô hình tổ chức lớp học theo kiểu mới. Tài liệu nói về vấn đề này tràn lan trên mạng Internet, hình ảnh, video về việc tổ chức lớp học theo kiểu này cũng phổ biến. Thế nhưng, nhìn vào thực tế xung quanh, chúng tôi nhận thấy đây vẫn là vấn đề mới và lạ đối với đa số. Trong chương trình Ngữ văn THPT, những bài dạy học về lí luận văn học chiếm tỉ lệ không lớn, song nó giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng cách hiểu, cách cảm, cách nhìn nhận đánh giá hiện tượng, xu hướng, quá trình, giá trị, tiếp nhận văn học cho giáo viên và học sinh. Mặc dù vậy, đa số các tiết dạy học lí luận văn học, đặc biệt là dạy thể loại kịch, thường vẫn tiến hành theo kiểu lí thuyết suông, không tác động tích cực vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của người học. Cá biệt, giáo viên còn mang tâm lí sợ khi dạy học lí luận văn học, cho rằng lí luận văn học khô khan, khó hiểu, xa vời. Trong hệ thống các thể loại cơ bản của văn học, kịch là thể loại đặc biệt, được các nhà khoa học, các nhà sư phạm đầu ngành ở Việt Nam xem xét từ hai góc độ: góc độ loại hình và góc độ thể loại. Trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11, thể loại kịch được biên soạn trong bài “Một số thể loại văn học: Kịch, nghị luận” hẳn là có cơ sở khoa học, mà bản thân mỗi người giáo viên khi dạy học bài này cần tự đặt ra câu hỏi và tự trả lời: Vì sao người ta lại xếp thể loại kịch bên thể loại nghị luận? Chỉ riêng xét từ góc độ loại hình, kịch là loại hình nghệ thuật tổng hợp, có nhiều giá trị quan trọng trong nền văn học - nghệ thuật (đặc biệt là nghệ thuật sân khấu nước nhà). Thế nhưng, trong trường phổ thông, việc hiểu biết về nó thì còn hạn chế. Nhiều học sinh, thậm chí cả giáo viên, không có khái niệm gì về sân khấu - kịch, nên không thấy được giá trị lớn lao của những tác phẩm sân khấu - kịch của dân tộc, như những tác phẩm: Quan âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Phạm Công - Cúc Hoa,... 5 Vì vậy, đề tài này không chỉ chuyên sâu vào vấn đề đổi mới phương pháp dạy học như thế nào, mà còn muốn đặt thêm ra một số cách thức đổi mới, tạo hứng thú, góp phần tác động vào suy nghĩ, cảm xúc, những rung động thẩm mĩ, sự nhìn nhận, đánh giá,... của học sinh trong một giờ học lí luận về thể loại kịch, thông qua đổi mới tổ chức lớp học hiện đại theo hướng sân khấu hóa, nhằm hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất người học. Đây cũng là cách thức chúng tôi muốn khẳng định, đề cao vai trò sứ mệnh, mặt mạnh của môn Ngữ văn trong giáo dục, đào tạo một nhân cách cụ thể. Trong chương trình Ngữ văn phổ thông, thể loại kịch (kịch bản văn học), có ưu thế riêng mà chúng ta chưa khám phá hết, sẽ có tác dụng thiết thực trong việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực người học. Trong thời kì toàn xã hội đổi mới để hội nhập quốc tế, chúng tôi nhận thấy việc hình thành và phát triển nhân cách người học, trong đó đề cao tính chủ động, sáng tạo của cái tôi cá nhân có vai trò quan trọng quyết định sự thành công trên mọi phương diện. Việt Nam là nước nghèo, còn chậm phát triển do nghìn năm phong kiến Bắc thuộc, Pháp thuộc nên ý thức về vai trò của cái tôi cá thể trong cộng đồng chưa được nhận thức đúng mức. Vì vậy, qua sáng kiến kinh nghiệm mà chúng tôi đã thực hiện, đang thực hiện, chúng tôi mong muốn làm thay đổi tích cực nhận thức của học sinh, dù chỉ trong một tiết học cụ thể để góp phần nhỏ vào công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay. Với suy nghĩ như trên, chúng tôi xin đề cập đến phương pháp đổi mới tổ chức lớp học trong giờ lí luận về thể loại kịch mà trên thực tế, những năm học vừa qua, chúng tôi đã làm có hiệu quả nhất định. Đề tài: “ĐỔI MỚI TỔ CHỨC LỚP HỌC LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI KỊCH THEO HƯỚNG SÂN KHẤU HÓA, NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC”. II- Mục tiêu, phạm vi, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của đề tài II. 1. Mục tiêu Khoa học giáo dục hiện đại đã khẳng định, dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, vừa mang tính thực tiễn, vừa mang tính nghệ thuật. 