Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian...

Tài liệu Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian

.DOC
64
1981
136

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA DÂN GIAN” 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài 1. Văn học dân gian là vốn qúi của văn học dân tộc. Hiểu được văn học dân gian giúp chúng ta hiểu được về truyền thống của cha ông trong quá khứ, nâng cao tinh thần tự hào dân tộc và tinh thần yêu nước trong mỗi con người. Việc giảng dạy văn học dân gian trong chương trình môn Văn các cấp học là cần thiết. Riêng đối với chương trình môn Văn lớp 10 T.H.P.T, việc giảng dạy các tác phẩm văn học dân gian lại càng quan trọng vì lượng tác phẩm văn học dân gian được giảng dạy là khá nhiều, tạo thành một mảng kiến thức quan trọng trong chương trình. 2. Văn học dân gian mang đặc trưng nguyên hợp, là một bộ phận của văn hóa dân gian. Đặc trưng này khiến văn học dân gian là một bộ phận không thể tách rời với văn hóa dân gian. Vì thế, để hiểu văn học dân gian, không thể không đặt nó trong mối quan hệ với văn hóa dân gian. 3. Tuy nhiên, hiểu biết về vốn văn hóa trong học sinh còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc các em khó tiếp cận tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường T.H.P.T, nhất là đối với những tác phẩm văn học dân gian ra đời từ nhiều thế kỉ trước. Điều đó khiến chúng tôi đi sâu vào đề tài này nghiên cứu, từ đó đúc rút được một số kinh nghiệm trong việc giảng dạy văn học dân gian ở lớp 10 T.H.P.T. II. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm văn học dân gian được dạy trong chương trình văn học lớp 10. III. Mục đích nghiên cứu: 2 Đề tài nhằm nghiên cứu một cách dạy tác phẩm dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian, từ đó giúp học sinh học tốt hơn các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam được học trong chương trình Ngữ văn lớp 10 T.H.P.T. IV. Nội dung nghiên cứu: Đề tài của chúng tôi nhằm đạt tới những mục đích sau đây: Thứ nhất: Xác lập cơ sở lí thuyết của việc giảng dạy những tác phẩm văn học dân gian dưới góc độ văn hóa dân gian Thứ hai: Đưa ra các góc độ văn hóa để lí giải một tác phẩm văn học dân gian Thứ ba: Chỉ ra một cách cụ thể những góc độ văn hóa dân gian cần khai thác trong một số tác phẩm văn học dân gian được giảng dạy ở chương trình lớp 10 T.H.P.T. Từ đó đúc kết cách giảng dạy một tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian. V. Phương pháp thực hiện: Khi thực sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp liên ngành: vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực văn hóa để hiểu tác phẩm văn học dân gian. - Khi nghiên cứu khoa học: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp - Khi giảng dạy, chúng tôi sử dụng các phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm thoại. 3 B. NỘI DUNG Chương I: Cơ sở lí thuyết của việc giảng dạy tác phẩm văn học dân gian dưới góc độ văn hóa dân gian I. Khái niệm văn học dân gian: Văn học Việt Nam là sự tích hợp từ hai dòng văn học dân gian và văn học viết. Trong đó văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay. Ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương khi nghiên cứu văn học dân gian: Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ (folklore văn học). II. Cơ sở lí thuyết của việc giảng dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian: Ra đời từ buổi ấu thơ của nhân loại, văn học dân gian có những đặc trưng khác biệt với văn học viết. Những đặc trưng giúp phân biệt văn học dân gian và văn học viết thường được các nhà nghiên cứu nhắc đến nhiều là: tính nguyên hợp, tính tập thể, tính truyền miệng và tính dị bản. Các đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo ra nét đặc trưng của văn học dân gian so với văn học viết. Trong bốn đặc trưng trên, tính 4 nguyên hợp là đặc trưng quan trọng hàng đầu và nó cũng chính là cơ sở lí thuyết của việc giảng dạy tác phẩm văn học dân gian dưới góc độ văn hóa dân gian. Tính nguyên hợp trong văn học dân gian là một vấn đề từ lâu được nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian quan tâm đến. Là người đặt nền móng cho khoa học nghiên cứu văn hóa dân gian, Giáo sư Đinh Gia Khánh trong công trình “Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian” đã đề ra phương pháp luận cho ngành nghiên cứu văn hóa dân gian. Vai trò kiến tạo nổi bật của ông được thể hiện trong việc xác định tính tổng thể nguyên hợp của văn học dân gian nói riêng và văn hóa dân gian nói chung. Ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm tính nguyên hợp và đưa vào thực tiễn nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam. Khi bàn về tính nguyên hợp của văn hóa dân gian( bao gồm cả văn học dân gian), Giáo sư Đinh Gia Khánh đã cho rằng: “Nói rằng đặc điểm cơ bản của văn hóa dân gian là tính nguyên hợp tức là nói rằng qua nghệ thuật ấy, người ta nhận thức về hiện thực như một tổng thể chưa bị chia cắt”.. Và: “ Khi chúng ta nói rằng văn hóa dân gian có tính nguyên hợp, chúng ta hiểu rằng văn hóa dân gian trong khi phản ánh thế giới, luôn luôn là một nhận thức nguyên hợp về tổng thể vốn có của thế giới”. Theo PGS.TS Khoa học Vũ Anh Tuấn, trong bốn đặc trưng trên, tính nguyên hợp là dấu hiệu phân biệt rõ ràng nhất để phân biệt sự khác biệt giữa văn học dân gian và văn học viết. Tính nguyên hợp của văn học dân gian thể hiện ở chỗ: tác phẩm văn học dân gian chính là sự tổng hợp nguyên sơ của nhiều lĩnh vực nghệ thuật, kiến thức trong mình nó. Vì thế, khi tìm hiểu tác phẩm văn học dân gian, chúng ta không thể bỏ qua đặc trưng này. Đây chính là nguyên nhân vì sao phải giảng dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian. 5 Tính nguyên hợp về nội dung của văn học dân gian phản ánh tình trạng nguyên hợp về ý thức xã hội thời nguyên thuỷ, khi mà các lĩnh vực sản xuất tinh thần chưa được chuyên môn hóa. Trong các xã hội thời kỳ sau, mặc dù các lĩnh vực sản xuất tinh thần đã có sự chuyên môn hoá nhưng văn học dân gian vẫn còn mang tính nguyên hợp về nội dung. Bởi vì đại bộ phận nhân dân- tác giả sáng tác văn học dân gian không có điều kiện tham gia vào các lĩnh vực sáng tạo tinh thần khác nên họ thể hiện những kinh nghiệm, tri thức, tư tưởng tình cảm của mình trong văn học dân gian- một loại nghệ thuật không chuyên. Biểu hiện rõ ràng nhất của đặc trưng nguyên hợp là ở chỗ: Văn học dân gian là kết tinh trí tuệ, tâm hồn của nhân dân nhiều địa phương trong nhiều thời đại, là sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực văn hóa: lịch sử, tín ngưỡng , tôn giáo, phong tục… Khác với văn học viết là thành tựu sáng tạo của một cá nhân, văn học dân gian là sáng tạo của cả tập thể. Vì thế, cũng giống như tính nguyên hợp trong văn hóa dân gian, khi tìm hiểu tính nguyên hợp trong văn học dân gian, phải xét đến vai trò sáng tạo của những thời đại khác nhau và giữa các địa phương khác nhau trong quá trình sáng tạo tác phẩm văn học . Đầu tiên khi ra đời, sáng tác văn học dân gian có thể do một cá nhân, thường là một nghệ nhân sáng tạo ra. Trong quá trình truyền miệng theo không gian và thời gian, văn học dân gian trở thành sản phẩm sáng tạo của cả tập thể. Mỗi thành viên trong cộng đồng có thể thêm bớt, thay đổi một vài chi tiết trong một cốt truyện, một vài từ ngữ trong một bài ca dao, gọt giũa cho nó trở nên đẹp hơn, trong sáng hơn. Theo thời gian, những sáng tác mang tính sáng tạo cao trở thành giá trị nghệ thuật đích thực được cộng đồng lưu giữ. 6 Như vậy, những sáng tác dân gian kết tinh trong nó tinh hoa trí tuệ, tâm hồn của cả tập thể nhân dân lao động. Vì thế, trong văn học dân gian, người ta gặp nhận thức nguyên hợp. Giáo sư Đinh Gia Khánh khi phân tích truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh” đã chỉ ra được nhiều tầng văn hóa của các thời đại khác nhau: tục thờ núi, thờ sông của người nguyên thủy, cuộc đấu tranh chống thủy tai của người Việt cổ khi họ từ ven đồi núi trung du kéo xuống khai thác đồng bằng sông Hồng, vấn đề trị thủy ở lưu vực sông Hồng trong mùa nước lũ khi người Việt cổ đã biết đến đắp đê, vấn đề sính lễ, thách cưới liên quan đến phong tục của người Việt về việc cưới hỏi … Tương tự như vậy, trong nhiều tác phẩm văn học dân gian, người ta cũng bắt gặp nhiều tầng văn hóa cùng lắng đọng. Truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ là một ví dụ khá rõ nét về sự nguyên hợp trong nhận thức của văn học dân gian. Trong truyện vừa có những dấu vết của tín ngưỡng thờ vật tổ (thờ trứng) vốn là những tín ngưỡng nguyên thủy, ra đời từ rất xa xưa vừa có dấu vết của tín ngưỡng thờ tổ tiên ra đời muộn hơn, khi con người đã có ý thức về cộng đồng, làng xã, gia đình, dòng tộc. Bên cạnh đó, truyện cũng ghi lại được cả những tri thức lịch sử về thời đại Hùng Vương: triều đình có quan văn, quan võ, con trai vua thì gọi là quan lang, con gái thì gọi là mệ nàng, mười tám đời cha truyền con nối đều lấy hiệu là Hùng Vương không hề thay đổi. Truyện “Thánh Gióng” cũng là một ví dụ tương tự. Trong truyện có cả những nhận thức nguyên sơ của đời trước đồng thời có cả những nhận thức già dặn hơn ra đời ở thời kì sau. Sự ra đời kì lạ của Gióng là sự kết hợp của một bà mẹ với một lực lượng tự nhiên có liên quan đến nghề trồng cà ở làng Phù Đổng, đó là giông bão, sấm sét. Lực lượng tự nhiên này được nhân hóa thành người khổng lồ. Trong dịp về hái cà làng Phù Đổng, ông đã để lại một dấu chân lớn, mẹ Gióng ướm và từ đó mà có mang. Theo nhà nghiên cứu 7 Cao Huy Đỉnh thì:'' Cái quan niệm con người là con của tự nhiên( trời) và một bà mẹ bắt nguồn từ trong thị tộc mẫu hệ, lúc con người chỉ biết mẹ mà không biết cha…Bà mẹ lúc đầu đại diện cho tinh thần huyết thống và đạo đức của bộ lạc, là nguồn gốc sức mạnh và anh hùng''. Cũng trong truyện “Thánh Gióng”, chúng ta còn hiểu thêm một nhận thức mới mẻ nữa của người xưa qua một loạt các chi tiết về sắt: roi sắt, giáp sắt, ngựa sắt, nón sắt. Chắc chắn những chi tiết này phản ánh một nhận thức ra đời muộn hơn, khi con người đã biết đến sắt và sức mạnh của sắt trong lao động sản xuất và trong chiến đấu. Có thể nói sự nguyên hợp về nhận thức đã đặt các tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ khăng khít, gắn bó với văn hóa dân gian- bao gồm nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, thói quen sinh hoạt vật chất và tinh thần… Để hiểu một tác phẩm văn học dân gian, không thể không đặt nó trong môi trường văn hóa dân gian mà nó ra đời, không thể không xuất phát từ những yếu tố văn hóa dân gian khác mà tìm hiểu nó. Dạy một tác phẩm văn học dân gian cần bồi đắp cho học sinh về vốn văn hóa dân gian, từ đó bồi dưỡng tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc, khiến các em ruát ra được những bài học quí báu từ đạo làm người. Thiết nghĩ, đó mới chính là mục đích cuối cùng của việc học văn. Chương II: Các góc độ văn hóa giúp cho việc hiểu một tác phẩm văn học dân gian I. Khái niệm văn hóa: Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng 8 để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống...Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”. Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa. Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. II. Các góc độ văn hóa giúp cho việc hiểu một tác phẩm văn học dân gian: Nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 - 1917) đã cho rằng văn hóa là một tổng thể : văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học “là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Có thể nói văn hóa là một khái niệm lớn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong văn hóa có cả phong tục, đạo đức, tín 9 ngưỡng, lễ hội, luật pháp…cùng hiện diện. Vì vậy, để hiểu và giảng dạy tác phẩm văn học dân gian, người dạy cũng phải xuất phát từ nhiều phương diện của văn hóa mới thấy hết được cái hay cái đẹp của nó. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một số số phương diện cơ bản của văn hóa: 1. Phong tục: Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất. Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại: hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão; hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm; hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người... Là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, Việt Nam có nhiều phong tục , có những phong tục thực sự đã trở thành thuần phong mĩ tục của người Việt Nam. Nhiều phong tục đẹp của người Việt đã được soi bóng trong ca dao, truyện cổ, mang một ý nghĩa văn hóa, thẩm mĩ đẹp đẽ. 2. Cách ứng xử: Cách ứng xử giữa người với người là một nét văn hóa quan trọng của các dân tộc. 10 Là một dân tộc có văn hóa, người Việt Nam có cách ứng xử riêng của mình. Trong đối nhân xử thế của người Việt, chữ tâm, chữ đức, chữ tình được đề cao: trong gia đình thì “ trên kính, dưới nhường”, trong quan hệ họ hàng thì “ một giọt máu đào hơn ao nước lã”, trong quan hệ láng giềng thì “ tắt lửa tối đèn có nhau”, trong quan hệ đồng bào thì: “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước thì thương nhau cùng” Bên cạnh tình, người bình dân xưa còn nói nhiều về nghĩa. Với quan niệm truyền thống, giàu sang, của cải không phải là cái đích cuối cùng của cuộc sống. Điều quan trọng nhất là người ta phải sống với nhau cho trọn nghĩa, vẹn tình. Những quan niệm sống đẹp đẽ đó của con người Việt Nam in đậm dấu ấn trong văn học dân gian, đặc biệt là trong ca dao, truyện cổ. 3. Tín ngưỡng, tôn giáo: Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì không mang tính dân tộc. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Cũng như các dân tộc khác ở Đông Nam Á, người Việt có đời sống tâm linh của mình. Phạm Đức Dương trong cuốn “Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á” đã khẳng định: “Trong tâm thức của cư dân Đông Nam Á, với phương pháp tư duy âm dương, con người đã phân chia thế giới thành hai: thực và ảo, vật chất và tinh thần…, trong đó cái 11 mà họ quan tâm chính là đời sống tâm linh” (13, 95). Và “Thế giới tâm linh của cư dân Đông Nam Á được xây dựng trên quan niệm “Vạn vật hữu linh” (mọi vật đều có linh hồn như con người). Những linh hồn này tạo thành thế giới thần linh. Đây là thế giới vô hình nhưng lại có vô vàn năng lực siêu việt và thường xuyên tác động đến con người theo hai chiều: thuận- nghịch, lành- dữ. Do đó con người thần thánh hóa những ma lực đó dưới hình thức các biểu tượng và thờ phụng các thần linh để được che chở” (13, 96). Những tín ngưỡng dân gian của người Việt ra đời trên cơ sở niềm tin ấy. Người Việt có nhiều tín ngưỡng như tín ngưỡng thờ nhiên thần( thờ nước, trứng, thờ đá), tín ngưỡng phồn thực thờ hành vi giao phối, tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ thành hoàng làng. Bên cạnh những tín ngưỡng trên, sau này, trong quá trình giao lưu văn hóa, do địa bàn sinh sống của người Việt ở vào vị trí cửa ngõ của Đông Nam Á nên họ đã tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo ngoại lai, trong đó đậm nét là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Phật giáo được người Việt biết đến từ rất sớm, ngay từ giai đoạn đầu công nguyên. Thời nhà Lí, nhà Trần, đạo Phật phát triển cực thịnh và được coi là quốc giáo, ảnh đến mọi việc của đời sống. Đạo giáo đến Việt Nam cũng từ rất sớm (khoảng cuối thế kỉ thứ hai). Trước khi biết đến Đạo giáo, người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép…Đạo giáo có rất nhiều điểm tương đồng với những tín ngưỡng ma thuật của người dân bản địa nên nhanh chóng tìm được chỗ đứng trong tâm linh người Việt. Nếu Phật giáo thờ Phật tổ và các đức Phật thì Đạo giáo thờ các vị thần: Ngọc Hoàng Thượng Đế (Ngọc Hoàng), Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công). Với Đạo giáo, người Việt còn thờ các vị thánh riêng của mình: Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh công chúa) cùng các vị thần khác như Tam Bành, Độc Cước, Huyền 12 Đàn, Ông Năm Dinh, Quan lớn Tuần Tranh…Theo tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt, Đức Phật được thờ trong chùa còn các vị thần thánh được thờ trong đền. Văn hóa Việt Nam mang đậm dấu ấn từ các tôn giáo, tín ngưỡng dân gian. Kiến trúc đình, chùa, đền là những kiến trúc khá quen thuộc trong địa bàn sinh sống của người Việt. Trần Quốc Vượng đã khẳng định: “…nói tới văn hóa châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc các di tích văn hóa” (68, 254). Cũng như vậy, văn học dân gian người Việt, nhất là thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mang khá đậm nét dấu ấn của tín ngưỡng dân gian và những tôn giáo ở Việt Nam. Vì thế, để hiểu sâu sắc những thể loại này, không thể không tìm hiểu những tư tưởng, ý nghĩa tôn giáo trong đó. 4. Lễ hội: Lễ hội là tên gọi mới của một số nhà nghiên cứu nhìn nhận hội làng theo tư duy duy lý của phương Tây, trong đó theo họ, phần lễ thì nghiêm trang, còn phần hội thì vui vẻ giải trí. Trong ngày Hội chúng ta “mời” các vị thần linh, anh linh núi sông trời đất, các vị thành hoàng làng là vị thần che chở cho làng xóm, mời anh linh các vị anh hùng dân tộc, mời tổ tiên các dòng họ về dự với chúng ta. Như vậy hội làng hội tụ sức mạnh thiêng liêng củả cả trời đất, non sông, tổ tiên và con cháu. Có thể nói gọn lại hội là một không gian và thời gian chứa đựng đậm đặc năng lượng thiêng của cả vũ trụ và thời gian. Với người Kinh không gian thiêng ấy được đặt vào cái sân đình. Với các tộc thiểu số, nó bao quanh cây nêu. Còn thời gian thiêng chung là các thời điểm của mùa xuân. Cho nên, kẻ giàu, người nghèo nô nức đến hội trước hết để được đắm mình trong không gian thiêng và thời gian thiêng đó, để được tiếp nhận năng lượng thiêng của cả trời đất, quá khứ, hiện tại và để được trải nghiệm sự thăng hoa trong không-thời gian thiêng liêng ấy. Mùa xuân - mùa khởi đầu cho một 13 năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cỏ cây...Giữa tiết trời ấm áp ấy, lòng người phơi phới rủ nhau đi hội, hành hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con người hạnh phúc. Lễ hội ở nước ta thật đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế... Trong các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam, lễ hội được nhắc đến khá nhiều, thậm chí còn được miêu tả khá tỉ mỉ. Vì thế, khi dạy những tác phẩm có liên quan, giáo viên không thể không giải thích những ý nghĩa văn hóa được tái hiện trong đó. Chương III: Giải pháp khi dạy các tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian I. Giải pháp: Sau một thời gian dài nghiên cứu và nhiều năm thử nghiệm, tôi đã rút ra một số giải pháp dạy văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian như sau: 1. Trước hết, người dạy phải có phần chuẩn bị kĩ càng, phần chuẩn bị của giáo viên càng kĩ thì giờ dạy càng thành công. Bản thân giáo viên không thể biết hết những vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, vì vậy, giáo viên phải tự đọc sách, tra cứu tài liệu để tìm hiểu về những vấn đề văn hóa mà mình chưa nắm rõ hoặc để mở rộng vốn văn hóa của bản thân 14 mình. Mục chú thích của sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và internet sẽ là những công cụ đắc lực cho người dạy trong việc mở rộng vốn kiến thức văn hóa có liên quan đến tác phẩm văn học. Sau khi thu nhập và mở rộng vốn kiến thức văn hóa cần thiết, giáo viên cần cân nhắc kĩ sẽ sử dụng nó như thế nào trong bài dạy để vừa khắc sâu kiến thức cơ bản cho học sinh, vừa cho học sinh dễ hiểu bài, vừa nâng cao và mở rộng vốn kiến thức văn hóa cho học sinh. Vấn đề thời lượng kiến thức và thời gian là rất quan trọng, nó yêu cầu người dạy phải có cách sắp xếp cho hợp lí, vừa đảm bảo về mặt thời gian, vừa truyến tải được những kiến thức trọng tâm, cơ bản cho học sinh. 2. Định hướng khai thác văn hóa cho học sinh theo thể loại là một điều quan trọng khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này. Trên thực tế, mỗi thể loại văn học dân gian có đặc trưng khác nhau cũng như phản ánh những phương diện khác nhau của văn hóa. Truyền thuyết, sử thi, truyện cố tích thường gắn bó với lịch sử, tín ngưỡng, phong tục. Ca dao gắn bó với đời sống tâm hồn, với quan niệm về đối nhân xử thế. Vì vậy, khi khai thác các khía cạnh văn hóa có liên quan đến bài dạy, giáo viên cần lưu ý phương diện thể loại. Cụ thể: Đối với Sử thi: khi dạy, cần khai thác tác phẩm trong mối quan hệ với thời đại lịch sử, quan niệm thời đại, phong tục tập quán. Đối với truyện cổ tích: cần khai thác tác phẩm trong mối quan hệ với phong tục, với quan niệm nhân sinh, đấu tranh giai cấp, các phong tục, các chuẩn mực đạo đức. Đối với truyện thơ: cần khai thác tác phẩm trong mối quan hệ với phong tục, với quan niệm nhân sinh, quan niệm đạo đức, quan niệm ứng xử. Đối với ca dao: cần khai thác tác phẩm trong mối quan hệ với quan niệm đạo đức, phong tục xã hội, ứng xử. 15 3. Phần chuẩn bị ở nhà của học sinh cũng là một yếu tố quyết định thành công của tiết dạy. Do khuôn khổ thời gian có hạn nên không phải điều gì giáo viên cũng có thể nói được hết cho học sinh. Vì vậy, phần chuẩn bị ở nhà của học sinh là rất quan trọng. Giáo viên cần cho học sinh tự tìm hiểu chú thích, tự tìm hiểu những phong tục, tập quán, quan niệm truyền thống có liên quan đến tác phẩm văn học dân gian được học, từ đó giúp cho việc tiếp thu bài học của học sinh được rõ ràng hơn. Phần này có thể được cụ thể hóa bằng những câu hỏi cụ thể của giáo viên. 4. Khâu dạy học trên lớp là khâu quan trọng nhất. Khâu này có thể tiến hành theo trình tự như sau: Trước hết, giáo viên cho học sinh trình bày phần kiến thức đã được tìm hiểu ( có thể nêu kết hợp với phần tiểu dẫn). Sau đó, giáo viên bổ sung và khắc sâu kiến thức cho học sinh về những nội dung văn hóa mà học sinh đã trình bày. Sau đó, trong khi tìm hiểu cụ thể tác phẩm, giáo viên có thể dừng lại ở những chi tiết văn hóa đặc sắc để giảng và bình cho học sinh. Nếu dạy bằng máy chiếu, giáo viên có thể trình chiếu cho học sinh một số hình ảnh sinh động về sinh hoạt sản xuất, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng hay lễ hội, phong tục để học sinh được sống trong không gian văn hóa của tác phẩm văn học dân gian. Cuối cùng, trong phần củng cố, sau khi tổng kết về giá trị tác phẩm, giáo viên gắn với giá trị văn hóa để học sinh có thể hiểu sâu hơn về tác phẩm và hiểu sâu hơn về nền văn hóa dân tộc. Thông qua đó, giáo viên có thể giáo dục cho học sinh tinh thần tự hào và ý thức giữ gìn văn hóa dân tộc. II. Minh họa cụ thể qua một số tiết dạy: 16 Sau đây là một số bài dạy tôi đã thực hiện khi dạy tác phẩm văn học dân gian lớp 10 chương trình, chương trình chuẩn. 1. Dạy bài “Chiến thắng Mtao Mxây” ( trích sử thi “Đăm Săn”) Chiến thắng Mtao Mxây là tác phẩm văn học dân gian thuộc thể loại sử thi- một thể loại đã ra đời từ rất xa xưa. Do khoảng cách thời gian với hiện tại, lại do học sinh còn xa lạ với văn hóa các dân tộc thiểu số nên việc tiếp thu tác phẩm còn nhiều khó khăn. Vì vậy, giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu tác phẩm bằng cách đặt nó trong không gian văn hóa của nó. Bài dạy được bố trí trong hai tiết: Tiết 1: Giới thiệu chung: về sử thi Tây Nguyên và sử thi anh hùng, tóm tắt tác phẩm và dạy một ý nhỏ trong phần đọc hiểu văn bản là phẩn Đăm Săn giao chiến với Mtao Mxây. Tiết 2: Tiếp tục đọc hiểu với hai phần: Cảnh dân làng Mtao Mxây theo Đăm Săn trở về và cảnh Đăm Săn cùng dân làng ăn mừng chiến thắng, cuối cùng là tổng kết giá trị của đoạn trích và hướng dẫn học sinh luyện tập. Trong quá trình dạy ở tiết 1, ngay ở phần tóm tắt tác phẩm, giáo viên đã nên cung cấp cho học sinh một số kiến thức về văn hóa Tây nguyên để giúp cho học sinh hiểu tác phẩm. Sau khi lấy hai chị em Hơ Nhị và Hơ Bhi, Đăm Săn trở thành một tù trưởng. Đây là chi tiết mà giáo viên phải dùng văn hóa Tây Nguyên để lí giải. Sở dĩ sau hôn nhân, Đăm Săn phải về nhà vợ ở vì sử thi ra đời trong lòng chế độ mẫu hệ. Trong gia đình mẫu hệ, vai trò trụ cột là người phụ nữ nên người đàn ông sau khi lấy vợ phải trở về ở gia đình nhà vợ. Hai chị em Hơ Nhị và Hơ Bhi thuộc dòng dõi tù trưởng nên Đăm Săn sau khi lấy vợ kế thừa quyền lực của gia đình vợ, trở thành một tù trưởng. 17 Trong quá trình tóm tắt đoạn trích, có một số chi tiết mà giáo viên cũng phải sử dụng vốn văn hóa Ê- đê để giải thích như: chi tiết Đăm Săn chặt cây thần, Đăm Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời… Tín ngưỡng thờ vật tổ là tín ngưỡng cổ xưa tồn tại trong nhiều cộng đồng trong đó mỗi bộ lạc lại thờ một vật tổ riêng và đó là những vật thiêng, những cấm kị mà cộng đồng không ai được vi phạm. Cộng đồng Đăm Săn thờ cây Smuk và nó trở thành cây thần- vật tổ mà cả cộng đồng tôn thờ. Sở dĩ Đăm Săn chặt cây thần vì Đăm Săn muốn chống lại tập tục cổ lạc hậu. Hay Đăm Săn muốn đi bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ không chỉ vì Đăm Săn muốn cộng đồng mình được hùng mạnh hơn nữa mà còn vì một lí do khác mà phải đặt trong thời đại sử thi chúng ta mới có thể lí giải được. Sử thi Đăm Săn cũng như nhiều sử thi của người Ê- đê ra đời cuối thời kì mẫu hệ- khi cộng đồng người Ê- đê đang chuẩn bị bước vào thời kì phụ hệ. Vì vậy hành động của Đăm Săn muốn đi bắt nữ thần Mặt Trời xuống trần gian làm vợ mình( chứ không phải Đăm Săn lên trời ở rể) chính là hành động chống lại tập tục, thể hiện khát vọng làm chủ của người đàn ông trong thời đại mới. Tóm lại, hình tượng Đăm Săn là hình tượng người anh hùng của thời đại sử thi, không chỉ biểu tượng cho những chiến công, khát vọng mà còn biểu tượng cho sự đấu tranh chống tập tục cổ của người đàn ông khi chuẩn bị bước vào thời kì phụ hệ. Ở phần đọc hiểu tác phẩm, khi đọc hiểu đoạn Đăm Săn giao chiến với MTao Mxây, giáo viên có thể dừng lại ở chi tiết ngôi nhà sàn của MTao Mxây được miêu tả ở đầu tác phẩm. Nếu dạy máy chiếu, giáo viên có thể cho học sinh xem hình ảnh ngôi nhà sàn Tây Nguyên. Vì nhà làm bằng gỗ dễ bắt lửa nên khi Đăm Săn dọa sẽ phóng hỏa đốt nhà MTao Mxây thì hắn phải vội vàng đi xuống. Trong khi xuống, MTao Mxây sợ Đăm Săn đâm lén vì bậc thang nhà sàn của Tây Nguyên trống, có khoảng cách, không giống với bậc thang nhà gác của người Kinh. 18 Sau khi phân tích xong cuộc giao tranh giữa Đăm Săn và MTao Mxây, giáo viên là hình ảnh người anh hùng Đăm Săn với sức mạnh, chiến công và lòng dũng cảm. Giáo viên cho học sinh biết về thời đại sử thi: thời đại của chiến tranh thị tộc bộ lạc liên miên nên mẫu người lí tưởng của thời đại phải là mẫu người anh hùng và phẩm chất lí tưởng của con người thời đại phải là sức mạnh, lòng dũng cảm, danh dự và khát vọng lập chiến công. Người anh hùng chiến thắng kẻ thù ở đây trước hết để dòi lại vợ, tức là để bảo về danh dự của người đàn ông, và đó cũng là một điểm tiến bộ. Hôn nhân của loài người giai đoạn trước là hình thức quần hôn, đến giai đoạn này đã tiến lên một bước mới, đã có sự xác định rõ hình thức gia đình cá thể. Vì vậy, người anh hùng trong sử thi chiến đấu để bảo vệ quan niệm hôn nhân mới tốt đẹp. Nhưng không chỉ thế, người anh hùng trong sử thi trước hết chiến đấu vì lợi ích cộng đồng, chiến công của người anh hùng sẽ lảm cho cộng đồng của chàng thêm giàu có và hùng mạnh. Đó chính là điều khiến cho người anh hùng thời đại sử thi được cộng đồng yêu mến và tin tưởng. Và đó cũng là lí do khiến sau khi thắng trận, dân làng nguyện đi theo Đăm Săn, không hề căm giận hay phản kháng như cách xử sự của những kẻ bại trận. Giáo viên nên lấy quan niệm của thời đại sử thi để lí giải cho học sinh. Vì thời đại sử thi là thời đại chiến tranh liên miên nên mỗi cộng đồng người muốn tồn tại và phát triển thì phải có một người đứng đầu thật sự tài giỏi. Người đứng đầu đó phải là những anh hùng. Tài năng, mưu trí và sức mạnh của họ sẽ là sự đảm bảo để cộng đồng của họ sẽ vững vàng trước sự tấn công của những cộng đồng dân cư khác. Vì vậy, mọi người, ngay cả ở một cộng đồng thù địch cũng hết lòng ủng hộ Đăm Săn, đi theo và mang của cải về cho cộng đồng chàng càng trở nên hùng mạnh. Phần Đăm Săn cùng cộng đồng ăn mừng chiến thắng, giáo viên nên cho học sinh biết thêm về một số nét văn hóa Tây Nguyên như lễ hội, tín ngưỡng, văn hóa cồng 19 chiêng. Người Tây Nguyên tin vào ông trời, lễ hội của người Tây Nguyên cũng như lễ hội của một số dân tộc khác gồm có hai phần: phần lễ cử hành những nghi lễ thiêng liêng dành cho thần linh, trời đất, phần hội là phần vui chơi dành cho những người phàm trần. Mở đầu đoạn trích là cảnh Đăm Săn kêu gọi mọi người chuẩn bị trâu, bò, dê để tế lễ thần linh, cảm tạ trời đất đã phù trợ cho chàng chiến thắng Mtao Mxây. Không phải ngẫu nhiên mà chi tiết về cồng chiêng, chũm chọe được lặp đi lặp lại trong đoạn trích. Đây là những chi tiết có liên quan đến văn hóa của người Tây Nguyên. Trong văn hóa Tây Nguyên, di sản văn hóa cồng chiêng là một di sản văn hóa đặc sắc. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu này. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể của không gian văn hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau: Ê-đê, Ba Na, Mạ, Lặc...Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó như nhà dài, nhà rông, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên. Hiện tại, ở các vùng có cồng chiêng như ở Tây Nguyên, lễ hội cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch hấp dẫn. Cồng chiêng không chỉ dùng trong tế lễ thần linh, trong ngày hội mà còn là sự thể hiện cho sự giàu có và hùng mạnh. Cộng đồng nào có nhiều công chiêng thì cộng đồng đó càng hùng mạnh và giàu có. Dàn cồng chiêng hoành tráng, lễ tế thần linh linh đình và cảnh ăn mừng thắng trận kéo dài trong nhiều tháng của cộng đồng Đăm Săn theo văn hóa Tây Nguyên biểu tượng cho sự giàu có và hùng mạnh của một cộng đồng đang trên đà 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất