SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO AN GIANG
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRUNG TRỰC
*******
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỂ LÀM TỐT VĂN
BÌNH LUẬN VÀ PHÂN
TÍCH NHÂN VẬT
Giáo viên : Dương Hoàng Nhạn
Năm học : 2001 – 2002
I – ĐẶT VẤN ĐỀ :
- Trong những năm gần đây, tình hình học môn văn làm văn của học sinh đi xuống rất rõ
ràng, nguyên nhân chủ yếu do việc chọn ngành nghề, đa số học sinh đều tập trung cho khối
A,B hoặc D với ước mong học tốt các môn này mới có thể đậu vào các trường đại học. Do đó
đa số đều học văn với thái độ qua loa, thậm chí nhiều học sinh không đọc cả tác phẩm trong
chương trình học, đến giờ học lấy sách “ học tốt “ ra trả lời đối phó với giáo viên, hiện tượng
“Đạo Văn “ vẫn tồn tại rất nhiều trong học sinh. Trong thời buổi kinh tế thị trường như hôm
nay tìm được một số học sinh yêu thích văn chương là điều rất khó. Vẫn có một số học sinh
đọc sách nhưng những sách các em đọc đa phần đều là truyện tranh không giúp ích gì trong
việc mở rộng nâng cao kiến thức, tâm hồn, tình cảm cho các em.
- Nguyên nhân thứ hai là các em không có thời gian đọc sách bởi lo học hết cả ngày sáng,
trưa, chiều, tối.
- Nguyên nhân thứ ba cũng quan trọng không kém là giáo viên chưa tạo được niềm yêu
thích thật sự cho học sinh trong giờ học, chưa truyền được cảm xúc của mình đến học sinh
giúp học sinh cảm thụ được tác phẩm.
- Ngay cả trong giới sinh viên hôm nay ít còn hiện tượng tranh cãi nhau về một tác phẩm,
một tác giả như trước kia.
- Trên những nguyên nhân đó, tôi nhận thấy những năm gần đây các bài làm văn của học
sinh nếu như không chép sách, thuộc sách thì bài viết của các em cũng không có gì thêm ngoài
nội dung giảng dạy của giáo viên, tư duy cho vấn đề đặt ra cũng không có nói gì đến sáng tạo.
- Trong phạm vi bài viết này, tôi xin trình bày một số công việc đã làm giúp học sinh nắm
được cách làm tốt bài văn nghị luận :
II – NỘI DUNG – BIỆN PHÁP :
Với bất kì thể loại nào của văn nghị luận tôi cũng đều hướng dẫn cho học sinh về phương
pháp làm bài, cụ thể :
A – Văn bình luận :
1/ Phần mở bài : đây là phần đầu bài văn nghị luận có thể gây được cảm tình người đọc
được hay không là ở phần này. Do đó tôi hướng cho học sinh một số cách như sau :
* Cách một : Mở bài theo cách trực tiếp : là cách mở bài không đi thẳng vào vấn đề.
Cách mở bài này nhanh, gọn, tự nhiên. Thích hợp ứng dụng đối với các học viên bổ túc. Do
đó phần này tôi chỉ hưởng để học sinh biết mà không yêu cầu các em thực hiện.
* Cách hai : Mở bài theo cách gián tiếp là cách mở bài không đi thẳng vào vấn đề mà
gợi mở cách vào đề bằng một số biện pháp tạo sự sinh động, hấp dẫn cho người đọc, cụ
thể:
+ Mở bài bằng cách qui nạp : đưa dẫn chứng cụ thể từ đó nêu lên vấn đề sẽ nghị luận
VD : Ta hãy nhìn đàn kiến bé nhỏ cứ kiên nhẫn tha mồi từ ngày này qua ngày nọ, từ tháng
này sang tháng nọ để dự trữ thức ăn. Đôi khi miếng mồi to hơn thân thể của nó, nó vẫn cố sức
cùng những con kiến khác tha được mồi về tổ. Nhờ sự kiên trì, nhẫn nại đàn kiến đã làm xong
được công việc. Để nhắc nhở con người cần có sự kiên trì, nhẫn nại trong cuộc sống để đi đến
thành công, tục ngữ Việt Nam có câu : “ Có công mài sắt có ngày nên kim “ (sự kiên trì nhẫn
nại sẽ giúp con người đi đến thành công)
Cách mở bài này gợi hình ảnh, sự vật cụ thể từ đó nâng lên vấn đề cơ bản sẽ bình luận giúp
người đọc nắm được nội dung rõ ràng, cụ thể hơn.
+ Mở bài bằng hình thức tương phản : đây là cách đưa nội dung trái ngược với nội dung đề
bài.Cách mở bài này gây ấn tượng cho người đọc nhiều hơn giúp học sinh dễ rút ra dẫn chứng
trong quá trình bính luận. Để làm được đề bài theo cách này, tôi yêu cầu học sinh xác định yêu
cầu về nội dung đề. Trên cơ sở đó nêu ra vấn đề ngược lại.
VD : Xã hội ngày nay, còn nhiều hiện tượng con cái đối xử không tốt với cha mẹ; không
quan tâm, chăm sóc người có công sinh thành dưỡng dục thậm chí còn có người cầm dao,
mắng chửi, đánh đuổi cha mẹ ra khỏi nhà.. Để nhắc nhở mọi người làm tốt trách nhiệm, bổn
phận một người con trong gia đình, ca dao Việt Nam có câu :
“ Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiêu mới là đạo con “
+ Mở bài bằng hình thức so sánh đối chiếu làm nội dung vấn đề trở nên sinh động, giàu hình
ảnh tạo những suy nghĩ sâu sắc; Dạng mở bài này có thể dùng cho học sinh khá, giỏi.
VD : Đất nước ta nhiều kho tàng quí giá về vật chất: Những kho tàng quặng mỏ, dầu khí nằm
ẩn dưới lòng đất, rừng dồi dào tiềm năng… Nhưng quí giá nhất vẫn là kho tàng văn học, trong
đó kho tàng tục ngữ, ca dao của dân tộc ta có thể xem là tài sản vô giá bởi tài sản đó đã đúc kết
biết bao kinh nghiệm sống người xưa truyền lại, đã đề cao truyền thống đạo đức của dân tộc.
Một trong những câu tục ngữ thường được nhân dân ta nhắc đến đó là những câu ca ngợi lòng
nhớ ơn – một truyền thống tốt đẹp được lưu truyền đến nay “ ăn trái nhớ kẻ trồng cây “.
+ Mở bài bằng hình thức nêu ý tương đồng nghĩa là căn cứ vào nội dung đề bài để diễn đạt.
Cách này thường được học sinh áp dụng trong quá trình làm bài nhiều hơn :
VD : Hàng năm, đến tháng ba, nhân dân ta thường tổ chức lonh trọng lễ hội đền Hùng nhằm
tưởng nhớ đến công đức của các vua Hùng dựng nước. Hoặc đến tháng mười một tổ chức ngày
nhà giáo Việt Nam. Tất cả các lễ hội, ngày kỉ niệm đó đều thể hiện một truyền thống vô cùng
cao quí đó là lòng biết ơn. Truyền thống tốt đẹp đó đã tồn tại từ đời này sang đời khác và
thường được nhắc nhở qua câu tục ngữ “ ăn trái nhớ kẻ trồng cây “
2/ Phần thân bài : Phải đảm bảo có ba phần
a. Giải thích: Lưu ý học sinh căn cứ vào đề bài để chọn cách giải thích phù hợp từ đó rút
ra nội dung.
Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng :
VD : “ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao “
+ Nghĩa đen : Một cây nếu đứng riêng lẻ sẽ dễ bị gió mưa quât ngã, nhưng nếu ba cây mọc
gần nhau, cành lá đan xen nhau sẽ tạo nên một thế vững chắc khong dễ dàng bị gió mưa quật
ngã.
+ Nghĩa bóng : Con người nếu biết đoàn kết sẽ tạo nên một sức mạnh to lớn hoàn thành
được những công việc khó khăn, lớn lao.
* Giải thích theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp :
VD : “ Con hơn cha mẹ là nhà có phúc”
+ Nghĩa hẹp : trobng phạm vi gia đình nếu như con hơn cha mẹ về tài năng, đức độ thì đó là
phúc đức của gia đình.
+ Nghĩa rộng : trong phạm vi xã hội : thế hệ đi sau nếu có tài năng hơn thế hệ đi trước sẽ
đưa đất nước đi lên.
* Giải thích từ ngữ : Căn cứ vào những từ ngữ chính để giải thích trên cơ sở đó rút ra được
nội dung cần nghị luận.
VD : “ Ngọc càng mài càng sáng “
Với đề bài này đòi hỏi học sinh phải giải thích được “ ngọc “ là gì ? “ Mài “ là gì ? Trên cơ
sở hiểu được ẩn ý của từ ngữ mới có thể rút ra được nội dung cơ bản mà đề bài yêu cầu.
b. Phần bình: Trong phần này tôi lưu ý với học sinh khẳng định vần đề đúng, sai trước, sau
đó đi vào đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi theo từng vấn đề :
VD : - Người ăn trái là người như thế nào, người trồng cây là người ra sau
- Vì sao ăn trái phải nhớ người trồng cây ?
- Người trồng cây có bắt người ăn trái nhớ ơn không ?
- Nhớ ơn xuất phát từ đâu ?
c. Phần luận: đây là phần không thể thiếu của nội dung bài bình luận nhưng đa số học sinh
trong quá trình làm bài thường hay thiếu mất phần này. Do đó tôi lưu ý học sinh làm một số
thao tác sau :
* Phải nêu mặt trái của vấn đề tức là phần trái ngược với nội dung đề. Hay nói khác hơn là
vấn đề mà người nói muốn phê phán là gì ?
* Vấn đề đó có ý nghĩa gì ? ( ý nghĩa )
* Ngày nay có vận dụng được nữa hay không ?
VD : câu tục ngữ “ ăn trái nhớ kẻ trồng cây “
* Câu tục ngữ trên nhằm phê phán những kẻ vong ân phụ nghĩa, những kẻ ăn chao đá bát,
thừa hưởng những thành quả do người khác mang lại nhưng không biết nhớ ơn.
* Câu tục ngữ nhằm động viên, nhắc nhở mọi người phải biết sống ân nghĩa, phải biết nhớ ơn
khi được thừa hưởng.
* Ngày nay, nhân dân ta thực hiện rất tốt tinh thần đề ơn đáp nghĩa. Các phong trào xây dựng
nhà tình nghĩa, các ngày kỉ niệm như : ngày nhà giáo Việt Nam, ngày thầy thuốc… là biểu hiện
rõ nét nhất truyền thống tốt đẹp mà người xưa muốn nhắc nhở…
* Trong quá trình thực hiện ba thao tác của nội dung bình luận, tôi yêu cầu học sinh phải
phân biệt rõ “ giải thích “ là làm những việc gì, “ bình “ là làm việc gì và “ luận “ là phải làm
như thế nào. Sau đó yêu cầu học sinh làm rõ ba thao tác đó qua ví dụ. Ban đầu không yêu cầu
cao, chỉ yêu cầu học sinh nêu những ý cơ bản của từng thao tác, sau đó mới nâng dần yêu cầu
lên. Trong quá trình dạy ngoài bài tìm hiểu chung, tìm ý và lập dàn ý, các phần còn lại của thời
gian tôi đều cho học sinh thự hiện các thao tác trên , chủ yếu để các em nắm vững phương
pháp làm bài. Ngoài ra tôi còn yêu cầu học sinh phải nắm vững lý thuyết của phương pháp và
đến giờ học là kiểm tra. Mục đích để học sinh ứng dụng lý thuyết vào thực hành một cách chắc
chắn hơn
3. Phần kết bài: yêu cầu học sinh chốt lại những vần đề đã trình bày trên theo công thức:
…….+là đạo lý vô cùng tốt đẹp.+Ta cần phát huy…..
B. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT :
Đối với dạng nghị luận này tôi chọn một nhân vật tiêu biểu có trong chương trình yêu cầu
học sinh về đọc kỉ tác phẩm để xác định một số yêu cầu liên quan quá trình phân tích nhân
vật, cụ thể :
* Nhân vật thuộc tác phẩm nào, tác giả là ai, thuộc thời đại nào ?
* Nhân vật có hành động gì thể hiện được nội dung tác phẩmt, tư tưởng và quan niệm của
tác giả.
* Nhân vật có hình dáng, cử chỉ đặc biệt gì thể hiện được cá tính, nội dung tác phẩm.
+ Nội tâm diễn biến ra sau ?
+ Mối quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác trong tác phẩm
+ Môi trường sôngs của nhân vật
* Em có nhận xét gì về nhân vật
* Trên cơ sở tìm hiểu một số vấn đề về nhân vật ở nhà, khi đến lớp tôi yêu cầu học
sinh trả lời những yêu cầu trên. Sau đó rút ra từ cách làm chung đến cách làm cụ thể.
Lý Thuyết
Phân tích nhân vật
Thực hành
VD: phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng
tên của Nam Cao
1. Đặt vấn đề:
1. Đặt vấn đề:
- Xuất xứ nhân vật
- Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu qua tác phẩm cùng
+ Tên tác giả
tên của nhà văn Nam Cao
+ Tác phẩm, nhân vật
- Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao phản ánh cuộc
- Giới thiệu khái quát nhân sống người nông dânbị tha hoá về đạo đức trước cách
vật
mạng tháng Tám
2. Giải quyết vấn đề:
- Yêu cầu 1: Phân tích theo đặc
điểm. Chú ý:
2. Giải quyết vấn đề:
- Phân t1ch:
+ Trước khi đi tù Chí là người “lành như đất” ai
nói gì cũng chỉ biết cười
+ Sau khi ra tù Chí trở thành con qủi dữ của làng
Vũ Đại
+ Xuất thân
* Xuất thân: lò gạch cũ có tuổi thơ bất hạnh, cay
đắng
+ Ngoại hình, lời nói, cử chỉ,
* Ngoại hình: đầu, mặt, răng, mắt dữ tợn
hành động.
* Hành động: rạch mặt ăn vạ trở thành tay sai cho
Bá Kiến mất hết nhân cách, nhân tính
+ Nội tâm
* Nội tâm: là con qủi dữ của làng Vũ Đại nhưng
+ Quan hệ với các nhân vật khi gặp thị Nở, Chí khát khao một cuộc sống lương thiện
khác
“chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải nuôi con”
- Yêu cầu 2: đánh giá nhân vật
Bản chất con người lương thiện vẫn tồn tại
cái nhìn nhân đạo của Nam Cao
* Quan hệ với Bá Kiến: Chí trở thành con qủi dữ của
làng Vũ Đại
* Quan hệ với thị Nở: Chí trở về với bản chất lương
thiện ban đầu
Xã hội ruồng bỏ, không công nhận sự tồn tại của
Chí Chí rơi vào con đường cùng, tìm đến cái chết.
- Đánh giá:
Chí Phèo là người nông dân lương thiện nhưng bị
xã hội biến thành con qủi dữ, lưu manh hoá.
3. Kết thúc vấn đề:
3. Kết thúc vấn đề:
- Khẳng định nhân vật
Thông qua tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xây dựng
- Liên hệ nếu có
hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
III. KIỂM NGHIỆM LẠI KẾT QUẢ :
1. Kết quả :
- Với cách làm như trên khi học về các thể loại này tôi đi chậm ở từng thao tác và dừng
lại khi học sinh chưa hiểu. Do đó, khi học xong đa số các em đều nắm chắc được phương
pháp làm bài và ứng dụng khá tốt.
- Qua những năm giảng dạy ở khối 9 ở văn bình bình luận khi áp dụng cách làm này số
bài dưới trung bình của học sinh rất thấp. Đa số đều nắm được phương pháp. Thông qua các
kì thi tốt nghiệp THCS các năm 1995 – 1996, 1996 – 1997 tỉ lệ bộ môn văn của học sinh đều
cao hơn tỉ lệ của Tỉnh.
- Riêng thể loại phân tích nhân vật áp dụng cách dạy cụ thể này học sinh trung bình yếu
vẫn đạt được điểm trung bình khi nắm vững cách làm, cụ thể :
+ Năm 2000 – 2001 :
* Lớp có học sinh trung bình : 88,3%
+ Năm 2001 – 2002 :
* Lớp có học sinh trung bình : 93%
* Lớp có học sinh yếu : 79,5%
2. Phạm vi tác dụng:
Phạm vi áp dụng ở khối 9 và khối 11 trong trường.
3. Nguyên nhân thành công và tồn tại:
a/ Thành công:
Qua nhiều năm giảng dạy tôi rút đựoc kinh nghiệm từ những buổi gặp gỡ trao đổi với
học sinh, với đồng nghiệp, từ việc tham khảo sách vở, chính điều đó đã giúp cho việc giảng
dạy đạt được những hiệu quả nhất định.
b/ Tồn tại:
Với những học sinh lười đạc sách việc ứng dụng những câu hỏi chuẩn bị trước ở nhà
(phân tích nhân vật) còn có những khó khăn do các em chuẩn bị chưa tốt nên hiệu quả chưa
tốt, chất lượng chưa cao.
Với học sinh dân tộc nhận thức về cách làm thì được nhưng các em chưa có sáng tạo nên
còn máy móc trong cách làm.
IV. KẾT LUẬN:
Trên đây là những suy nghĩ, cách làm của tôi trong việc giảng dạy ở hai thể loại bình
luận và phân tích nhân vật. Tuy còn nhiều khiếm khuyết nhưng trong chừng mực nào đó vẫn
có thể giúp học sinh định hình được cách làm khắc phục phần nào nhược điểm lệ thuộc các
bài văn mẫu ở học sinh.
- Xem thêm -