6 Người giáo viên dạy văn không chỉ là một giáo viên theo cách hiểu thông thường, mà còn là một nghệ sĩ, bởi công việc dạy học Ngữ văn là công việc sáng tạo, là quá trình đồng sáng tạo với nhà văn, là khả năng giúp cho học sinh cũng trở thành người đồng sáng tạo trong hành trình chiếm lĩnh cái hay cái đẹp của văn học. Chúng ta đều đã biết, văn học vừa là bộ môn khoa học, vừa là bộ môn nghệ thuật, nghệ thuật ngôn từ. Trên thực tế, việc đổi mới lớp học hiện nay mới chỉ phổ biến ở hình thức tổ chức theo nhóm thảo luận. Ở bề ngoài, chúng ta mới chỉ quan tâm đến thành lập nhóm học tập theo cách thức kê bàn ghế gần nhau để học sinh có điều kiện trao đổi thảo luận trong giờ, đôi khi việc làm này chỉ mang tính hình thức, không đem lại hiệu quả gì đáng kể. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức lớp học theo hướng sân khấu hóa là một cách làm mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn đối với học sinh. Ở đó, theo định hướng của giáo viên, học sinh được tự do sáng tạo ra cái mới có ý nghĩa thiết thực. Đó là điều quan trọng của quá trình nghệ thuật dạy học Ngữ văn. Mục tiêu của đề tài này là tích hợp bài cũ với bài mới, tích hợp tri thức liên môn, nội môn, kích thích sự tò mò, khả năng khám phá, sáng tạo của học sinh, góp phần tạo không gian nghệ thuật hấp dẫn, kéo lớp học gần với nghệ thuật sân khấu theo đặc trưng tiết học. Một tiết học phải qua nhiều khâu mang tính khoa học và pháp lí. Việc xâu chuỗi các khâu trong tổ chức lớp học sẽ để lại ấn tượng, gợi ra nhiều suy nghĩ sâu rộng hơn nội dung và kiến thức của bài học cho người học, khơi gợi được tư duy nghệ thuật, tư duy sáng tạo và tạo cảm hứng thẩm mĩ cho người học. Việc thực hiện cách đổi mới hình thức lớp học theo hướng sân khấu hóa giờ học lí luận về thể loại kịch sẽ góp phần đảm bảo nâng cao chất lượng giờ dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Dù phương pháp có đổi mới theo hướng nào, dù giáo dục có phát triển đến ngưỡng nào thì bản chất của dạy học tích cực vẫn không có gì thay đổi. Ở đây, đổi mới hình thức tổ chức lớp học là cả một nghệ thuật, bởi đây là việc làm không chỉ mang tính hình thức mà thực chất là hình thức có ý nghĩa nội dung, gắn với đổi mới phương pháp dạy học. Tuy vậy, việc làm đó không phải là không thể thực hiện được. 7 Vì vậy, mục tiêu của sáng kiến còn là mong muốn mô hình lớp học sáng tạo của học sinh sẽ trở thành một trong những mô hình lớp học hiện đại, mang tính nghệ thuật, khơi gợi, hình thành và phát triển mĩ cảm của học sinh; và nó trở thành thói quen, kĩ năng tích cực, phổ biến của mọi giáo viên và học sinh khi đứng trước một vấn đề cần giải quyết. II. 2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài trong chương trình Ngữ văn THPT; - Phạm vi đã áp dụng của đề tài là ở khối lớp 11, không phân biệt đối tượng người học, đã được áp dụng cho một tiết dạy học cụ thể; đồng thời áp dụng cho chương trình chuyên đề ngoại khóa cấp trường (từ những năm học trước). II. 2. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số cách thức, phương pháp đổi mới tổ chức lớp học lí luận về thể loại kịch theo hướng sân khấu hóa, nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học (bài Một số thể loại văn học: Kịch, nghị luận trong chương trình Ngữ văn 11 bậc THPT hiện nay). II. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lí luận và thực tiễn làm căn cứ khoa học của đề tài; - Phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng dạy học và đổi mới mô hình lớp học hiện nay; - Đề xuất giải pháp thực hiện thay đổi thực trạng; - Tổ chức thực hiện thông qua các khâu chuẩn bị và thực hiện một tiết học cụ thể, trong đó đề cao vai trò làm việc theo nhóm, theo dự án mang tích cực, hiệu quả của học sinh; - Đánh giá hiệu quả, khả năng phổ biến của đề tài; - Một số kiến nghị, đề xuất với lãnh đạo cấp trên. II. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học mang tính phổ biến, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: - Phương pháp thống kê; 8 - Phương pháp phân tích - tổng hợp; - Phương pháp so sánh; - Phương pháp trực giác; - Phương pháp tâm lí; - Phương pháp mĩ học; - Phương pháp liên ngành,… III- Bố cục, trình bày đề tài Đề tài được trình bày gồm 130 trang (không kể mục lục), với các nội dung sau: Phần một. Mở đầu - Lí do chọn đề tài; - Mục tiêu, đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu của đề tài; - Điều kiện áp dụng đề tài. Phần hai. Nội dung chính Chương 1. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học Chương 2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực người học Chương 3. Dạy học Ngữ văn theo định hướng hình thành những phẩm chất cần có của người học Chương 4. Lí luận về kịch và kịch bản văn học Chương 5. Những yêu cầu về đọc kịch bản văn học - Dạy học tác phẩm kịch theo hướng tích hợp, phát huy năng lực, phẩm chất học sinh Chương 6. Thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học Chương 7. Phương pháp dạy học truyền thống về lí luận thể loại kịch Chương 8. Một số biện pháp tổ chức lớp học lí luận về thể loại kịch theo hướng sân khấu hóa, nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học Chương 9. Thực nghiệm đổi mới tổ chức lớp học lí luận về thể loại kịch theo hướng sân khấu hóa, nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học Chương 10. So sánh quá trình dạy - học lí luận văn học về thể loại kịch theo hướng đổi mới tổ chức lớp học sân khấu hóa với phương pháp dạy - học cũ 9 Phần ba. Kết luận Chương 11. Hiệu quả, điều kiện áp dụng và khả năng phổ biến đề tài sáng kiến kinh nghiệm Phần hai. NỘI DUNG CHÍNH Chương 1. DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC 10 I- Những định hướng chung, tổng quan về đổi mới phương pháp dạy học các môn học thuộc chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực - Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. - Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. - Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. - Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã quy định. II- Đặc trưng cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực người học Một là, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Hai là, chú trọng rèn luyện cho học sinh những tri thức phương pháp để họ biết cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát triển kiến thức mới. Ba là tăng cướng phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn. Bốn là, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học); chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh. III. Xác định các năng lực cần phát triển thông qua Ngữ văn, cấp Trung học phổ thông Dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa (CT & SGK) giáo dục phổ thông sau năm 2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình (CT) theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình 11 cảm, giá trị, động cơ cá nhân, …nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực bao gồm các yếu tố cơ bản gọi là năng lực chung cốt lõi. Các năng lực chung, cốt lỗi được sắp xếp theo các nhóm sau; - Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm: Năng lực tự học; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực sáng tạo; năng lực quản lý bản thân. - Năng lực xã hội, bao gồm; năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác. - Năng lực công cụ, bao gồm; ăng lực tính toán; năng lực sử dụng ngôn ngữ; năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ICT). Trong định hướng phát triển CT sau năm 2015, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học; ngoài ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực chung) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học. Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến được thể hiện cụ thể như sau: III.1. Năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ) Các ý kiến và quan niệm đều thống nhất cho rằng GQVĐ là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu. Năng lực GQVĐ gồm việc nhận biết mâu thuẫn giữa tình huống thực tế với hiểu biết của cá nhân và chuyển hóa được mâu thuẫn thành vấn đề đòi hỏi sự tìm tòi, khám phá; thể hiện khả năng của cá nhân trong quá trình thu thập và xử lý thông tin từ các nguồn khác nhau, đề xuất phương án và thực hiện phương án đã chọn, điều chỉnh trong quá trình, đánh giá hiệu quả của phương án và đề xuất vận dụng trong quá trình, đánh giá hiệu quả của phương án và đề xuất vận dụng trong các tình huống mới tương tự. Quá trình đó được thực hiện bằng sự hứng 12 thú tìm tòi, khám phá cái mới, tinh thần trách nhiệm của cá nhân và sự phối hợp, tương tác giữa các cá nhân; là sự vận dụng tổng hợp của kiến thức, kỹ năng, thái độ, tính sẵn sàng,….thể hiện qua các hoạt động cụ thể. Quá trình GQVĐ được thể hiện qua các bước cơ bản sau: - Xác định vấn đề: Chuyển vấn đề trong tình huống thực tế thành vấn đề đòi hỏi khám phá, giải quyết; - Thu thập và phân tích thông tin, từ đó đưa ra các phương án GQVĐ; - Chọn phương án tối ưu và biện giải về sự chọn lựa; - Thực hiện phương án đã chọn và điều chỉnh trong quá trình thực hiện; - Đánh giá hiệu quả của phương án, đề xuất vận dụng vào tình huống mới. Với môn Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản) của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. III. 2. Năng lực sáng tạo Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thực tiễn, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu, khám phá. Năng lực sáng tạo được thể hiện qua những biểu hiện sau: - Biết đặt các câu hỏi khác nhau về một sự vật, hiện tượng; xác đinh và làm rõ thông tin, ý tưởng mới, phân tích, tóm tắt những thông tin liên quan từ nhiều nguồn khác nhau. - Đề xuất được ý tưởng dựa trên các nguồn thông tin đã cho; đề xuất giải pháp cải tiến hay thay thế các giải pháp không còn phù hợp; so sánh và bình luận được về các giải pháp đề xuất. - Trình bày những suy nghĩ và khái quát hóa thành tiến trình khi thực hiện một công việc nào đó; tôn trọng các quan điểm trái chiều; áp dụng điều đã biết vào tính huống tương tự. 13 Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là học sinh, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề…) III. 3. Năng lực hợp tác Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết những vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe người khác, hòa giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác được thể hiện ở một số khía cạnh sau: - Chủ động đề xuất mục đích hợp tác khi được giao các nhiệm vụ; xác định được loại công việc nào đó có thể hoàn thành tốt nhất bằng hợp tác theo nhóm với quy mô phù hợp. - Biết trách nhiệm, vai trò của mình trong nhóm ứng với công việc cụ thể; phân tích nhiệm vụ của cả nhóm để nêu được các hoạt động phải thực hiện; trong đó tự đánh giá được hoạt động mình. - Nhận biết được đặc điểm, khả năng của từng thành viên cũng như kết quả làm việc nhóm; dự kiến phân công cho từng thành viên trong nhóm các công việc phù hợp. - Chủ động và gương mẫu hoàn thành phần việc được giao, góp ý điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động chung; chia sẻ, khiêm tốn học hỏi các thành viên trong nhóm. 14 - Biết dựa vào mục đích đặt ra để tổng kết hoạt động chung của nhóm; nêu mặt được mặt thiếu sót của cá nhân và của cả nhóm. Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc học sinh cùng chia sẻ phối hợp với nhau trong các việc học tập qua thực hiện các nhiệm vụ diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nghĩ của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. III. 4. Năng lực tự quản bản thân Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc thiết lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng ra và tự điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỷ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình. Năng lực tự quản bản thân thường được thể hiện ở một số khía cạnh sau: - Đánh giá được hình ảnh của các yếu tố tác động đến hành động, việc làm của mình trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày; làm chủ được cảm xúc của bản thân trong học tập và cuộc sống. - Biết huy động, sử dụng nguồn lực sẵn có để xây dựng , tổ chức và thực hiện kế hoạch cá nhân nhằm đạt được mục đích học tập, biết học tập độc lập, biết suy nghĩ và hành động hướng vào mục tiêu của mình phù hợp với hoàn cảnh. - Thường xuyên tự đánh giá, tự điều chỉnh được hành động của bản thân trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày; thích ứng được những thay đổi hay những tình huống mới. - Cảm nhận được sức khỏe của bản thân; đánh giá được tình trạng sức khỏe của bản thân dựa trên một số chỉ số cơ bản về sức khỏe thông qua phiếu xét nghiệm; tự chủ trong ăn uống, rèn luyện và nghỉ ngơi hợp lý để có lợi cho sức khỏe của mình, chủ động phát hiện và nhận rõ những tác động bất lợi của môi trường sống đối với bản thân và có cách thức phòng chống phù hợp 15 Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng tới việc rèn luyện và phát triển ở học sinh năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, học sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong các tình huống của bản thân. Ngoài ra, năng lực tự học thể hiện ở việc xác định được các nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động, biết mục tiêu của môn học và tự đặt ra mục tiêu học tập cho cá nhân, hình thành phương pháp học cho cá nhân, biết điều chỉnh bản thân và chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của bạn bè, người thân và các nguồn lực khác. III. 5. Năng lực giao tiếp tiếng Việt Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe, nhằm đạt được mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện quan trọng nhất sử dụng trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực trong giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh/ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích. Năng lực giao tiếp được thể hiện ở một số khía cạnh sau: - Xác định được mục đích giao tiếp và hiểu được vai trò quan trọng của việc đặt mục tiêu trước khi giao tiếp. - Nhận ra được bối cảnh giao tiếp, đặc điểm, thái độ của đối tượng giao tiếp (người nghe) để có thái độ ứng xử phù hợp. - Biết sử dụng hệ thống ngôn ngữ để diễn đạt ý tưởng của cá nhân một cách tự tin trong từng bối cảnh và đối tượng; thể hiện được thái độ biểu cảm phù hợp với đối tượng và bối cảnh gaio tiếp. 16 Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, học sinh được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh được luyện tập những tình huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong từng hoạt động giao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để học sinh được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kỹ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. III. 6. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ Năng lực cảm thụ thẩm mỹ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận được ra các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ cảm xúc) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Năng lực cảm xúc thẩm mỹ thường được thể hiện ở một số nội dung: - Nhận thức được các cảm xúc của bản thân: Ý thức về bản thân - tức là có thể nhận biết các cảm xúc của mình - là cơ sở của năng lực cảm xúc. Những người không tự biết về những gì mình cảm nhận sẽ thường phó mặc cho những tình cảm của mình. Trái lại, những người biết làm cho cuộc sống của mình tốt hơn sẽ thấy rõ được những hậu quả sâu xa trong những quyết định của mình, dù đó là lựa chọn người bạn đời hay lựa chọn nghề nghiệp. - Làm chủ các cảm xúc của bản thân: Đó là năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với mỗi hoàn cảnh, điều này phụ thuộc vào sự tự ý thức của bản thân. Những người có năng 17 lực làm chủ cảm xúc của bản thân có thể chấp nhận và vượt qua được một cách tốt nhất những thất bại và những sự trái ý mà cuộc đời dành cho mình, biết ứng xử hết sức có hiệu quả trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, đồng thời biết thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân phù hợp trong những hoàn cảnh giao tiếp. - Nhận biết các cảm xúc của người khác và những biểu hiện của cuộc sống từ phương diện thẩm mỹ: Sự đồng cảm, nhạy cảm trước những trạng thái cảm xúc của người khác xuất phát từ ý thức về bản thân là yếu tố căn bản tạo nên mối quan hệ tương tác giữa cá nhân và những người xung quanh. Những người đồng cảm biết tiếp nhận hết sức nhanh nhạy những tín hiệu mà qua đó cho thấy nhu cầu và mong muốn của người khác cũng như sự nhạy cảm và sự tương giao giữa cảm xúc cá nhân với những biến thái rất tinh tế của các hình ảnh của cuộc sống. Đó là những người biết “Thương người như thể thương thân”, luôn biết “mở lòng đón lấy những vang động của cuộc sống”, biết thể hiện những tình cảm thái độ phù hợp trước những biểu hiện của cái đẹp, cải thiện cũng như cái ác, cái xấu trong cuộc sống. - Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống: Luôn biết giữ những liên hệ tốt với những người xung quanh, đó chính là biết chủ động điều khiển các cảm xúc của mình. Những người biết làm cho mình có được sự cảm mến của mọi người, biết lãnh đạo và định hướng một cách có hiệu quả những mối quan hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ cảm xúc ở mức cao nhất. đó cũng là những người biết nhận thức được những giá trị cuộc sống từ phương diện thẩm mỹ, biết hành động vì những gì tốt đẹp trong môi trường sống của mình. Năng lực cảm thụ thẩm mỹ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh; trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương, năng lực cảm xúc được thể hiện ở những phương diện sau: 18 - Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật. - Nhận ra được những giá trị thẩm mỹ được thể hiện trong tác phẩm văn học cái đẹp, cái xấu, cái hài , cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn, ...từ đó cảm nhận được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác phẩm. - Cảm, hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn học; hình thành và nâng cao nhận thức và cảm xúc thẩm mỹ của cá nhân; biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống, có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan thẩm mỹ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương. Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, học sinh sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của môn học, môn Ngữ văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân môn Văn học, tiếng Việt, Làm văn, nhằm hướng dẫn học sinh đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các văn bản theo các kiểu loại khác nhau. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn giúp HS từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kỹ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kỹ năng nói và viết). Năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức về tiếng Việt, về các loại hình văn bản và kỹ năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập các thông tin, cảm thụ cái đẹp và các giá trị tốt đẹp của tác phẩm văn chương nghệ thuật. Năng lực tạo lập văn bản của học sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức về các kiểu văn bản, với ý thức và tình yêu tiếng Việt, văn học văn hóa 19 cùng kỹ năng thực hành tạo lập văn bản theo các phương thức biểu đạt khác nhau, theo hình thức trình bày miệng hoặc viết. IV. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực trong môn học Ngữ văn IV.1. Những định hướng lớn về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực người học Định hướng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) Ngữ văn là chuyển những kết quả về đổi mới PPDH của CT Ngữ văn hiện hành từ “mặt bên ngoài” vào “mặt bên trong” để phát huy hiệu quả đổi mới PPDH, đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển năng lực của học sinh. Các lý thuyết dạy học hiện đạithường được nhắc đên: lý thuyết đa trí tuệ (Howard Gardner), lý thuyết hoạt động (Leonchieuv), lý thuyết kiến tạo (đại diện là Piagie, Vưgôtski)…… và quan điểm dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” chính là cơ sở để xác minh các nội dung đổi mới PPDH. Đối với môn Ngữ văn, khi vận dụng các PPDH phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học, giáo viên cần chú ý đến sự khác biệt về năng lực và sở thích của mỗi học sinh trong tiếp nhận văn bản, nhất là các văn bản văn học để có cách tổ chức dạy học phân hóa phù hợp; đặc biệt chú trọng phương pháp tự học, qua đó hướng dẫn học sinh biết kiến tạo tri thức và nền tảng văn hóa cho bản thân từ những cảm nhận, suy nghĩ và những trải nghiệm của cá nhân trong cuộc sống. GV cần tăng cường tính giao tiếp, khả năng hợp tác của HS trong giờ học Ngữ văn qua các hoạt động thực hành, luyện tập, trao đổi, thảo luận,…vận dụng các phương pháp dạy học theo đặc thù của môn học và PPDH chung một cách phù hợp nhằm từng bước nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn. IV. 1. 1 Dạy học đọc - hiểu Dạy học, đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới PPDH Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Hình thành năng lực đọc - hiểu của học sinh là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tư duy. Năng lực đọc - hiểu của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng