DẠY MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 5
Phần I : Đặt vấn đề
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với khoa
học công nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghiệp hoáHiện đại hoá Đất nước, phát huy yếu tố con người phát triển toàn diện là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững trên mọi lĩnh vực.
Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo là con người có
đầy đủ năng lực, trí tuệ, có đạo đức thích nghi được với những thay đổi,
có kỹ năng hành động, biết “Học thường xuyên, học suốt đời” và có ý
tưởng “học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm
người”. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội là đào tạo ra những con người
phát triển toàn diện thì việc dạy học ở trường Tiểu học chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy đủ các môn
học theo quy định nhằm giúp các em có kiến thức sâu rộng để có thể tiếp
cận được với nền khoa học tiên tiến hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Các môn học ở Tiểu học đều có
mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Môn Tiếng Việt ở Tiểu
học có vị trí rất đặc biệt quan trọng, nó chiếm thời lượng nhiều hơn cả so
với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu của môn Tiếng Việt là ngôn
ngữ, là công cụ không thể thiếu để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày
và là phương tiện để học sinh có thể tiếp cận và học tốt được các môn học
khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển.
Môn Tiếng Việt còn giúp cho các em cảm nhận, khám phá ra những nét
đẹp về tâm hồn, sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Môn Tiếng Việt là
cơ sở, là chỗ dựa cho học sinh học tốt các môn học khác. Vì muốn học
môn
nào cũng cần sử dụng kỹ năng nói, đọc, viết mà môn Tiếng Việt là môn
bước đầu hình thành kỹ năng này. Trong Tiếng Việt thì phân môn :Tập
làm văn lại là môn tổng hợp các kiến thức và kỹ năng của các phân môn:
Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện. Vì thế, bậc Tiểu học cần rèn luyện
cho các em có kỹ năng học tốt phân môn Tập làm văn để giúp các em
nắm bắt được cái hay, cái đẹp, biết cảm thụ văn học và có tình yêu quê
hương, đất nước và con người.
Như ta đã biết dạy Tập làm văn là nhằm phát triển và hoàn thiện năng lực
văn học cho học sinh trên bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, trong đó kỹ năng
nói có vai trò quan trọng trong đời sống học sinh, nó giúp các em hình
thành các kỹ năng học tập khác. Vì thế mục đích cao nhất của bài tập Tập
làm văn là rèn kỹ năng nói cho học sinh giúp các em sử dụng Tiếng Việt
một cách có hiệu quả trong học tập và giao tiếp trong gia đình, nhà trường
và xã hội.
Đối với học sinh lớp 5, các em đã có một số vốn kỹ năng nhất định, đã
biết phân tích mối quan hệ giữa người với người trong những mối quan
hệ khác nhau, để có thể sáng tạo bằng ngôn từ một cái gì đó của mình và
thể hiện những khía cạnh của đời sống. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ gợi
được cảm xúc trực tiếp, để đưa người nói, người nghe có thể nắm bắt
được những nội dung cần trao đổi và để đạt được mục đích của giao tiếp.
Qua ngôn ngữ nói ta dễ nhận thấy trí tuệ, tâm hồn của người nói bởi lời
nói luôn mang phong cách riêng của mỗi người. Trong lời nói cần thể
hiện tư duy, nếu tư duy tốt lời nói sẽ dễ dàng, gọn gàng, hấp dẫn được
người nghe, ngược lại nếu nói ấp úng, không rõ ràng sẽ không thuyết
phục được người nghe và đôi khi còn hiểu sai ý mình muốn nói. Vì thể
mục đích của giao tiếp sẽ khó được thực hiện hoàn chỉnh. Để có những
lời nói đẹp mỗi người phải rèn luyện trong một quá trình lâu dài. Những
giờ Tập làm văn chính là giờ học hình thành cho học sinh những kỹ năng
nói đầu tiên, ở lứa tuổi này các em đã có một sự thay đổi đáng kể về đặc
điểm tâm, sinh lý. Các em đã thay đổi từ trong quá trình nhận thức, việc
sử dụng các công cụ trực quan đã giảm bớt so với ở các lớp học trước và
thay vào đó là học sinh có thể dùng lời để làm tường minh một vấn đề. Vì
vậy, lời nói cho phép diễn đạt dễ dàng hơn rất nhiều những quan hệ phức
tạp hơn những tính chất bên trong những sự vận động logi. ở lớp 5 hoạt
động yêu thích của trẻ em là sáng tạo văn học, nếu được học văn theo một
chương trình đúng và có một phương pháp truyền thụ tốt thì trẻ em ở tuổi
này rất thích học văn, dễ nói hết ra những điều mình suy nghĩ, đó là điều
kiện thuận lợi nhất cho giáo viên trong việc rèn kỹ năng nói cho từng học
sinh, nhận ra những chỗ khiếm khuyết của từng học sinh để uốn nắn kịp
thời. Theo quan điểm dạy học hiện nay, cần phải rèn cho học sinh kỹ
năng diễn đạt một vấn đề cụ thể một cách rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy giờ
Tập làm văn còn rèn cho học sinh kỹ năng nói, dạy các em biết tổng hợp
kiến thức từ các phân môn khác như: Luyện từ và câu, Tập đọc và các
kinh nghiệm cuộc sống mà học sinh có được. Cùng một vấn đề nhưng
không phải học sinh nào cũng nói như nhau, do đó giáo viên phải luôn
quan tâm tới đặc điểm riêng của từng học sinh để rèn kỹ năng nói cho phù
hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
Thực tế dạy học hiện nay cho thấy kỹ năng nói của học sinh đang ngày bị
xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là kiểm tra viết và giáo
viên chỉ tập trung vào các kỹ năng: đọc, viết, tính toán trong nhà trường là
việc có thật. Việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong phân môn Tập
làm văn lớp 5 hiện nay chưa làm nổi bật các đặc thù là rèn kỹ năng nói
cho học sinh mà chủ yếu mới chỉ tập trung vào lập dàn bài để phục vụ
cho giờ văn viết. Do đó, việc rèn luyện kỹ năng nói lưu loát trong cách
diễn đạt cho học sinh là việc làm cần thiết của người giáo viên ở trên lớp,
đây là cả một quá trình đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, cố gắng, tìm hiểu và
quan tâm đến từng đối tượng học sinh ở trong lớp để có thể có biện pháp
giúp đỡ các em có điều kiện luyện tập tuỳ theo cách nhìn nhận vấn đề của
từng học sinh. Do đó việc cải tiến, đổi mới về phương pháp luyện nói cho
học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng là vấn đề cần quan
tâm, bởi vì khả năng diễn đạt vấn đề của học sinh hiện nay hầu hết còn rất
nhiều hạn chế cần khắc phục.
Từ thực trạng việc diễn đạt vấn đề của học sinh lớp 5, trường Tiểu học
Xuyên Mộc hiện nay. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi thiết
nghĩ cần phải cải tiến và đổi mới về thực trạng hiện nay để nâng cao khả
năng diễn đạt, khả năng giao tiếp và nhận biết vấn đề của học sinh. Vì
vậy tôi mạnh dạn nghiên cứu sáng kiến “Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập
làm văn cho học sinh lớp 5”
Phần II:Giải quyết vấn đề
1.Cơ sở lí luận và thực tiễn:
a. Cơ sở lý luận
Bước vào thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua 20 năm đổi mới và thu
được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hoá các
hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Chất lượng
giáo dục có những chuyển biến rõ rệt.
Như chúng ta đã biết, Đại hội XI Đảng cộng sản Việt Nam đã
khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
giai đoạn 2001- 2010 là: “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân.
Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. Để đạt được mục tiêu trên, giáo dục và
khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu giáo dục phát triển là
rất bức thiết.
Đất nước ta ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp
người mới biết sử dụng thành tạo điêu luyện ngôn ngữ diễn đạt một cách
mới mẻ sáng tạo của tư duy là vô cùng cần thiết. Cũng bởi Tiếng Việt là
ngôn ngữ, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội hiện nay.
Do vậy Tiếng Việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với
lượng kiến thức và thời gian nhiều. Môn Tiếng Việt là một trong những
môn học trong trường tiểu học phải được thực hiện theo nguyên tắc dạy
và học. Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt phải cụ thể hoá mục tiêu và
nguyên tắc dạy học nói chung vào từng môn học. Vì thế việc dạy Tiếng
Việt cho học sinh tiểu học cần dựa trên cơ sở những quy luật và nguyên
tắc để đề ra những phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình
dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn. Khắc phục lối truyền thụ một chiều,
rèn luyện nề nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng
phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học. Do vậy rèn luyện
kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh của mỗi giáo viên tiểu học cần
phải được chú trọng và quan tâm.
b. Cơ sở thực tiễn:
Trong tất cả các môn thì Tiếng Việt là một trong những môn học có
vị trí đặc biệt, nó chiếm thời lượng tiết học nhiều hơn cả. Sau khi học
xong chương trình Tiếng Việt tiểu học các em phải thực hiện tốt 4 kỹ
năng nghe, đọc, nói, viết mà chương trình yêu cầu. Đặc biệt là kỹ năng
nói thông qua việc diễn đạt các vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc, trọng
tâm làm cho người nghe có hứng thú và tiếp cận lời nói một cách tự nhiên
và hiệu quả.
Các yêu cầu của môn Tiếng Việt lớp 5 đối với học sinh vùng thành
phố thị xã thì việc thực hiện dễ dàng. Song đối với học sinh lớp 5 trường
tiểu học Xuyên Mộc cần phải thực hiện thường xuyên, nhiệt tình để nâng
cao chất lượng học tập tốt hơn.
Ở đơn vị trường Tiểu học Xuyên Mộc , tỷ lệ học sinh đạt chất
lượng cao ở môn Tiếng Việt nói chung và khả năng trình bày bằng lời nói
của học sinh nhìn chung còn chưa đồng đều ở các khối, lớp.
Trước yêu cầu thực tế của đơn vị là “Nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo” là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 5A4 trường tiểu
học Xuyên Mộc . Xuất phát từ những luận điểm trên và qua thực tế giảng
dạy tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và đổi mới phương pháp để nâng cao chất
lượng, rèn kỹ năng nói cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt và phân
môn Tập làm văn theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục Đào tạo, đồng thời tạo
ra những phương pháp đổi mới, những biện pháp cần thiết là động lực
thúc đẩy cho quá trình giáo dục của nhà trường góp phần hoàn thiện các
ký năng để học sinh có thể tiếp cận với các kiến thức mới dễ dàng và có
hiệu quả.
2. Giả thuyết:
- Để thực hiện giải pháp trong việc nâng cao chất lượng kỹ năng
trình bày bằng lời nói trong giờ tập làm văn ở lớp 5, bản thân tôi có dự
kiến ban đầu về công việc cần làm như sau:
- Thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục, tuyên truyền vận động để
tất cả các phụ huynh đều thấu hiểu về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt
lớp Năm.
- Giáo viên nghiên cứu tài liệu, đổi mới nội dung phương pháp dạy
học để rèn luyện kỹ năng lời nói trong phân môn Tập làm văn lớp 5.
- Thường xuyên kiểm tra chất lượng học sinh, dự kiến giúp đỡ đến
từng học sinh để các em trong lớp đều có thể có kỹ năng giao tiếp thông
qua việc rèn luyện kỹ năng nói.
- Thực hiện tốt việc luyện đọc đối với học sinh thông qua các giờ
tập làm văn, thông qua các văn bản đã học giúp học sinh có khả năng
trình bày văn bản bằng lời nói.
- Tìm hiểu cụ thể việc thực trạng ban đầu về chất lượng môn Tiếng
Việt của học sinh trong trường đặc biệt là chất lượng môn Tiếng Việt của
học sinh lớp Năm.
* Đánh giá chung về thực trạng:
Nhìn chung chất lượng các môn học đối với lớp do tôi chủ nhiệm
khá đồng đều, nhưng riêng phân môn Tập làm văn của các em kết quả
còn hạn chế, đó là khả năng trình bày bằng lời nói còn nhiều hạn chế, ngữ
điệu trong khi trình bày chưa thể hiện được theo nội dung của văn bản.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, nhà trường con gặp không ít khó
khăn ảnh hưởng đến chất lượng chung. Một số học sinh ở xa khu địa bàn
trung tâm, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, học sinh còn phát âm chưa
chuẩn Tiếng Việt, gia đình chưa thực sự quan tâm đến các em nên phần
nào ảnh hưởng đến kết quả học tập. Thực tế trong quá trình giảng dạy,
bản thân tôi đã khảo sát trực tiếp lớp 5A4 trong năm học 2009-2010 khi
trình bày bằng lời nói thông qua bài văn tả cảnh, kết quả thu được như
sau:
* Kết quả khảo sát lớp 5A4 đầu năm học 2009 - 2010:
Việc học sinh còn lúng túng trong khi diễn đạt văn bản bằng lời nói
làm cho việc tiếp cận các kiến thức khoa học kỹ thuật càng trở nên khó
khăn hơn, làm cho các em mất lòng tin khi bước vào cuộc sống sau này.
Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát việc diễn đạt bằng lời nói của
học sinh ở trên, chúng ta có thể thấy việc đọc hiểu và trình bày được lưu
loát văn bản bằng lời nói làm cho người nghe có hứng thú khi nghe của
học sinh còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ học sinh còn lúng túng khi trình bày
bài tập còn khá cao. Mà những học sinh này do vốn Tiếng Việt còn nhiều
hạn chế, cho nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của các môn
học khác.
Nhận thức được rõ điều đó và trước thực trạng học môn luyện nói
của học sinh thông qua phân môn Tập làm văn chương trình tiểu học mới
của học sinh lớp 5 tôi đã tìm ra các biện pháp để nầng cao chất lượng
trình bày bằng lời nói môn Tiếng Việt lớp 5.
3. Quá trình thực hiện giải pháp mới:
Qua những năm tháng học tập, nghiên cứu phương pháp dạy học
môn Tiếng Việt, bản thân tôi đã áp dụng những giải pháp để nâng cao
chất lượng kỹ năng nói môn Tiếng Việt lớp 5 như sau :
a. Nghiên cứu tài liệu:
Để nắm vững nội dung và phương pháp dạy học môn Tiếng Việt
tiểu học, tôi đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu về chuẩn kiến thức và kỹ
năng các môn học ở Tiểu học; tài liệu rèn kỹ năng tập làm văn cho học
sinh lớp 5 theo chương trình Tiểu học mới của Tiến sĩ Lê Anh Xuân –
Nhà xuất bản Giáo dục; 2007. Vì vậy chương trình phân môn Tập làm
văn lớp 5 cũng nằm trong sự đổi mới đó là: Chương trình kế thừa ưu điểm
của nội dung chương trình môn Tiếng Việt theo chương trình và sách
giáo khoa cũ, đồng thời phát triển những thành tựu có được của chương
trình, khắc phục được tồn tại và bất cập của chương trình Tiếng Việt cải
cách GD. Bổ xung một số nội dung cần thiết phù hợp với nhận thức của
học sinh với thực tế cuộc sống và hội nhập cùng các nước trong khu vực
và thế giới.
* Qua nghien cứu tài liệu, đánh giá chung như sau:
- Điểm mới về nội dung: Cơ bản, thiết thực gắn với cuộc sống xã
hội hiện đại, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh. Học sinh dễ
dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức mới và rèn luyện các kỹ năng.
+ Phong phú đa dạng về bài và tư liệu.
+ Tích hợp nhiều nội dung nhiều môn học.
- Về mục đích: SGK Tiếng Việt mới khẳng định Tiếng Việt không
chỉ là công cụ để sáng tác thơ văn mà cần thiết cho bất kỳ người Việt
Nam trong giao tiếp, trong lao động trong khoa nghiên cứu khoa học,
trong phát triển công nghệ và trong tư duy.
- Về cấu trúc: Phần bài học đơn giản, gọn, tạo tình huống để học
sinh phát triển vấn đề, tự chiếm lĩnh nội dung bài học. Phần thực hành
được sắp xếp ở mức đơn giản đến phức tạp.
Từ mục tiêu, nội dung chương trình trên đòi hỏi giáo viên phải cải
cách đổi mới phương pháp dạy học.
b. Công tác xã hội hoá giáo dục:
Đây là năm học thứ năm triển khai chương trình và SGK mới ở
Tiểu học. Giáo viên chủ nhiệm phải bố trí thời gian thăm gia đình học
sinh để nắm bắt được điều kiện hoàn cảnh của từng học sinh, trao đổi
phương pháp kèm học sinh ở gia đình. Thống nhất một số nề nếp, nội quy
giữa gia đình, nhà trường - lớp với cô giáo chủ nhiệm.
Tổ chức gặp gỡ với phụ huynh học sinh để trao đổi về tình hình học
tập cũng như một số vấn đề có liên quan trong việc giáo dục học sinh.
Ngoài ra, giáo viên cũng thống nhất với Hội CMHS phối hợp chặt chẽ
trong công tác giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với
học sinh. Đặc biệt là đặt vấn đề về việc nâng cao kỹ năng nói, kỹ năng
trình bày của học sinh thông qua cuộc sống giao tiếp hàng ngày ở gia
đình để kịp thời uốn nắn khi học sinh chưa hoàn thành được mục tiêu của
bài học.
Phối hợp tốt với chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương
trong công tác giáo dục học sinh trên nhiều lĩnh vực như: học tập, vui
chơi, các hoạt động ngoại khoá để thu hút học sinh vào các hoạt động. Do
đó học sinh sẽ có điều kiện để giao tiếp và tự nâng cao được kỹ năng giao
tiếp trong cuộc sống hàng ngày.
c. Thiết kế bài học:
Để nâng cao kỹ năng nói cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn
lớp 5, để giờ học đạt hiệu quả cao đòi hỏi người giáo viên phải biết cách
thiết kế bài học trước khi lên lớp. Việc chuẩn bị bài học càng chu đáo bao
nhiêu thì chất lượng dạy học sẽ càng đạt hiệu quả bấy nhiêu. Do vậy việc
thiết kế kế hoạch bài học chi tiết, cụ thể sẽ giúp cho học sinh có điều kiện
để tiếp thu kiến thức một cách chủ động hơn.
Soạn bài thực chất là lập kế hoạch để tổ chức hướng dẫn học sinh
hoạt động học tập cụ thể phân môn Tập làm văn.
* Ví dụ: Mẫu thiết kế của mỗi bài học môn Tiếng Việt được thể
hiện qua các nội dung chính sau.
A- Mục tiêu:
- Kiến thức
- Kỹ năng
- Phát
triển tư duy
B- Đồ dùng dạy học:
- Thầy
C- Các hoạt động dạy học:
học bài mới
tập
I- Kiểm tra bài cũ.
1/ Giới thiệu bài
4/ Củng cố dặn dò
- Trò
2/ Dạy bài mới
II- Dạy
3/ Luyện
d. Chuẩn bị đồ dùng (thiết bị dạy học)
Trong các giờ dạy học ở trên lớp giáo viên đều phải sử dụng thiết bị
đồ dùng dạy học. Sử dụng thiết bị dạy học chính là tạo điều kiện thuận lợi
để giáo viên đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học và hoạt động theo
hướng tích cực hoá, cá thể hoá người học trong hoạt động học tập, rèn
luyện. Thiết bị dạy học sẽ góp phần quan trọng vào hiệu quả của giờ dạy.
Vì vậy trước các tiết học, giáo viên cần sưu tầm và sử dụng triệt để các đồ
dùng dạy học.
Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh là mục đích cao nhất của giờ tập làm
văn. Từ những điều đã quan sát được học sinh biết tổ chức thành ý để
diễn đạt thành lời cho giáo viên và cả lớp nghe, giáo viên có thể bổ sung
những khiếm khuyết về nội dung và rèn luyện về mặt tư duy ngôn ngữ
cho học sinh, qua đó kỹ năng nói của học sinh từng bước được rèn luyện
như: Phát âm đúng, dùng từ chuẩn xác, dùng câu đúng quy tắc ngữ pháp,
biết sử dụng giọng nói cách nói riêng để thuyết phục người nghe.
Mục đích thứ hai của giờ tập làm văn là chuẩn bị trực tiếp hay gián tiếp
cho bài tập làm văn viết sau đó. Việc rèn luyện kỹ năng nói theo từng đề
bài cụ thể của các tiết tập làm văn đối với học sinh lớp 5 được diễn ra
thường xuyên, kỹ năng diễn đạt của học sinh sẽ được hình thành dần
thông qua các tiết học đó. Việc sử dụng chính xác các từ ngữ trong các
phân môn: Tập đọc, luyện từ và câu, Kể chuyện trong chương trình để
giúp cho học sinh có kỹ năng nói phù hợp với hoàn cảnh, mục tiêu của
giao tiếp.
Giờ tập làm văn chính là giờ để học sinh tập nói. Trong giờ học này học
sinh phải được nói và được rèn kỹ năng nói, được dùng ngôn ngữ của
mình để trình bày, vấn đề được đề ra phải được bộc lộ ý kiến của mình và
được nghe ý kiến của người khác. Muốn lời nói của mình thu hút được
người nghe đòi hỏi người nói phải có vốn ngôn ngữ phong phú, phong
cách diễn đạt phù hợp với hoàn cảnh. Cho nên trong quá trình dạy học
các môn học khác, người giáo viên vẫn cần phải thường xuyên trau chuốt
từ ngữ cho học sinh để các em thường xuyên được sử dụng các từ ngữ
mang tính chuẩn mực.
Trong giờ tập làm văn dù vẫn có những học sinh có những ý kiến thú vị
nhưng kết quả quan sát của nhiều em vẫn không đầy đủ và toàn diện,
thậm chí thiếu chính xác. Vì vậy giáo viên phải nói nhiều, phải điều chỉnh
nhiều, bổ xung nhiều ý mới vào bài chuẩn bị của các em và cần tạo ra
không khí hào hứng để kích thích cho học sinh muốn nói và mạnh dạn nói
ra những điều mình nghĩ. Một giờ tập làm văn tốt là giờ học mà mọi học
sinh cùng nắm được nội dung nhưng mỗi học sinh đều tìm được cách nói
riêng của mình. Cho nên ngoài vốn từ ngữ phong phú, người giáo viên
cũng cần phải luyện cho học sinh khả năng quan sát các hiện tượng một
cách đúng hướng theo nội dung và khía cạnh định trình bày. Quan sát
càng cụ thể thì càng tiện lợi cho việc trình bày.
Một giờ tập làm văn thường được tiến hành theo các bước sau:
1. Chép đề chọn lọc.
2. Phân tích đề- Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề.
3. Lập dàn bài- Hoàn thiện dàn bài đã chuẩn bị trước của học sinh có thể
hướng dẫn cụ thể về cách tìm ý, triển khai phần trọng tâm, học sinh xem
lại dàn bài đã lập của mình để bổ xung chuẩn bị bài nói.
4. Hướng dẫn học sinh tập nói
Đây là nhiệm vụ chính của tiết học. Tuỳ theo trình độ của học sinh mà
giáo viên có thể yêu cầu các em nói từng ý, từng đoạn hay cả bài.
5.
Nhận xét, rút kinh nghiệm.
Để học sinh tự tin khi nói giáo viên phải tạo được bầu không khí học tập
thân mật cởi mở, giáo viên cần khéo léo khuyến khích, động viên cho các
em bộc lộ và phát huy khả năng, biết gợi ý đúng lúc khi các em lúng túng,
không ngắt lời của học sinh để nhận xét làm cho các em hoang mang
thiếu tự tin và hứng thú để nói tiếp.
Qua dự giờ một số tiết tập làm văn miệng của lớp 5 trong trường. Tôi
nhân thấy giáo viên đã thực hiện đúng mục đích yêu cầu của một giờ tập
làm văn, luôn khuyến khích học sinh nói lên suy nghĩ của mình. Khi học
sinh nói chưa gãy gọn, câu còn lủng củng giáo viên đã kịp thời uốn nắn
và sửa chữa làm cho câu văn thêm mạch lạc hơn. Khi một em nói các em
khác rất chăm chú lắng nghe để có thể nắm bắt được nội dung bài và có
thể đưa ra những nhận xét của mình về lời diễn đạt của bạn. Do đó không
khí lớp học rất sôi nổi, hào hứng, giờ học qua đó diễn ra nhẹ nhàng, thoải
mái và hiệu quả.
Tuy vậy, quy trình dạy như trên vẫn còn bộc lộ hạn chế là ít học sinh
được nói, được bộc lộ suy nghĩ của mình hoặc học sinh đã có tư duy
nhưng không có thời gian để có thể được trình bày những suy nghĩ của
mình thông qua lời nói. Do đó trong quá trình dạy học, tôi đã tổ chức hình
thức nhóm cho học sinh có thời gian và điều kiện để hoạt động dưới sự
hướng dẫn của giáo viên. Với hình thức này, học sinh sẽ được trao đổi
xung quanh nội dung bài dạy nhiều hơn.
+ Thực trạng việc chuẩn bị của giáo viên:
Bất kể một tiết dạy nào, trước khi lên lớp giáo viên cũng phải chuẩn bị
bài, tất cả sự chuẩn bị của giáo viên đều được kết tinh trong giáo án. Giáo
án chính là thiết kế bài dạy của giáo viên trong đó thể hiện rõ nội dung,
phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học.
+ Kỹ năng nói trong giao tiếp:
Qua tiếp xúc với học sinh lớp 5 ta đã nhận thấy rằng kỹ năng nói của học
sinh lớp 5, các em chưa biết dùng từ ngữ chính xác để diễn đạt ý của
mình, khi nói còn ấp úng, nói chưa thành câu, thiếu tự tin vào lời nói của
mình, đôi khi còn làm cho người nghe khó hiểu mặc dù ở giai đoạn này
hệ thống tín hiệu thứ hai đã phát triển hơn hệ thống tín hiệu thứ nhất.
+ Kỹ năng nói trong giờ tập làm văn.
Trong các giờ học, đặc biệt là giờ tập làm văn những thiếu sót của học
sinh khi diễn đạt thể hiện rất rõ nét. Kỹ năng nói của học sinh rất cần
thiết. Nó giúp các em tự tin hơn trong giáo tiếp hàng ngày và có nhu cầu
nói trong giờ học. Kỹ năng nói được hình thành và rèn luyện một cách từ
từ qua những giờ tâp làm văn. Nó giúp học sinh phát triển ngôn ngữ cũng
như phát triển tư duy. Nếu học sinh không nói được điều mình muốn nói
thì người khác không hiểu sẽ gây sự bực tức ảnh hưởng xấu đến tâm lí
của các em. Do đó trách nhiệm của giáo viên là phải giúp học sinh diễn
đạt được ý muốn nói của mình, đặc biệt là trong giờ tập làm văn. Qua dự
giờ của các lớp tôi nhận thấy rằng hầu hết giáo viên ở trường đã thực hiện
dạy theo phương pháp mới nghĩa là giáo viên chỉ dẫn dắt gợi mở để học
sinh bật ra ý mình muốn nói chứ không đọc cho học sinh nghe bài làm
mẫu theo phương pháp dạy học trước đây.
Do dự giờ trong thời gian này nên chỉ dự một số tiết tập làm văn thuộc
thể loại văn kể chuyện đây là một thể loại khá hấp dẫn với học sinh vì các
câu chuyện được đưa vào chương trình đều được học trong giờ kể chuyện
của những năm học trước nên việc kể lại không mấy khó khăn, giáo viên
đã biết phân loại từng học sinh để đề ra yêu cầu nói cho phù hợp, cho nên
thường đạt kết quả cao.
Nếu học sinh được nói bắt buộc các em phải chú ý nghe bạn nói, với học
sinh trung bình chỉ yêu cầu em nói một ý, với học sinh khá nói một đoạn
hay nói một phần tiến tới nói cả bài, đối với các em học sinh giỏi ở mỗi ý,
mỗi phần giáo viên thường cho 2-3 em học sinh tập nói, sau khi học sinh
nói giáo viên yêu cầu học sinh khác nhận xét kết quả trình bày của bạn về
ý xem bạn đã đúng, đủ và cụ thể hay chưa về lời, về cách dùng từ đặt câu,
diễn đạt có chính xác hay không, sau đó giáo viên tóm tắt những ý học
sinh đã nói, chỉ rõ ưu, khuyết điểm và đặc biệt nếu học sinh trình bày tốt
hoặc có nhiều cố gắng, giáo viên biểu dương và cho điểm, dẫn dắt hoặc
gợi ý tìm từ ngữ diễn tả mỗi khi học sinh lúng túng. Hướng dẫn học sinh
tập nói theo dàn bài giúp học sinh trình bày bài nói một cách tự nhiên,
thoải mái. Yêu cầu học sinh còn lại nghe bạn trình bày để nhận xét, rút
kinh nghiệm cho bản thân.
Như vậy mỗi tiết tập làm văn miệng có khoảng 83% số học sinh
được nói, nghĩa là trong tổng số 24 học sinh của lớp 5A có khoảng 20 học
sinh được nói trong giờ tập làm văn với cùng nội dung một câu chuyện
giống nhau, mặc dù số lượng học sinh được nói chưa nhiều nhưng như
vậy đã là sự cố gắng của giáo viên trực tiếp giảng dạy và qua đây chất
lượng nói của học sinh cũng được nâng cao một cách rõ rệt.
4. Hiệu quả mới, ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
a. Việc làm trước khi cho học sinh nói:
Phải hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung nói, vì vậy khi ra đề,
giáo viên phải móc nối mục đích của đề bài và đề bài này phải hấp dẫn
đối với các em, phải rộng rãi mở ra nhiều khả năng cho học sinh lựa chọn,
có như vậy mới hấp dẫn được các em, giúp các em hứng thú trong học
tập.
Phân tích để xác định trọng tâm vấn đề cần quan sát và tiếp thu,
hướng dẫn học sinh quan sát bằng nhiều giác quan để tái hiện chân thực
sự vật. Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt để tìm được những nét riêng, nét tiêu
biểu của sự vật và xác định rõ vị trí khởi diểm và trình tự quan sát, xác
định rõ trọng tâm mà đề bài yêu cầu để vạch ra hướng quan sát cho học
sinh. Khi đã có đầy đủ những chi tiết, những điều cần nói về đề tài giúp
cho các em lập dàn ý, sắp xếp các ý quan sát được cho hợp lo-gíc. Trong
tiết tập làm văn này giáo viên cần rèn cho học sinh tập nói theo các ý đã
sắp xếp và học sinh không thể nói nếu không chuẩn bị kỹ nội dung nói,
do đó việc giúp học sinh xây dựng nội dung nói là điều kiện đầu tiên để
giờ tập làm văn thành công.
Biết tạo nhu cầu nói cho học sinh để học sinh có nhu cầu nói thì đề
tài phải có vốn sống, vốn hiểu biết của các em đánh thức ở các em những
gì các em đang có. Trước mỗi giờ học giáo viên phải tạo bầu không khí
hào hứng, cách nêu vấn đề phải hấp dẫn để lôi cuốn học sinh vào học tập.
Biết tạo hoàn cảnh nói tốt, ngoài việc tránh sự tác động ở bên
ngoài, giáo viên còn phải biết thiết lập một quy tắc tế nhị trong hội thoại.
Khi học nói ngoài việc nghe, giáo viên cũng cần chú ý đến hoạt động
chung của cả lớp, chú ý đến tất cả những lời động viên, những ánh mắt
nhìn bạn bè với người nói. Đặc biệt giáo viên phải vui vẻ, tuyệt đối không
có những lời nói, những cử chí gay gắt đối với học sinh kể cả khi không
vừa ý.
b. Việc làm trong khi học sinh nói:
Nó khác với đọc ở chỗ khi nói phải có người nghe, phải luôn luôn
quan sát người nghe để thuyết phục họ, diễn đạt đúng, đủ, tự nhiên, chân
thành để gợi cảm xúc trực tiếp của người nghe.
Trong khi học sinh nói, giáo viên tổ chức cho các học sinh khác
lắng nghe và hạn chế những yếu tố gây nhiễu trong quá trình học sinh nói.
Đồng thời giáo viên cũng cần chú ý nghe học sinh nói, biết tiếp sức cho
học sinh đúng lúc, các em gặp khó khăn trong việc chọn từ để diễn đạt,
phải giúp đỡ kịp thời nếu học sinh nói lan man, ý rời rạc không thể hiện
rõ nội dung, giáo viên có thể khéo léo ngắt lời học sinh để các em điều
chỉnh bằng cách đặt câu hỏi.
c. Việc làm sau khi học sinh nói:
- Mở rộng thêm ý văn bổ sung về cảm xúc cho các em. Nếu học
sinh chưa sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên phải gợi mở để
bổ sung ý văn và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em.
Ví dụ: Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của bà em” một học
sinh nói: “Bà em có đôi mắt ánh lên vẻ hiền từ và những nếp nhăn đã hằn
sâu khuôn mặt phúc hậu của bà, tóc bà bạc trắng”.
Để mở rộng thêm ý văn, cô giáo có thể hỏi: Đứng nhìn ngắm bà gợi
cho em cảm xúc gì? (Lòng xót thương bà vì bà đã vất vả nắng sương nên
tóc bà bạc trắng, mắt mờ, lưng còng, em sẽ kính trọng và yêu thương bà
để bà lúc nào cũng được vui).
- Giúp học sinh thấy là mình nói như vậy đã đạt yêu cầu chưa qua
sự nhận xét của bạn từ hai góc độ: kỹ năng nói và nội dung nói.
- Kích thích động viên bằng cách đánh giá cho điểm.
Giáo viên nhận xét, rút kinh nghiệm giờ học.
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, chất lượng của học
sinh thông qua các giờ tập làm văn được nâng lên rõ rệt so với khi chưa
áp dụng sáng kiến. Vì vậy hiệu quả của sáng kiến được nâng lên rõ rệt, kỹ
năng trình bày vấn đề bằng lời nói được nâng lên, trình độ diễn đạt của
học sinh được phát triển, khắc phục được tình trạng trình bày vấn đề lúng
túng của học sinh. Kết quả cụ thể như sau:Qua số liệu khảo sát việc học
- Xem thêm -