Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiếng Anh Skkn dạy viết phân tích biểu đồ tiếng anh thông qua phân tích bài viết mẫu cho ...

Tài liệu Skkn dạy viết phân tích biểu đồ tiếng anh thông qua phân tích bài viết mẫu cho học sinh lớp 11 trường thpt nguyễn siêu

.PDF
40
104
127

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN TRƯỜNG THPT NGUYỄN SIÊU --------***------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY VIẾT PHÂN TÍCH BIỂU ĐỒ TIẾNG ANH THÔNG QUA PHÂN TÍCH BÀI VIẾT MẪU CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT NGUYỄN SIÊU Tổ : Sử - Địa – Ngoại Ngữ Môn : Ngoại Ngữ Giáo viên : Bùi Thị Thu Nhung Khoái Châu, tháng 2 năm 2014 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu MỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài .................................................................................................2 1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................2 2. Cơ sở thực tiễn ...............................................................................................4 II. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................5 III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...................................................5 IV. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................5 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................7 II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu ............................................................................8 III. Hoạt động Viết ..................................................................................................9 1. Viết là gì?.......................................................................................................9 2. Tại sao cần dạy Viết? ................................................................................... 10 IV. Hướng dẫn học sinh viết Tiếng Anh thông qua phân tích bài viết mẫu............ 11 1. Các loại biểu đồ thường gặp trong chương trình SGK Tiếng Anh 11 ........... 11 2. Kết cấu của một đoạn văn phân tích biểu đồ ................................................ 12 3. Cách viết đoạn văn phân tích biểu đồ ........................................................... 14 3.1. Chuẩn bị (Preparation) .............................................................................. 14 3.2. Viết đoạn văn phân tích (Writing) ............................................................. 15 3.3. Chỉnh sửa lại đoạn văn (Correction) .......................................................... 19 4. Ứng dụng bài viết mẫu vào học viết mô tả biểu đồ ....................................... 19 4.1. Ưu điểm của phương pháp thực hành viết theo mẫu ................................. 19 4.2. Cách phân tích bài viết mẫu đạt hiệu quả .................................................. 20 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu 5. Thực hành phân tích đoạn văn bản mẫu - Ứng dụng trong dạy Viết .............. 21 5.1. Bài giảng mẫu ............................................................................................ 21 5.2. Mô tả các bước thực hiện ........................................................................... 26 5.3. Kết quả thực nghiệm .................................................................................. 30 6. Khảo sát ý kiến học sinh ............................................................................... 30 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN ....................................................................................................... 34 II. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI................................................................................. 35 III. KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 36 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 37 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Trong thời đại ngày nay, có thể nói Tiếng Anh đã khẳng định vị trí của mình như một ngôn ngữ toàn cầu, được biết đến như một công cụ hỗ trợ con người trong giao tiếp. Tiếng Anh đã phát triển với một tốc độ chưa từng thấy ở Việt Nam, ngày nay, việc học Tiếng Anh không còn là một “xu hướng”, mà nó đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của tất cả các học sinh, sinh viên Việt Nam. Từ thực tế này, học Tiếng Anh không còn đơn thuần là khả năng giao tiếp, mà đòi hỏi người học phải phát triển cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết. Những kỹ năng tiếng này đồng thời cũng tích hợp và bổ trợ cho nhau. Trong số bốn kỹ năng, kỹ năng Viết được coi là trọng tâm chính trong việc giảng dạy của các khóa học Tiếng Anh, kỹ năng này cũng được xem là kỹ năng khó và quan trọng nhất đối với hầu hết người học (Jack C. & Willy A, 2002). Dễ dàng nhận thấy sự cần thiết của việc viết một văn bản rõ ràng, mạch lạc trong những tình huống hàng ngày: viết tiểu luận, báo cáo, hay thư xin việc…Hơn nữa, việc giảng dạy và rèn khả năng viết Tiếng Anh như một ngoại ngữ thứ hai thậm chí còn gặp nhiều khó khăn hơn (Melvyn, 2010). Người học Tiếng Anh như một ngoại ngữ hai phải đối mặt với nhiều khó khăn, ví dụ như họ không có nhiều cơ hội để tiếp xúc và sử dụng Tiếng Anh hàng ngày, đồng thời họ phải đối mặt với những khác biệt ngôn ngữ về mặt chức năng, văn phong…của Tiếng Anh đối với tiếng mẹ đẻ (ở đây là Tiếng Việt). 1. Cơ sở lý luận Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, được hình thành và phát triển cùng xã hội loài người, đó là đặc trưng của loài người khác hoàn toàn với loài vật. Ngôn ngữ tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của con người với vai trò là phương tiện giao tiếp. Thông qua sự diễn đạt của ngôn ngữ mà người ta có thể hiểu nhau hơn, hiểu được tâm trạng, thái độ của nhau để từ đó xây dựng được những mối quan hệ xã hội, tác động lẫn nhau, làm cho xã hội loài người trở thành một tiết chế chặt chẽ. Đối với học sinh, việc hình thành ngôn ngữ cho các em là việc làm hết sức cần thiết, đòi hỏi chúng ta luôn phải tập trung hướng vào việc phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho các em. Để đạt được mục tiêu này, việc thay đổi phương pháp dạy học trong nhà trường theo hướng coi trọng người học là chủ thể hoạt động, khuyến khích các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong quá trình học là hết sức cần thiết. Trong dạy học ngoại ngữ, các luận điểm này càng đúng vì không ai có thể thay thế người học trong việc nắm bắt các phương tiện ngoại ngữ và sử dụng Bùi Thị Thu Nhung 2 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu chúng trong hoạt động giao tiếp bằng chính năng lực giao tiếp của mình. Trong nhà trường, ngoại ngữ, cụ thể là Tiếng Anh, là môn có đặc thù riêng, gây trí tò mò ham mê hoc hỏi của nhiều học sinh xong củng không tránh khỏi gây ra những khó khăn làm nản trí người học. Do đó giáo viên phải truyền cho học sinh trước hêt là sự thích thú học môn Tiếng Anh bằng cách sử dụng những phương pháp dạy học tích cực, đổi mới phương pháp dạy học nhằm thu hút sự chú ý, đam mê của học viên. Việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ cần thống nhất với các quan điểm sau: + Tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hóa người học. + Đề cao và phát huy tốt vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. + Tổ chức học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính các hoạt động của các em. + Dạy cho học sinh cách tự học và ý chí tự học. Như vậy, xuất phát từ quan điểm “lấy người học làm trung tâm’’, phương pháp dạy và học đã có những thay đổi căn bản. Người dạy không phải là người duy nhất nắm giữ kiến thức và truyền đạt kiến thức mà là người hướng dẫn, người hỗ trợ, người cố vấn, người kiểm tra. Người học không còn là người thụ động tiếp thu kiến thức mà là trung tâm của quá trình dạy học, chủ động sáng tạo trong quá trình học tập nhằm đạt được kết quả cao trong và biết vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống. Dạy ngoại ngữ nói chung, dạy Tiếng Anh nói riêng việc đổi mới phương pháp dạy học là rất quan trọng. Ngoài việc nắm vững kiến thức ngôn ngữ, thực hiện tốt kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, kĩ năng Viết cũng đóng một vai trò quan trọng không kém. Dạy Viết là một trong những nội dung cơ bản và thực sự là sự kết hợp tinh tế của việc giảng các kĩ năng ngôn ngữ khác. Từ những luận điểm trên, việc áp dụng các phương pháp dạy Viết như thế nào để giúp học sinh thực hiện một bài viêt Tiếng Anh tốt, nghĩa là đảm bảo chính xác về yêu cầu bài viết, ngữ pháp, tính sáng tạo trong bài viết là rất quan trọng. Hơn thế nữa, mục đích cuối cùng của việc dạy – học ngoại ngữ không đơn thuần là nhận biết các hệ thống ngữ âm, từ vựng hay ngữ pháp mà học sinh phải biết sử dụng các hệ thống đó để đạt được những mục đích giao tiếp cụ thể: bằng lời nói, bằng hành động, bằng văn bản… Vai trò của kỹ năng Viết trong chương trình phổ thông hiện nay (cụ thể là SGK Tiếng Anh 11 – Chương trình cải cách) chủ yếu là nhằm phối hợp với các kỹ năng lời nói khác để làm phong phú thêm các hình thức luyện tập trên lớp cũng như các bài tập ở nhà nhằm củng cố thêm những kiến thức đã học, đồng thời giúp học sinh bước đầu làm quen với văn phong, cấu trúc chặt chẽ của văn viết và học cách sử dụng hoạt động viết vào một mục đích đơn giản như viết thư, viết văn miêu tả người, biểu đồ, ngày lễ, địa điểm… Bùi Thị Thu Nhung 3 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Về phía giáo viên Nhìn từ góc độ của một giáo viên dạy ngoại ngữ, tôi thấy rằng sách Tiếng Anh 11 – Chương trình cải cách có sự phân chia rất rõ ràng các kỹ năng: Reading – Speaking – Listening – Writing. Cuối mỗi bài là phần Language Focus – tập trung vào phân tích các thành tố ngữ pháp. Một điều thuận lợi nữa cho giáo viên đó là trong mỗi phần lại được phân chia thành các nhiệm vụ cụ thể. Có thể nói rằng SGK Tiếng Anh 11 như một “giáo án mẫu”. Điều này không có nghĩa là giáo viên chỉ cần yêu cầu học sinh làm chủ các quy trình trong SGK là xong, mà điều quan trọng nhất là giáo viên cần có những thủ thuật chuyển hóa các quy trình đó thành kỹ năng thực thụ. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy những khó khăn nhất định mà giáo viên thường xuyên gặp phải ở kỹ năng viết” + Có quá nhiều học sinh trong lớp, vì thế giáo viên rất khó quản lý những học sinh nào làm việc và những học sinh nào không. + Sự không đồng đều về năng lực, trình độ giữa các HS trong một lớp hoặc giữa lớp này với lớp khác. + Giáo viên thường cảm thấy áy náy vì không thể kiểm soát và sửa hết được tất cả các lỗi của học sinh hoặc không giúp đỡ được hết học sinh trong quá trình viết. + Việc sửa lỗi và cho điểm tốn rất nhiều thời gian. + Quá trình viết thường nhiều hơn 45 phút cho phép. 2.2. Về phía học sinh Đây mới là khó khăn lớn nhất mà hầu hết giáo viên gặp phải. Tuy rằng nhiều học sinh đã có 3 năm học Tiếng Anh ở Tiểu học, 4 năm ở THCS và qua 1 năm học lớp 10 nhưng những hạn chế về kiến thức của các em thì vô cùng lớn: + Không có đủ từ vựng hoặc cấu trúc câu để diễn đạt ý. + Có khuynh hướng sử dụng Tiếng Anh nói khi viết. + Sự hiểu biết về kiến thức xã hội còn hạn chế. + Có khuynh hướng dịch các ý từ Tiếng Việt sang Tiếng Anh khi viết. + Sử dụng sai các mục đích, yêu cầu của các kiểu bài khác nhau. + Diễn đạt các ý kiến, thông tin trong cùng một câu hoặc một đoạn văn dài. + HS chưa biết cách sử dụng, khai thác các tài liệu tham khảo, dẫn đến việc sao chép y nguyên đáp án, bài làm mẫu chỉ để hoàn thành bài tập được giao. Bùi Thị Thu Nhung 4 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu  Học sinh thường chán nản với giờ học Viết và hiệu quả giờ học không cao. Chính vì những khó khăn thực tế mà tôi trải qua ở những năm công tác đã thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu những giải pháp khác nhau để khắc phục tình trạng này. Kết hợp với chương trình SGK Tiếng Anh 11 cải cách, sau một thời gian áp dụng trong năm học 2013 – 2014, tôi mạnh dạn trao đổi với quý thầy cô giáo dạy môn Tiếng Anh về một khía cạnh nhỏ của vấn đề dạy – học Viết, đó là: “Dạy viết phân tích biểu đồ Tiếng Anh thông qua phân tích bài viết mẫu cho học sinh lớp 11 trường THPT Nguyễn Siêu.” II. Mục đích nghiên cứu Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích vấn đề, tác giả mong muốn đưa ra được một cách học viết phân tích biểu đồ theo văn bản cho sẵn để khai thác tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình rèn luyện các kỹ năng trong dạy học Tiếng Anh. Bên cạnh đó, tác giả hy vọng có thể giúp rèn luyện và phát triển kỹ năng Viết cho học sinh: Nhận biết -> Suy nghĩ -> Dựng ý -> Diễn đạt thành văn Học sinh biết phân tích, khai thác các bài viết mẫu về miêu tả biểu đồ, từ đó đưa ra được dàn ý chung cho dạng bài phân tích biểu đồ, cách mở bài giới thiệu ý tổng quát đến cách triển khai ý chi tiết và kết luận. Thêm vào đó, HS có thể tự tìm tòi, học hỏi các cấu trúc ngữ pháp hay, từ vựng liên quan để đưa vào bài viết của mình một cách sáng tạo, mang dấu ấn cá nhân. III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Phân tích biểu đồ là một dạng cụ thể của thể loại viết đoạn văn. Tuy nhiên do giới hạn về kinh nghiệm của tác giả cũng như thời gian thực hiện đề tài, trong nội dung của sáng kiến kinh nghiệm, tác giả chỉ mong muốn giới thiệu cách phân tích bài viết biểu đồ mẫu cho các giờ thực hành viết miêu tả biểu đồ trong SGK Tiếng Anh 11 – Chương trình đổi mới đối với học sinh lớp 11 trường THPT Nguyễn Siêu năm học 2013 – 2014. IV. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu đọc tài liệu, giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để Bùi Thị Thu Nhung 5 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu rút ra những vấn đề lý luận có tính chất định hướng làm cơ sở để giải quyết vấn đề, nhiệm vụ nhiên cứu. 2. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, cụ thể trong lĩnh hội kiến thức mới nhằm phát hiện các vấn đề cần giải quyết, xác định tính phổ biến của nguyên nhân, chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp theo. 3. Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với đồng nghiệp về những thuận lợi và những khó khăn trong việc soạn giảng và sử dụng phương pháp mới hiện nay. 4. Phương pháp quan sát: Thông qua các tiết dự giờ tiết viết để có thể quan sát trực tiếp tình hình học sinh. Qua đó biết được khả năng tiếp thu bài, nắm bắt kiến thức qua bài giảng. Bên cạnh đó tiếp thu học hỏi đồng nghiệp và phát hiện ra những hạn chế trong giảng dạy. 5. Phương pháp kiểm tra đánh giá: Thông qua những tiết dạy của bản thân, đồng nghiệp và kiểm tra khảo sát học sinh. Bùi Thị Thu Nhung 6 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Viết là kỹ năng cuối cùng trong chuỗi 4 kỹ năng. Viết sử dụng những ký hiệu, chữ cái và các quy tắc ngữ pháp trong ngôn ngữ để chuyển tải âm thanh khi nói và Viết cũng là kỹ năng thiết lập yêu cầu cả ý nghĩa lẫn hình thức. Do vậy, khả năng diễn đạt suy nghĩ, ý kiến cá nhân dưới hình thức viết trong ngôn ngữ thứ hai phải chính xác, rõ ràng, mạch lạc thật không dễ, ngay cả đối với người bản xứ. Để có một mẩu tin nhắn rõ ràng, một đoạn văn bản mạch lạc đảm bảo tính logic, đúng ngữ pháp, đúng chính tả và dấu câu người học cần có một quá trình học tập và rèn luyện nghiêm túc. Bài viết tốt phải đưa ra những lý do xác đáng, những bằng chứng cụ thể để thuyết phục người đọc hay đối tượng có liên quan. Bài viết hàm chứa 4 yếu tố: tính thống nhất, mạch lạc, lập luận chặt chẽ, và có các câu nòng cốt. Người viết phải tiên đoán và giải thích những vấn đề có khả năng xảy ra trong thực tế. Nói về kỹ năng Viết, Thạc sĩ Trần Văn Hùng nhận định đây là một trong những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất của con người, có vai trò rất quan trọng trong công việc của bất kỳ cá nhân nào và ở bất kỳ vị trí công tác nào. Đã rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về việc dạy và học Ngoại Ngữ (cụ thể là Tiếng Anh) và cũng không ít bài nghiên cứu về việc dạy và học kỹ năng Viết. Rõ ràng, trong số bốn kỹ năng, kỹ năng Viết được coi là trọng tâm chính trong việc giảng dạy Tiếng Anh, kỹ năng này cũng được xem là kỹ năng khó và quan trọng nhất đối với hầu hết người học (Jack C. & Willy A, 2002). Học viên thường nản chí trong các giờ học Viết do sự thiếu hụt về kiến thức xã hội, thiếu vốn từ vựng hay cấu trúc cần thiết…Để khắc phục vấn đề đó, có rất nhiều giáo viên đã nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng các phương pháp khác nhau trong giảng dạy. Có rất nhiều thủ thuật để tiến hành trong dạy kĩ năng Viết, như viết theo mẫu, viết có hướng dẫn hay viết tự do, người giáo viên phải tuỳ thuộc vào trình độ cụ thể của học sinh, biết vận dụng một cách linh hoạt các thủ thuật khác nhau để đạt được mục đích cuối cùng là giúp học sinh tích hợp những kiến thức đã học vào kĩ năng Viết một cách hiệu quả nhất (Nguyễn Phương Ngọc, 2008). Đi sâu vào nghiên cứu dạy Viết theo phương pháp thực hành viết theo văn bản cho sẵn, tác giả Nguyễn Thị Thanh Trúc (2010) cho rằng nếu môn viết được dạy có hệ thống sẽ giúp học viên bớt lo lắng, nản chí và càng có nhiều học viên thích thú học viết. Phương pháp thực hành viết phân tích theo văn bản cho sẵn – model text deconstruction process (MTDP). Đây là một phương pháp dựa trên lý thuyết phân tích cảm nhận văn học của triết gia người Pháp – Jacques Derrida đề xuất từ cuối thập niên 60 của thế kỷ XX. Phương pháp này chỉ ra rằng trong ngôn ngữ Bùi Thị Thu Nhung 7 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu không phải lúc nào cũng có một ý nghĩa, một bài văn có ý nghĩa thế nào tùy ở người đọc cảm nhận chứ không phải tác giả bài viết áp đặt, cách này còn gọi là phương pháp phân chiết. Vận dụng mô hình (MTDP) trong dạy viết khá hiệu quả giúp người học dễ dàng cải thiện và phát triển khả năng viết. Từ một văn bản cho sẳn, sau khi phân tích thể loại, bố cục, mục đích, cung cấp từ công cụ, cấu trúc cơ bản…, người học dễ dàng hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của đoạn văn bản mẫu, sau đó họ có thể phỏng tác sáng tạo theo trí tưởng tượng của mình. Phương pháp này có thể áp dụng cho mọi trình độ học viên từ sơ cấp đến cao cấp. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, tác giả Thanh Trúc mới chỉ giới thiệu, phân tích một số bài viết mẫu thuộc dạng viết thư, và viết đoạn văn miêu tả ở dạng cơ bản với đối tượng là học sinh THCS. Trong bài viết này, tác giả mong muốn bổ sung phương pháp thực hành viết phân tích, miêu tả biểu đồ theo văn bản cho sẵn – bài viết có tính học thuật - đối với học sinh THPT. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Thực trạng kỹ năng viết Tiếng Việt của học sinh nhìn chung đang rất yếu, đã và đang bị dư luận xã hội, các nhà ngôn ngữ học đề cập tại các hội thảo khoa học và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều tờ báo đã đăng các bài viết của học sinh sinh viên tại các kỳ thi học kỳ, tốt nghiệp cũng như thi Đại học khiến những ai có trách nhiệm cũng phải “giật mình” bởi thứ ngôn ngữ “ngoại lai” và cách hành văn “kỳ cục”. Trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng tham gia nhiều hơn nữa vào các tổ chức quốc tế, thì việc giao tiếp bằng tiếng nước ngoài, đặc biệt là Tiếng Anh, lại càng trở nên quan trọng không kém. Tuy nhiên, kỹ năng viết bằng Tiếng Anh đang là một rào cản lớn của học sinh để họ có thể giao lưu, học hỏi với các bạn bè nước ngoài. Vì để có thể viết được một bức thư kết bạn, thư mời hay viết đoạn văn phân tích…cho đúng văn phong lại không phải là một việc dễ với các học sinh, sinh viên Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề trên là do các chương trình đào tạo kỹ năng cho học sinh chưa có sự quan tâm đầy đủ đến các hoạt động nâng cao kỹ năng Viết cho học sinh. Trong công tác đánh giá học phần, giáo viên chỉ quan tâm đến đánh giá nội dung bài làm mà ít quan tâm chỉnh sửa các lỗi chính tả, lỗi văn phạm trong các bài làm của học sinh; ít triển khai các bài kiểm tra theo hình thức tiểu luận, bài tập lớn,…Thêm vào đó, nhiều giáo viên chưa có sự đầu tư đầy đủ cho bài giảng của mình trước khi đến lớp. Việc chuẩn bị các đồ dùng dạy học hay thiết kế các hoạt động, trò chơi tạo hứng thú lại mất quá nhiều thời gian cũng khiến không ít giáo viên nản lòng. Vì thế không ít giáo viên chỉ sử dụng những nội dung sẵn có trong SGK để hướng dẫn học sinh. Như vậy, trong quá trình học các kỹ Bùi Thị Thu Nhung 8 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu năng, đặc biệt là kỹ năng Viết, học sinh có thể sẽ cảm thấy uể oải, nhàm chán và khó thực hiện tốt nhiệm vụ của bài học. Bên cạnh đó, thời gian dành cho tiết thực hành Viết trên lớp không nhiều, đôi khi nhiệm vụ thực hiện lại quá nhiều hoặc mang tính chất lặp đi lặp lại, gây nản chí cho người học, trong khi Tiếng Anh vẫn là một ngoại ngữ quá khó với học sinh, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân từ chính bản thân học sinh: học sinh ngày càng ít đọc (bài báo, sách) của các tác giả có uy tín, ít chủ động và kiên trì thực hành viết; trong khi đó học sinh lại bị tác động tiêu cực của ngôn ngữ chat, blog, phim ảnh, truyện tranh và ca nhạc thị trường, thậm chí bị ảnh hưởng bởi tình trạng sử dụng sai lỗi chính tả và ngữ pháp trong các giáo trình, tài liệu, văn bản, vv…Vậy trong khi viết Tiếng Việt còn là một vấn đề nan giải thì khi học sinh phải luyện viết một ngôn ngữ nước ngoài mà họ còn chưa nói thành thạo lại càng trở nên khó khăn. Điều đó dẫn đến một thực trạng là hầu hết học sinh trong các giờ luyện viết Tiếng Anh đều không có sự đam mê, hứng thú hay chú ý. Đa số học sinh chỉ ngồi ghi chép theo những điều giáo viên hướng dẫn mà không hiểu bản chất vấn đề, không có sự tìm tòi, suy nghĩ, trăn trở trong bài viết. Thay vào đó để hoàn thành bài tập viết, học sinh lại tìm tới những cuốn sách giải, những bài văn viết sẵn để chép mà không có sự phân tích, chọn lọc ngôn ngữ, ý tưởng hay cấu trúc …theo đúng như dụng ý của nhà biên soạn Sách tham khảo. Điều này dẫn đến hậu quả là mặc dù học sinh đã được học Tiếng Anh rất nhiều năm rồi nhưng lại không thể viết nổi một đoạn văn tự giới thiệu về bản thân hay miêu tả đơn giản về một đồ vật hay hình vẽ…Do vậy, việc dạy Tiếng Anh nói chung và kỹ năng Viết Tiếng Anh nói riêng cho học sinh luôn là nỗi trăn trở của mỗi người giáo viên Ngoại Ngữ yêu nghề, làm sao để có thể thu hút, hướng dẫn học sinh học một cách hiệu quả và say mê. III. Hoạt động Viết 1. Viết là gì? Trong việc dạy một ngôn ngữ, Viết được xem là một trong bốn kỹ năng ngôn ngữ (bao gồm kỹ năng Nghe, Nói, Đọc và Viết) mà người học cần đạt được. Viết là một quá trình mà ở đó người viết thể hiện, trình bày những suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận của mình dưới dạng viết tay. Viết là một hoạt động giao tiếp, trong đó một bài viết tốt phải truyền đạt được những ý tưởng của người viết tới người đọc một cách trọn vẹn mà không làm mất hay thay đổi các ý tưởng đó (Leki, 1976). Có rất nhiều định nghĩa mang tính học thuật đã được đưa ra nhằm làm rõ bản chất của khái niệm Viết. Theo từ điển Oxford, “Oxford Advanced Learner’s Dictionary” (1989), thì Viết là hoạt động tạo ra những chữ cái hay những ký hiệu khác trên một bề mặt (thường là giấy), đặc biệt là bằng bút chì hoặc bút bi. Theo quan điểm của Davies, Viết bao gồm hai kỹ năng. Kỹ năng đầu tiên là kỹ năng ở mức độ thấp như viết tay Bùi Thị Thu Nhung 9 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu hay đánh máy, đánh vần, thành lập câu đúng ngữ pháp, tổ chức và sắp xếp ý, lập cấu trúc, viết nháp và hoàn tất. Byrne (1988) đã đưa ra một định nghĩa dài và phức tạp về Viết có thể được tóm tắt như sau: Viết là hành động tạo ra các ký hiệu đồ họa (về các chữ cái hoặc sự kết hợp của các chữ cái) được sắp xếp để hình thành nên các câu, chúng ta tạo ra một chuỗi các câu được sắp xếp theo một trình tự cụ thể và được liên kết với nhau theo một cách cố định, trên một mặt phẳng của một vật nào đó. Tóm lại, định nghĩa của Byrne có thể được xem là một trong những định nghĩa hoàn chỉnh nhất về Viết vì nó đã bao trùm được tất cả các yếu tố mà các tác giả đã đề cập trước đó đưa ra. 2. Tại sao cần dạy Viết? Mục đích của việc học một ngoại ngữ nào đó là để chúng ta có thể giao tiếp với người nước ngoài, để hiểu và nói chuyện với họ. Một phần thiết yếu của việc tiếp cận một nền văn hóa mới là việc học cách giáo tiếp như thế nào khi mà đối tượng giao tiếp không ở ngay trước mặt chúng ta để nghe chúng ta nói hay quan sát những cử chỉ, điệu bộ hay biểu hiện nét mặt của chúng ta. Vậy trong tình huống này, chúng ta bắt buộc phải để lại tin nhắn hay viết thư…Hay trong những tình huống khác như điền vào phiếu thông tin khách hàng, viết hướng dẫn, miêu tả …luôn bắt buộc chúng ta phải biết viết làm sao cho rõ ràng, mạch lạc, chính xác, đúng ngôn ngữ và cấu trúc … Đối với quá trình dạy và học, Raim (1993, p3) cho rằng đây là một lý do chính đáng và rất quan trọng: viết giúp học sinh của chúng ta học tốt hơn. Tác giả đã chỉ ra ba cách mà học sinh có thể học được qua hoạt động Viết. Trước tiên, Viết giúp củng cố lại các cấu trúc ngữ pháp, thành ngữ, và từ vựng mà giáo viên đã dạy cho học sinh. Thứ hai, khi học sinh viết, các em cũng có cơ hội được thử thách với ngôn ngữ, để vượt lên trên điều đó, dám mạo hiểm. Thứ ba, khi viết, học sinh bắt buộc phải thực sự hòa mình vào ngôn ngữ mới, nỗ lực để thể hiện ý kiến, quan điểm và việc liên tục sử dụng mắt, tay và bộ óc là cách tốt nhất để củng cố lại bài học. Chính hoạt động Viết đã cung cấp cho học sinh cơ hội vừa tập hợp ngôn ngữ vừa luyện tập các kỹ năng giao tiếp. Qua hoạt động Viết, học sinh sẽ nhận ra các em đã nắm vững được những phần nào và những vấn đề gì các em cần phải học hỏi thêm để trở thành một người viết thành thạo, cũng như một người học tốt. Như vậy, vấn đề đặt ra cho giáo viên không phải là “tại sao lại cần dạy Viết” mà là làm thế nào để giúp học sinh xây dựng được mục đích chính xác cho việc học Viết. Hơn thế nữa, giáo viên cần trăn trở làm sao để có thể giúp học sinh có sự say mê Bùi Thị Thu Nhung 10 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu trong mỗi giờ học Viết, và Viết không còn là bức tường thành khó gỡ khiến học sinh nản chí, thậm chí là lo sợ. Qua quá trình dạy SGK Tiếng Anh 11 – Chương trình cải cách, tôi thấy có một điểm mới trong dạy Viết là rất nhiều bài, cụ thể là những bài dạy viết phân tích biểu đồ, đã có những bài viết mẫu hoặc yêu cầu cần có bài viết mẫu được đưa ra ở nhiều dạng bài tập (tasks) khác nhau. Đây chính là một gợi ý tuyệt vời cho giáo viên và học sinh có thể giải quyết nhiệm vụ của bài viết được dễ dàng và nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể khai thác, tận dụng tối đa bài văn mẫu đó lại tùy thuộc vào sự đầu tư của giáo viên khi soạn giảng và tính sáng tạo, chủ động của học sinh trong quá trình học, tự nghiên cứu. Qua thời gian công tác đúc rút kinh nghiệm, dưới đây tôi xin được chia sẻ về việc sử dụng bài viết mẫu trong dạy viết Tiếng Anh cho học sinh lớp 11 như sau: IV. Hướng dẫn học sinh viết Tiếng Anh thông qua phân tích bài viết mẫu 1. Các loại biểu đồ thường gặp trong chương trình SGK Tiếng Anh 11 Có rất nhiều loại biểu đồ mà học sinh đã được gặp khi học môn địa lý như biểu đồ hình cột, biểu đồ hình tròn, biểu đồ đường thẳng, biểu đồ cột kết hợp với đường hay biểu đồ miền … Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ xin giới thiệu hai loại biểu đồ mà học sinh thường gặp trong quá trình học viết miêu tả biểu đồ trong chương trình SGK Tiếng Anh 11 là biểu đồ hình cột và biểu đồ hình tròn. 1.1 Biểu đồ hình cột (Bar chart) Bùi Thị Thu Nhung 11 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu 1.2 Biểu đồ tròn (Pie chart) Với mỗi một loại biểu đồ thì các số liệu được thể hiện khác nhau, do đó cách phân tích mỗi loại biểu đồ cũng có sự phân biệt. Tuy nhiên trong đề tài này, tác giả sẽ cố gắng đưa ra những điểm chung nhất của hai loại biểu đồ để có thể đưa ra được cách phân tích biểu đồ chung bằng Tiếng Anh với sự hỗ trợ của bài viết mẫu. 2. Kết cấu của một đoạn văn phân tích biểu đồ Bùi Thị Thu Nhung 12 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu Để viết được một đoạn văn phân tích biểu đồ hay, trước hết cần nắm rõ thế nào là đoạn văn và cấu trúc của nó ra sao. Đoạn văn là sự kết hợp của một vài câu cùng bàn luận về một đề tài chung. Đoạn văn được chia thành ba phần cơ bản: câu chủ đề, phần bổ trợ và câu kết. - Câu chủ đề (Topic sentence): câu dùng để giới thiệu khái quát ý của cả đoạn văn. Nó định hướng cho người đọc về phần tiếp theo của đoạn văn và giúp người viết kiểm soát được ý, không bị viết lệch hướng. Câu chủ đề thường là câu đứng đầu đoạn, đặc biệt trong các đoạn văn học thuật. Cũng có những trường hợp câu chủ đề không đứng ở đầu câu mà ở giữa câu hoặc cuối câu nhưng sẽ ít gặp hơn. Đối với đoạn văn phân tích biểu đồ thì câu chủ đề luôn xuất hiện ở đầu đoạn nhằm giới thiệu đối tượng được thể hiện ở biểu đồ, các thông tin về thời gian, địa điểm và xu hướng chung nhất được thể hiện ở biểu đồ. Với những biểu đồ chứa nhiều thông tin thì câu chủ đề có thể được tách làm hai câu. Ví dụ, SGK Tiếng Anh 11 bài 5 – Illiteracy, phần viết đoạn văn miêu tả bảng thông tin có câu mở đầu như sau: “The table describes the trends of literacy rates in Sunshine country from 1998 to 2007” (nghĩa là biểu đồ thể hiện sự phát triển về tỉ lệ biết chữ ở Sunshine từ năm 1998 đến năm 2007. Trong câu mở đầu này, tác giả đã cung cấp các thông tin về đối tượng được miêu tả (sự phát triển về tỉ lệ biết chữ), thời gian (từ năm 1998 đến năm 2007) và địa điểm (ở Sunshine). Phần tiếp theo của đoạn văn, tác giả cần tập trung triển khai các ý, phân tích nhằm làm rõ vấn đề được nêu ở câu chủ đề. Đối với độc giả, sau khi đọc câu mở đầu này, người đọc có thể đoán được nội dung tiếp theo của đoạn văn sẽ nói về điều gì. - Câu bổ trợ (Supporting sentences): những câu bổ sung ý nghĩa hoặc giải thích đề tài được đưa ra ở câu chủ đề. Số lượng câu bổ trợ sẽ phụ thuộc vào lượng thông tin được thể hiện trong biểu đồ có nhiều biến đổi hay không. Trong phân tích biểu đồ, các câu bổ trợ sẽ cung cấp thông tin chi tiết về các xu hướng, số liệu, sự thay đổi của các đối tượng được thể hiện trong biểu đồ qua các năm để giúp người đọc hiểu rõ hơn vấn đề được nhắc đến trong câu chủ đề. Ví dụ, khi viết tiếp đoạn văn miêu tả bảng thông tin về tỉ lệ biết chữ ở Sunshine, chúng ta có thể viết như sau: The literacy rate of pollution differs greatly in 3 areas of the country Lowlands, Midlands and Highlands; there has been a gradual rise in number of literate people from 1998 to 2004, but a sharp rise in 2007. In Lowlands, for example, the rates were 50%, 53% and 56% in 1998, 2002, and 2004. In 2007, the rate sharply rose to 95%, which was a remarkable progress. During that 10 years, the Midlands sees a steady increase in the literacy rate, from 70% to 85%. On the contrary, the Highlands area has to face the problem of falling literacy rate. After 10 years, its literate people has decreased 20%. Bùi Thị Thu Nhung 13 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu Ở đây, tác giả đã triển khai các câu bổ trợ nhằm làm rõ ý đã nêu trong câu chủ đề. Những thông tin cụ thể về sự biến đổi về tỉ lệ người biết chữ ở Sunshine theo từng khu vực (Lowlands, Midlands, và Highlands) đã được phân tích rõ ràng theo từng năm từ 1998 đến 2007. Tác giả đã trình bày về sự gia tăng số người biết chữ ở hai khu vực Lowlands và Midlands bằng cách liệt kê tỉ lệ phần trăm của mỗi năm. Đồng thời chỉ ra vấn đề tái mù chữ ở Highlands qua các số liệu giảm dần (từ 50% năm 1998 xuống 30% năm 2007). Như vậy, qua đoạn văn phân tích bảng số liệu trên, người đọc có thể hiểu rõ hơn về chương trình giáo dục đang diễn ra ở các vùng của Sunshine từ năm 1998 đến năm 2007. - Câu kết (Concluding sentence): Trong những đoạn văn trang trọng có một câu ở cuối đoạn tóm tắt lại toàn bộ thông tin đã được đưa ra trong đoạn. Đó chính là câu kết. Nói một cách khác, câu kết chính là câu chủ đề đã bị đảo ngược chiều hoặc câu kết là câu chủ đề được diễn đạt bằng từ ngữ khác. Đôi khi câu kết có thể được lược bỏ trong văn miêu tả biểu đồ. Ví dụ, tác giả có thể kết thúc đoạn văn miêu tả bảng số liệu trên bằng câu kết sau: “In conclusion, the literacy rates in Sunshine has changed sharply from region by region from 1998 to 2007”. Câu văn đã tổng kết lại về tỉ lệ người biết chữ ở mỗi vùng ở Sunshine là khác nhau theo từng năm. 3. Cách viết đoạn văn phân tích biểu đồ Nhìn chung, về cơ bản thì cách viết một đoạn văn phân tích biểu đồ cũng giống như cách viết một đoạn văn phân tích thông thường. Tuy nhiên thì phần nội dung cần bám sát vào các thông tin thể hiện trong biểu đồ. 3.1. Chuẩn bị (Preparation) Đây là giai đoạn mà người viết cần suy nghĩ cẩn thận và tổ chức ý cho đoạn văn định viết. Các bước thực hiện Bước 1: Suy nghĩ cẩn thận về những điều định viết. Thông thường người viết cần suy nghĩ xem mình sẽ miêu tả biểu đồ đó thế nào bằng cách trả lời các câu hỏi như: Phần quan trọng nhất cần trình bày về biểu đồ là gì? Câu chủ đề cần được viết như thế nào? Cần dùng những sự việc, ý kiến nào để bổ trợ cho câu đề tài? Cần phải phân tích biểu đồ như thế nào, mô tả liệt kê hay so sánh đối chiếu để làm rõ vấn đề? Ví dụ, SGK Tiếng Anh 11, bài 11 – Sources of energy, phần D – Writing, ở bài số 2 yêu cầu về miêu tả biể đồ về sự tiêu thụ năng lượng ở Highland trong năm 2005, người viết có thể trả lời các câu hỏi trên như sau: + Phần quan trọng nhất cần trình bày về biểu đồ là thể hiện được sự khác nhau về xu hướng sử dụng các nguồn năng lượng thông qua các số liệu cụ thể. Bùi Thị Thu Nhung 14 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu + Câu chủ đề cần thể hiện các thông tin về đối tượng miêu tả (ở đây là sự tiêu thụ các nguồn năng lượng), địa điểm (ở Highland) và năm (năm 2005). + Các ý bổ trợ sẽ nói về tổng số năng lượng được tiêu thụ, tiếp đó là chi tiết về số lượng mỗi nguồn năng lượng được tiêu thụ. + Đoạn văn có thể dùng cách liệt kê các số liệu và so sánh sự chênh lệch về việc sử dụng các nguồn năng lượng… Bước 2: Hãy dựa vào biểu đồ, đọc những thông tin được thể hiện trên biểu đồ như đối tượng được thể hiện trên biểu đồ là gì? Nó được thể hiện bằng thông số gì, phần trăm hay các số chỉ lượng, đơn vị tính? Đối tượng đấy được tính theo thời gian hay khu vực? Có những xu hướng nào được thể hiện trên biểu đồ? Vv…Tuy nhiên cũng không cần phải dành quá nhiều thời gian cho bước này; đừng viết quá chi tiết, chỉ cần viết ngắn gọn đủ để giúp nhớ được mục đích và phương thức để viết đoạn văn. Ví dụ, với biểu đồ của bài 11 – Sources of energy, học sinh có thể thấy ngay tên biểu đồ (energy consumption – sự tiêu thụ năng lượng), đơn vị tính (million tons – triệu tấn), địa điểm (Highland) và thời gian (in 2000 and 2005). Quan sát biểu đồ, học sinh có thể thấy ngay sự khác nhau về việc sử dụng các nguồn năng lượng qua các số liệu ghi trên mỗi cột… Bước 3. Thu thập các thông tin cần thiết từ biểu đồ, lập dàn ý, tập trung các từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp cần thiết để chuẩn bị cho bài phân tích. Ví dụ, với đề bài trên, học sinh có thể lập dàn ý như sau: + Topic sentence: The chart shows the energy comsumption in Highland in 2005 + Supporting sentences: As can be seen, ….. Made up The largest/ smallest amount of … Followed… + Concluding sentence: In conclusion, …. 3.2. Viết đoạn văn phân tích (Writing) Đây là giai đoạn vận dụng những ý kiến của mình để viết câu. Trong phần này, học sinh cần nhớ lại cách viết câu chủ đề, những câu bổ trợ và câu kết. Cần chú ý viết những câu đơn giản và rõ ràng để bày tỏ ý kiến của mình. Hãy cố gắng tập trung vào ý chính của đoạn văn, tránh đi lệch hướng. Bùi Thị Thu Nhung 15 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu Để giúp đoạn văn được rõ ràng, mạch lạc, dễ theo dõi, người viết cần nắm vững một số cấu trúc sau: + Mở bài: Người viết cần nói được biểu đồ biểu diễn số liệu về gì bằng các mẫu câu sau: The table shows/illustrates the trends in …. between ……. The graph shows…… The chart shows how the ….. have changed …… Sau đó cần có câu tóm tắt tổng quát dữ liệu bằng cách nhìn tổng quát các dữ liệu chính. Chúng ta thường bắt đầu với: In general, ….. Overall, ………. It can be seen that………….. + Thân bài: miêu tả những xu hướng chung nhất, nổi bật nhất từ các dữ liệu. Khi trình bày các dữ liệu, các bạn phải sử dụng các từ nối để làm câu văn logic và mạch lạc. Những từ nối như: in addition, therefore, furthermore,.... Tiếp theo cần miêu tả chi tiết hơn, vẫn tập trung vào xu hướng chính nhưng tập trung hơn vào các dữ liệu nhỏ hơn, kèm theo số liệu minh họa. Dưới đây là một số cấu trúc, từ ngữ thường dùng khi phân tích, so sánh các số liệu trong biểu đồ:  Từ, cụm từ chỉ sự so sánh, đối chiếu: Từ, cụm từ so sánh Từ, cụm từ đối chiếu ……the same as…. However As well as Different than Also But Too On the other hand Like While Much as Although Similarly Less than Similar to Though Both Unlike Bùi Thị Thu Nhung 16 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu  Từ và cụm từ biểu thị diễn biến số liệu: Tăng Động từ Danh từ Rise (to) a rise Increase (to) an increase Go up to Giảm Grow (to) growth Climb (to) a climb Boom a boom Peak (at) (reach) a peak (at) Decline (to) a decline (of) Fall (to) a fall (of) Decrease (to) a decrease (of) Dip (to) a dip (of) Drop (to) a drop (of) Go down (to) Không đổi Reduce (to) a reduction (of) Level out a leveling out Not change no change Remain stable (at) Remain steady (at) Stay (at) Stay constant (at) Maintain the same level  Một số tính từ và trạng từ đi kèm: Tính từ Trạng từ Dramatic dramatically Sharp sharply Bùi Thị Thu Nhung 17 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ Sáng kiến kinh nghiệm 2013 – 2014 Trường THPT Nguyễn Siêu Huge hugely Enormous enormously Steep steeply Substantial substantially Considerable considerably Significant significantly Marked markedly Moderate moderately Slight slightly Minimal minimally  Một số tính từ và trạng từ diễn đạt tốc độ thay đổi: Tính từ Trạng từ Rapid Rapidly Quick Quickly Swift Swiftly Sudden Suddenly Steady Steadily Gradual Gradually Slow Slowly  Đối với dạng bài miêu tả quá trình, có thể sử dụng những từ và cụm từ để diễn tả các bước như: To begin/ the first stage / first / first of all…. After / after that / then… Bùi Thị Thu Nhung Following this…. 18 Tổ Sử - Địa – Ngoại Ngữ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan