Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn cái đẹp t rong văn thạch lam và nguyễn tuân dưới góc nhìn so sánh (ngữ vă...

Tài liệu Skkn cái đẹp t rong văn thạch lam và nguyễn tuân dưới góc nhìn so sánh (ngữ văn thpt).

.PDF
31
970
110

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HÀ TĨNH -----oOo----- S¸ng kiÕn kinh nghiÖm ®Ò TµI: Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân dưới góc nhìn so sánh LĨNH VỰC: NGỮ VĂN THPT TÁC GIẢ ĐỀ TÀI: NGUYỄN TRỌNG ĐỨC ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THPT CHUYÊN HÀ TĨNH HÀ TĨNH 2014 1 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn lớn, có phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo, và có nhiều đóng góp đặc trưng cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Hai nhà văn này mặc dù có phong cách sáng tác khác nhau, nhưng giữa họ cũng có những điểm tương đồng thú vị. Đặc biệt, họ đều được mệnh danh là nhà văn của cái đẹp. 1.2. Sau bao lần thay đổi chương trình, sách giáo khoa, tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân vẫn được chọn đưa vào nhà trường Việt Nam, từ bậc THCS đến đại học và sau đại học. Đặc biệt, ở chương trình Ngữ văn THPT mà chúng tôi đang thực hiện, hai tác giả này đều có tác phẩm được đưa vào giới hạn của mọi kỳ thi. 1.3. Nói đến văn chương là nói đến cái đẹp. Tìm đến cái đẹp là tìm đến cái đích của văn chương, tìm vào cái đẹp của Thạch Lam và Nguyễn Tuân (những người suốt đời đi tìm cái đẹp) lại càng trở nên hết sức cần thiết. 1.4. Từ thực tiễn giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi chúng tôi thấy tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân nói chung, cái đẹp trong văn của hai tác giả này nói riêng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhưng đây lại là vấn đề rất khó cho cả giáo viên và học sinh. 1.5. Khảo sát hệ thống các công trình nghiên cứu về Thạch Lam và Nguyễn Tuân chúng tôi thấy chưa có công trình nào chỉ ra đặc trưng về cái đẹp trong tác phẩm của hai nhà văn này trong mối quan hệ so sánh. Từ những lí do trên đây, kết hợp với nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân và niềm say mê hai tác giả nổi tiếng này, chúng tôi chọn đề tài Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân dưới góc nhìn so sánh để nghiên cứu. 2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.1. Mục đích nghiên cứu Chọn đề tài này để nghiên cứu chúng tôi hướng đến mục đích: đưa ra một tài liệu đáng tin cậy, có cơ sở khoa học để giúp giáo viên và học sinh ở trường THPT tham khảo khi giảng dạy và học tập tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Đề 2 tài này đi vào khám phá cái đẹp – một phương diện nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Thực hiện đề tài này sẽ góp phần giúp bản thân và đồng nghiệp cũng như các em học sinh khám phá tác phẩm của hai nhà văn này một cách đúng hướng. Từ đó nhìn nhận, đánh giá đúng giá trị và những đóng góp của các nhà văn này. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi đặt ra một số nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, phải chỉ ra và chứng minh, lí giải được cái đẹp trên hành trình sáng tạo của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Thứ hai, so sánh để tìm ra những điểm đặc trưng của hai nhà văn này ở phương diện cái đẹp. Thứ ba, đưa ra hướng khai thác một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam và Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn THPT. 2.3. Đối tượng nghiên cứu Về ngữ liệu, những khái quát trong đề tài xuất phát từ toàn bộ tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân, trong đó chúng tôi đặc biệt chú trọng vào ba tác phẩm trong chương trình Ngữ văn THPT (Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân). Về nội dung, cái đẹp biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, từ nội dung phản ánh đến hình thức nghệ thuật. Đề tài của chúng tôi dù ít nhiều có nói đến hình thức nghệ thuật, nhưng chúng tôi chủ yếu tập trung vào cái đẹp với tư cách là một phương diện thuộc về nội dung phản ánh trong tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. 3. THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Thời gian nghiên cứu Đề tài này được thực hiện trong năm học 2013 – 2014, nhưng đây là sản phẩm của sự nung nấu, tìm tòi, kết hợp với việc rút kinh nghiệm từ thực tiễn dạy học, bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp của bản thân và các đồng nghiệp từ nhiều năm nay. 3 3.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi kết hợp vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp - Phương pháp so sánh - Phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa 4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI Theo chủ quan chúng tôi, đề tài này rất có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Trước hết, đề tài đưa đến một hướng tiếp cận mới về cái đẹp trong văn phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân – tìm vào cái đẹp tức là tìm vào bản chất của văn chương, tìm vào hồn cốt của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Về mặt thực tiễn, đề tài này sẽ giúp ích cho giáo viên và học sinh trong việc khám phá, giảng dạy và học tập tác phẩm của hai nhà văn này nói chung và các tác phẩm của họ trong nhà trường nói riêng. Từ việc khám phá hai nhà văn này mà có thể vận dụng để khám phá những nhà văn khác. 5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, đề tài này được triển khai thành bốn phần như sau: - Phần 1. Cơ sở khoa học - Phần 2. Vài nét về cái đẹp - Phần 3. Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân. - Phần 4. Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân nhìn từ một số tác phẩm trong chương trình trung học phổ thông. 4 NỘI DUNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC 1.1. Cơ sở lí luận Cái đẹp là điều kiện tiên quyết của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Việc khám phá cái đẹp trong tác phẩm văn học vì thế sẽ trở nên cần thiết. Thạch Lam và Nguyễn Tuân lâu nay đã được giới nghiên cứu suy tôn là những Nhà văn của Cái đẹp. Vì vậy, tìm hiểu cái đẹp trong tác phẩm của hai nhà văn này dưới góc nhìn so sánh để tìm ra đặc trưng của mỗi nhà văn là hướng nghiên cứu tìm vào đúng bản chất của văn chương nói chung và bản sắc của hai nhà văn này nói riêng. 1.2. Cơ sở thực tiễn Tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân đã có mặt trong chương trình Ngữ văn phổ thông hàng chục năm nay, thế nhưng thực tiễn dạy – học tác phẩm của hai nhà văn này cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập. Qua thực tiễn dạy học của bản thân và các đồng nghiệp từ nhiều cơ sở giáo dục chúng tôi thấy rất nhiều thầy cô giáo chưa có cái nhìn khái quát về sự nghiệp văn học của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Sự hiểu biết về hai nhà văn này ở nhà trường chỉ mới đạt được chiều rộng mà chưa có bề sâu, chưa đi đúng vào bản sắc riêng, đóng góp riêng của mỗi nhà văn. Thạch Lam và Nguyễn Tuân là những nhà văn của cái đẹp, nhưng cái đẹp trong tác phẩm của họ có đặc điểm gì? Có giá trị thẩm mĩ ra sao? Cái đẹp của nhà văn này khác cái đẹp của nhà văn kia chỗ nào thì ít ai lí giải được. Khi áp dụng hướng khai thác được trình bày trong đề tài này vào thực tế giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy cho đối tượng học sinh giỏi, chúng tôi nhận thấy các em học sinh hết sức thích thú và say mê đón nhận. Kết quả cho thấy, ít nhất là các em không còn tâm lí “sợ độ khó” khi tiếp cận hai nhà văn độc đáo này. Hướng khai thác của đề tài này cũng đã được các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm ghi nhận và đề nghị triển khai rộng rãi hơn cho mọi đối tượng học sinh. 2. VÀI NÉT VỀ CÁI ĐẸP Trước hết, cái đẹp là phạm trù trung tâm của mĩ học. Trong lịch sử tư tưởng mĩ học, phạm trù cái đẹp xuất hiện từ rất sớm. Từ xa xưa, các nhà mĩ học duy tâm khách quan (tiêu biểu như Platon, Hegel) lí giải nguồn gốc của cái đẹp từ trong thế giới 5 ý niệm, xem cái đẹp là hồi quang của ý niệm siêu nhiên, thần thánh. Ngược lại, các nhà mĩ học duy tâm chủ quan lại tuyệt đối hóa cái đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc của cái đẹp trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc cá nhân. Nhà mĩ học Hume quả quyết rằng: “Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó” [10,53]. Còn nhà triết học học người Đức Kant thì cho rằng: “Cái đẹp không ở trên đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si tình” [3,83]. Đến thế kỷ XX, các nhà mĩ học dân chủ cách mạng Nga đã kéo cái đẹp trở về với mảnh đất trần thế, họ cho rằng ở đâu có cuộc sống là ở đó có cái đẹp. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của cái đẹp, nhà nghiên cứu Tsernushevski đưa ra định nghĩa: “Cái đẹp là cuộc sống” [12,24]. Kế thừa thành tự của mĩ học trước đó, mĩ học Marx – Lenin lí giải rằng: “Bản chất của cái đẹp là sự thống nhất biện chứng giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan” [2,76]. Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, các tác giả của cuốn sách Mĩ học đại cương đưa ra khái niệm: “Cái đẹp là một phạm trù thẩm mĩ dùng để chỉ một phẩm chất thẩm mĩ của sự vật khi nó phù hợp với quan niệm của con người về sự hoàn thiện và tính lí tưởng, có khả năng gợi lên ở con người một thái độ thẩm mĩ tích cực do sự tác động qua lại giữa đối tượng và chủ thể” [2,83]. Như vậy, nhìn vào lịch sử tư tưởng mĩ học chúng ta thấy rằng quan niệm cụ thể về cái đẹp có thể khác nhau, thậm chí là đối lập nhau giữa các trường phái mĩ học, nhưng cái đẹp luôn được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất, và là điểm tựa trung tâm để con người đánh giá đời sống về mặt thẩm mĩ; cái đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mĩ giữa con người với hiện thực. Trong tác phẩm nghệ thuật, cái đẹp là yếu tố giữ vai trò then chốt. Bàn về phương diện này, nhà nghiên cứu Bielinski từng khẳng định: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lí” [8,77]. Cũng cần phải nói thêm rằng, nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng đó lại là nơi tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc tìm kiếm, sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho xã hội. 6 Cái đẹp trong tác phẩm văn học được thể hiện hết sức phong phú, đa dạng. Có thể là cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người, cái đẹp của tư tưởng tình cảm, cái đẹp của hình thức nghệ thuật. Xét riêng về nội dung phản ánh, văn học không chỉ phản ánh cái đẹp một chiều. Trong tác phẩm văn học, nhà văn có thể miêu tả cả cái xấu, cái ác, nhưng ngay cả khi các nhà văn miêu tả cái ác cái xấu thì mục đích của họ cũng là hướng về cái đẹp. Miêu tả cái ác cái xấu vì thế trở thành một phương thức để tác động, cải tạo con người và xã hội. Đúng như nhà văn Thạch Lam từng viết: “... văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn” [4]. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là tìm kiếm, nâng đỡ và sáng tạo cái đẹp, thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho con người. Bởi vậy mỗi nhà văn là một vị sứ giả của cái đẹp. Hành trình sáng tác của họ là hành trình tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp, hướng con người và xã hội đến với cái đẹp. Nhưng mỗi nhà văn lại có một hướng đi riêng, một cách thể hiện riêng. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung bàn về cái đẹp với tư cách là một yếu tố thuộc về nội dung phản ánh trong quan niệm và thực tiễn sáng tác của hai cây bút tiêu biểu: Thạch lam và Nguyễn Tuân. 3. CÁI ĐẸP TRONG VĂN THẠCH LAM VÀ NGUYỄN TUÂN 3.1. Thạch Lam: người “ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể” 3.1.1. Từ quan niệm… Thạch Lam quan niệm nhà văn là người đi tìm cái đẹp. Trong tiểu luận Theo dòng ông viết: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp ở chính chổ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp cuả sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức (…). Với tôi sự đẹp có muôn hình vạn trạng, phong phú và đầy đủ, có những giá trị khác xưa” [6]. Vậy là, Thạch Lam thừa nhận cái đẹp tồn tại trong hiện thực khách quan, biểu hiện phong phú và đa dạng trong cuộc sống con người. Cái đẹp man mác, len lỏi, tiềm tàng, kín đáo và bị che lấp trong sự vật. Bởi vậy, không phải ai cũng có thể nhận thấy mà chỉ có những đôi mắt tinh tường, đủ sự nhạy cảm cần 7 thiết mới có thể nhận ra. Quan niệm của Thạch Lam gợi chúng tôi nhớ đến câu nói của Hoàng Đức Lương trong bài tựa Trích Diễm thi tập: “Đến như văn thơ thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được”[13]. Quan niệm trên đây của Thạch Lam cũng cho thấy thiên chức cao quý của nhà văn là phát hiện cái đẹp để “cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”, để “làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Cái đẹp trong quan niệm của Thạch lam không phải là một thứ trừu tượng, cái đẹp ấy dù kín đáo, dù bị khuất lấp trong cuộc sống, nhưng dưới ngòi bút của ông thì cái đẹp ấy là sự sống được cảm thấy, được “trông nhìn” và “thưởng thức”. 3.1.2. … đến thực tiễn sáng tác Quan niệm của Thạch Lam đã trở thành máu thịt trong tác phẩm của ông. Đến với truyện ngắn của Thạch Lam trước hết người đọc được đắm mình trong vẻ đẹp trinh nguyên, dịu dàng, gần gũi của thiên nhiên. Này đây “một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” (Hai đứa trẻ), và này đây “một cảm giác mát lạnh bỗng trùm lên hai vai. Tâm ngẩng đầu nhìn lên, chàng vừa đi vào dưới vòm lá tre xanh trong ngõ” (Trở về); “chàng thấy mát hẳn cả người, trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí (…). Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa (…), bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào” (Dưới bóng hoàng lan); “… mùa đông đột nhiên đến, không báo trước. Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời không u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trông chậu, lá rung động và hình như sắc lại vì rét” (Gió lạnh đầu mùa). Có thể nói, trong tác phẩm của Thạch Lam, thiên nhiên với đủ màu sắc, hương vị, âm thanh,… tất cả đều dịu nhẹ, hài hòa, trở thành “dưỡng chất trần gian” giúp con người tĩnh tâm hơn. Thiên nhiên với đặc điểm ấy một phần cũng góp phần thanh lọc tâm hồn, tình cảm con người. 8 Vẻ đẹp con người trong văn Thạch Lam là vẻ đẹp của tâm hồn, tính cách, văn hoá Việt Nam. Đó là vẻ đẹp đạt đến độ thuần khiết, tràn đầy hương thơm và ánh sáng của tâm hồn con người khi trở về với mảnh vườn quê thân thuộc, trở về tắm trong không khí nồng ấm thiết tha của tình quê hương (Dưới bóng Hoàng Lan); vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo, luôn hy sinh bản thân mình cho người khác (Mai trong truyện Đói, mẹ Lê trong Nhà Mẹ Lê, Tâm trong Cô Hàng xén, chị Sen trong Đứa con, Dung trong tiểu thuyết Ngày mới,...); vẻ đẹp của những mối tình đầu lãng mạn, trinh nguyên (Tình xưa, Dưới bóng Hoàng Lan, Ngày mới…); vẻ đẹp của sự sám hối để hoàn thiện bản thân (Một cơn giận); vẻ đẹp kín đáo, tế nhị và trẻ trung của người phụ nữ (Cuốn sách bỏ quên). Thạch Lam thường đặt nhân vật của mình vào hoàn cảnh oái ăm của xã hội rồi phát hiện, giữ lại cho con người những vẻ đẹp thuần phác để ngợi ca, để khẳng định. Thật cảm động khi Liên và Huệ (Tối ba mươi) là hai cô gái giang hồ sống trong vũng bùn dơ bẩn nhưng vẫn giữ được nhất điểm lương tâm, tối ba mươi họ vẫn bày bàn thờ cúng tổ tiên và mơ tưởng đến cuộc sống ấm cúng như mọi nhà. Trong truyện Sợi tóc, Thạch Lam đã giữ lại vẻ đẹp lương thiện cho nhân vật Thành trước sự quyến rũ của đồng tiền. Nhân vật Bà Cả (Đứa con) vốn ác nghiệt, nhưng khi đứng trước đứa con của cô Sen - người hầu hạ mình, bà cũng ao ước “giá đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa con”. Đó là vẻ đẹp lắng lại nơi đáy sâu tâm hồn của một người đàn bà cay nghiệt và độc đoán. Khai thác vẻ đẹp con người như vậy Thạch Lam hướng đến một mục đích là thanh lọc tâm hồn, tình cảm con người. Trong muôn vàn cái đẹp, Thạch Lam đặc biệt quan tâm khai thác vẻ đẹp tiềm ẩn trong thế giới nội tâm phong phú của con người. Đó là vẻ đẹp của tình thương yêu, sự cảm thông chia sẻ giữa người với người. Thật cảm động khi hai chị em Sơn và Lan (Gió lạnh đầu mùa) lấy trộm áo của nhà để cho bạn khi trời rét. Nhân vật Bình (Người bạn trẻ) thấy lòng thắt lại khi bạn bị ốm. Thanh (Một cơn giận) day dứt, đau khổ và hối hận vì hành vi của mình đã làm gia đình anh phu xe phải gian truân suốt đời. Những đứa trẻ (Tiếng chim kêu) thương cho những người lữ khách trên đường vắng giữa đêm khuya giá rét, ái ngại cho những nhà nghèo. Thạch Lam đặc biệt chú tâm khai thác vẻ đẹp của thế giới 9 tinh thần con người với đầy đủ những cung bậc tình cảm, những biến thái tinh vi, những cảm xúc cảm giác hết sức tế vi trong tâm hồn con người. Người đọc chắc hẳn sẽ day dứt với cảm giác “buồn man mác”, “mơ hồ không hiểu” của cô bé Liên trong truyện Hai đứa trẻ, hay “cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc xát vào da thịt” (Nhà mẹ Lê). Trong một bài viết tác giả Nguyễn Việt Thắng từng nhận xét rất chí lí rằng: “Thạch Lam có khả năng tái tạo những rung động tâm hồn con người nhiều khi chỉ khẽ như cánh bướm. Cái khả năng ấy chỉ có thể có ở một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cao độ” [1,175]. Có thể nói, nếu chữ “đẹp” là cái gốc, là điểm xuất phát trong quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam về con người và cuộc sống, thì đọc văn Thạch Lam người đọc được tắm mình trong vẻ đẹp ở muôn hình vạn trạng, ở những chỗ mà không ai ngờ tới: vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng (Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng Hoàng Lan…), vẻ đẹp của con người mang đậm phong vị Việt Nam (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén…), vẻ đẹp của cuộc sống vốn luôn sinh thành (Đứa con đầu lòng), vẻ đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc (Hà Nội băm sắu phố phường). Đặc biệt, văn Thạch Lam chinh phục lòng người bởi cái đẹp của đời sống tâm hồn và phẩm chất con người (Gió lạnh đầu mùa, Một cơn giận, Tiếng chim kêu, Sợi tóc, Ngày mới…). Quả đúng là trong văn Thạch Lam cái đẹp có muôn hình vạn trạng như ông từng quan niệm. 3.2. Nguyễn Tuân – “người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật” “Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật” (Nguyễn Đình Thi, Điếu văn truy điệu Nguyễn Tuân). Lời khẳng định của Nguyễn Đình Thi có thể được minh chứng bằng chính hành trình sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân “muốn mỗi ngày có được cái say sưa như là men rượu tối tân hôn”, và ông mải miết đi tìm cái đẹp để thỏa mãn nhu cầu ấy. Nhưng ở xã hội Việt Nam thời bấy giờ cái đẹp chân chính thật không dễ tìm chút nào, nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi thì “Trong cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp được với nhau”. Bất mãn với xã hội, không tìm thấy cái đẹp trong hiện tại, Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ một thời vang bóng. Tập truyện Vang bóng một thời là sự khởi đầu cho hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Qua tập truyện này Nguyễn Tuân đã làm sống lại 10 những phong tục tập quán của dân tộc, những thú chơi tao nhã – những “thanh âm trong trẻo” trong một xã hội hỗn loạn xô bồ mà Nguyễn Tuân gọi là xã hội “ối a ba phèng”. Chẳng hạn, ở truyện Những chiếc ấm đất, ông cụ Sáu mê uống trà tầu, mà nước pha trà phải là thứ nước lấy ở cái giếng tận trên chùa Đồi Mai. “Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quí nhãn tiền không bằng một ấm trà tầu”. Kể cả khi thất cơ lỡ vận, ông cụ Sáu vẫn “quen thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ”. Truyện Chén trà trong sương sớm lại còn miêu tả tỉ mỉ hơn cái thú uống trà của lớp người xưa cũ ấy. Đối với gia đình cụ Ấm, việc uống trà còn gắn liền với việc bình văn, ngâm thơ buổi sớm. Cụ có thói quen uống trà từ lúc “trời còn tối đất”. Cách uống trà của cụ Ấm trở thành một thứ lễ nghi. Chưa bao giờ ông cụ dám cẩu thả trong cái “thú chơi thanh đạm” này mà đã để vào đấy bao nhiêu công phu, bởi vì theo cụ “trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một triết lí”. Truyện Hương cuội khiến người đọc thích thú, thán phục bởi một kiểu tiêu khiển khác, vừa quen thuộc vừa độc đáo của cụ Kép: “Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc mặc áo lông trắng lom khom tỉa những lá úa vàng trong đám lá xanh”. Cụ “nguyện đem cả quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”. Lòng yêu hoa của cụ Kép thật đặc biệt, “mỗi lần có người động mạnh vào giò lan đen, cụ Kép lại suýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình”. Nguyễn Tuân còn đặc biệt thích thú trước tục thả thơ, đánh thơ. Trong Vang bóng một thời, hai truyện ngắn Thả thơ và Đánh thơ đã tạo cho người đọc những “khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt” bởi vì nhà văn “đã dạy cho ta nghệ thuật sống để tận hưởng ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống”. Vậy là, ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, để thỏa mãn nhu cầu săn tìm cái đẹp và phản kháng lại xã hội, Nguyễn Tuân đã tìm về với những phong tục văn hóa, những nét đẹp truyền thống của cha ông. Ông viết về thú 11 uống trà, về việc thả thơ, đánh thơ, chơi chữ,… với một giọng điệu say sưa và thái độ trân trọng, ngợi ca. Nguyễn Tuân say vẻ đẹp văn hóa cổ truyền như say men rượu tối tân hôn. Điều đó cho thấy sự tài hoa, uyên bác và tấm lòng yêu nước thiết tha, sâu sắc và kín đáo của nhà văn. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân bắt tay làm lành với xã hội. Lúc này ông không còn phải tìm về quá khứ với thái độ hoài cổ, tiếc nuối nữa, mà tìm cái đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Ông nhận thấy “phong cảnh tự nhiên của ta thật là lớn đẹp, con người mình cũng phải lớn đẹp theo lên với nó. Núi sông lúc nào cũng nhắc nhở ta,… mỗi ngày trưởng thành lại đem thêm cái đẹp hình học, cái đẹp kỹ thuật, cái đẹp nhân tạo và hiện đại vào giữa cái đẹp thiên tạo đủ cả núi dựng thành, sông uốn khúc” [9,189]. Nếu trước đây Nguyễn Tuân xê dịch, phiêu lưu tìm cái đẹp trong tâm trạng của một người “thiếu quê hương”, thèm khát được làm chủ giang sơn đất nước, thì sau Cách mạng ông cũng xê dịch, nhưng là xê dịch đến các chiến dịch, đến các công trường, bến cảng, đến những vùng miền xa xôi của thời kỳ đổi mới. Nếu trước đây văn Nguyễn Tuân có giọng điệu giễu nhại, thì nay chỉ thấy đặc một giọng điệu ngợi ca. Nào là “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”, nào là ông lái đò với tay lái ra hoa như một nghệ sĩ trên mặt trận lao động, nào là con sông Đà cuộn mình như mái tóc dài của người thiếu nữ đa tình,... Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân gắn liền với chất tài hoa tài tử. Dưới ngòi bút của ông, cảnh vật và con người bao giờ cũng hiện lên ở với đầy đủ những vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Đặc điểm ấy trở thành một nét lớn, thể hiện thống nhất và xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông. Điều đáng nói là ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thường chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu tả con người và cảnh vật. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp thường đi đôi, gắn bó với cái tài, với chất nghệ sĩ, điều này cũng thống nhất với nét tài hoa, nghệ sĩ trong con người ông. Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tỏ lòng mến mộ, yêu quý những con người tài hoa mà thất thế hay những lãng tử giang hồ. Ví dụ ở truyện Đánh thơ, Nguyễn Tuân gọi đôi vợ chồng lãng tử bằng một cái tên trìu mến "Một lứa đôi tài tử". Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh và chưa bao giờ "nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ nhất định nào". Ngay đến cả cái chết chất lãng tử cũng được Nguyễn Tuân 12 miêu tả hết sức đậm nét: "Đi qua Hoành Sơn quan thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la... Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết sát ngay bên đường thiên lý". Trong truyện Ngôi mả cũ nhân vật Hồ Viễn vốn là ông tướng oai phong lẫm liệt một thời, nay vì thất thế mà trở thành một ông thầy địa lý nhưng vẫn giữ được nét tài hoa. Con người này luôn mang một phong thái ung dung, nhàn nhã đầy chất nghệ sĩ: "Những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài "sường sám", đội mũ "sường chí" có những quả bông đỏ, cầm quạt,... trông nhàn nhã và văn vẻ lắm". Đáng chú ý hơn là cụ Hồ Viễn có tài viết chữ rất đẹp: "Chữ thầy viết có gân cứng cỏi như lá thiếp,... nét sổ rất khỏe và rất thẳng". Trong Một cảnh thu muộn, ông Cử Hai là "người có hoa tay" lại "thêm được chút tâm hồn lãng tử" nên "sống cuộc đời cũng như người ta chơi bời mà thôi”. Ông không chú tâm việc gì mà chỉ thích đi hội Đạp Thanh để làm thơ tức cảnh, lên núi hái lá thuốc, ngắm trăng trên đỉnh Sài Sơn. Đặc biệt, nói đến chất tài hoa tải tử, không thể không nhắc đến Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Con người tài hoa ấy có tài "viết chữ rất nhanh và đẹp" nổi tiếng cả vùng tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản ngục đã từng ao ước "có được chữ của ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Con người ấy quả đúng là “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Hãy nghe lời ông nói với viên quản ngục ta sẽ thấy rõ điều này: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi". Sang giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, chất tài hoa tài tử vẫn là một đặc điểm lớn trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Trong tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò với tay lái ra hoa, vượt qua mọi cửa tử cửa sinh của dòng sông Đà hung bạo để trở thành người nghệ sĩ trên mặt trận lao động. Dòng sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân cũng thật lạ, đó là một nhân vật với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình. Đặc biệt, ông miêu tả: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Nhìn lại cuộc đời Nguyễn Tuân chúng ta có thể khẳng định: chất tài hoa tài tử trong các nhân vật của Nguyễn Tuân chính là chất người của ông tỏa vào trong nhân vật, trở thành một điểm phong cách nghệ thuật thể hiện xuyên suốt sự nghiệp sáng tác 13 của Nguyễn Tuân. Cảm ơn đời đã sinh ra Nguyễn Tuân – một phong cách sống và một phong cách văn độc đáo, góp phần thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của người đọc, góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà. Nguyễn Tuân là môn đồ của thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật, cái đẹp trong tác phẩm của ông vì thế mang đậm tính duy mĩ. Ông đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời, đề cao cái đẹp một cách thuần túy, không vụ lợi. Cái đẹp, văn chương cũng như nghệ thuật, theo ông, không có nội dung xã hội, giai cấp và thời đại. Chính thái độ nâng niu, trân trọng cái đẹp và với cách nhìn nghiêng về nghệ thuật của ông đã tạo nên một Nguyễn Tuân “vị nghệ thuật” trong văn chương. Ông từng phát biểu: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật”. Ở chỗ khác ông khẳng định: “Mĩ thuật vốn không là bà con với luân lí của thời đại” [9,92]. Quan niệm ấy thể hiện rõ nhất trong thực tiễn sáng tác của ông trước cách mạng: một thằng ăn cắp trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh (Chuyến xe tình), một ngón tài bẻ khóa vượt ngục cũng góp phần làm cho Huấn Cao nổi danh trong thiên hạ (Chữ người tử tù), một tên đao phủ “có tài chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy” (Chém treo ngành), tài ném lưỡi mai chết người được miêu tả như một thứ nghệ thuật (Ném bút chì), hay tiếng đàn oan nghiệt ma quái cũng được nhà văn hết lời ca ngợi: “Người ta vừa đàn vừa khóc và người ta đàn đến mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí” (Chùa đàn). Có thể nói rằng, với Nguyễn Tuân, đã tài thì đều đáng khâm phục, không nhất thiết phải xem cái tài đó có lợi hay không. 3.3. Đặc trưng Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân Thạch Lam và Nguyễn Tuân đều là nhà văn của cái đẹp, ở họ có những điểm tương đồng, và cũng có không ít điểm đặc trưng, khác biệt. Nhìn từ quan niệm về cái đẹp cho đến thực tiễn sáng tác của hai nhà văn ta sẽ thấy rõ điều này. Trước hết, Thạch Lam và Nguyễn Tuân đều có ý thức chắt chiu và bảo tồn cái đẹp có giá trị văn hóa của dân tộc. Nhưng nếu Thạch Lam tìm về những thuần phong mĩ tục như là nền tảng đạo lí Việt Nam mà nhà văn nhận thấy ở ngay chính những con người bình thường nhất, thì Nguyễn Tuân lại tìm về quá khứ để nâng 14 niu, ca ngợi những thú chơi tao nhã của người xưa. Nguyễn Tuân nuối tiếc một thời vang bóng bằng cách làm sống lại những vẻ đẹp cao quý như thưởng trà, chơi chữ, chơi hoa… Còn Thạch lam đứng ở vị trí của một người đã trưởng thành để nhìn về dĩ vãng bằng cái nhìn thâm trầm, lặng lẽ. Quá khứ trong văn Thạch Lam không có những thú chơi tao nhã của những bậc tao nhân mặc khách, nhưng lại có những khoảng trời trong trẻo, có mảnh vườn đầy hương thơm ngọt ngào, có mối tình đầu trinh bạch, có những kỷ niệm tuổi thơ… Quá khứ vang bóng một thời đang dần mai một, và Nguyễn Tuân luôn có ý thức để làm sống lại quá khứ ấy trong sự tương phản với hiện tại đầy xấu xa đen tối. Với Thạch lam, cái đẹp trong quá khứ đã trôi qua theo năm tháng và một đi không trở lại; nhà văn cố gắng níu giữ cái đẹp ấy ở lại trong tâm hồn và nhân cách của con người ở thời khắc hiện tại. Thứ hai, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh vật cũng như con người luôn được khám phá dưới phương diện cái đẹp. Nhân vật trong tác phẩm của ông thuần một loại tài hoa tài tử, dù là nam hay nữ, già hay trẻ, dù làm nghề nghiệp gì đều mang vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Nói cho cùng, tất cả cũng chỉ là những hóa thân khác nhau của chính nhà văn - “con người sinh ra để mà thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Nguyễn Tuân thường xuyên sử dụng thủ pháp lí tưởng hóa để biến nhân vật của ông thành những con người mang vẻ đẹp toàn bích. Tiêu biểu như các nhân vật Huấn Cao, người lái đò… Ngược lại, Thạch Lam quan niệm: “Chỉ có thánh nhân mới hoàn toàn. Người bao giờ cũng có cái dở, cái khuyết điểm, bên cạnh cái hay, trong con người ta cái cái xấu và cái tốt lẫn lộn, (…) một người rất tốt cũng có những lúc giận giữ, tàn ác. Nhưng một người rất ác cũng có lúc hiền hậu, nhân từ. Người ta là người với những sự cao quý và hèn hạ của con người” (Theo dòng). Chẳng hạn, ở truyện Đói, nhân vật Sinh do thất nghiệp, vợ chồng Sinh sống cùng quẫn không có lối thoát. Sau khi đã bán hết đồ đạc trong nhà, họ phải đối diện với một thực tế phũ phàng, cay đắng, đó là cái đói. Mai là vợ Sinh phải bán mình lấy tiền mua thức ăn cho chồng. Sinh đau khổ, tủi nhục, nhưng sau cái cảm giác đau đớn, chán nản, nhục nhã đó là sự dày vò của cái đói. Sinh đã đầu hàng một cách thảm hại, anh vụng trộm ăn những thức ăn do đồng tiền bán mình của vợ mà có. Vậy là Sinh đã đặt sự tồn tại lên 15 trên nhân cách. Đó là dấu hiệu dự báo về quá trình tha hoá, biến đổi nhân cách con người do tác động của hoàn cảnh. Nhân vật Thanh trong truyện Một cơn giận đã lạnh lùng hành động trong giận dữ để đẩy gia đình anh phu xe vào cảnh khốn cùng, sau đó chính Thanh lại day dứt, sám hối vì tội lỗi của mình. Thành trong truyện Sợi tóc là người lương thiện, có bản lĩnh để vượt qua sự cám dỗ của đồng tiền, nhưng chính anh đã từng có ý định lấy cắp hai tờ giấy bạc của bạn. Thứ ba, trong văn Nguyễn Tuân, cái đẹp gắn với chất tài hoa tài tử. Với ông, cái đẹp luôn gắn liền với cái tài, cái thiên lương trong sáng; nói cách khác, cái tài và cái tâm cũng là một phương diện của cái đẹp. Nguyễn Tuân thường vận dụng một cách tổng hợp cách khảo sát của nhiều nghành văn hóa nghệ thuật khác nhau để đào sâu cho đến “sơn cùng thủy tận”. Chẳng hạn như trong Người lái đò sông Đà, ông lái đò với vẻ đẹp phi thường, nắm giữ mọi bí mật của dòng sông Đà, hiên ngang vượt qua mọi cửa tử cửa sinh đầy nguy hiểm. Hay như Huấn Cao, ngoài tài viết chữ đẹp còn có tài bẻ khóa vượt ngục… Ngược lại, Thạch Lam không chú tâm khai thác cái tài của con người mà quan tâm nhiều đến việc cảm và tả những vẻ đẹp trong đời sống nội tâm con người, đó là tình thương yêu, sự cảm thông chia sẻ, lòng nhân ái,… Thứ tư, cái đẹp trong văn Thạch Lam là cái đẹp của sự mộc mạc, giản dị, tiềm tàng, phảng phất xung quanh cuộc sống của con người. Còn Nguyễn Tuân lại ưa tìm cái đẹp biệt lệ, phi thường, mãnh liệt. Thứ năm, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp mang tính duy mĩ, còn cái đẹp trong tác phẩm của Thạch Lam có sự hài hòa, vừa đảm bảo tính chất thẩm mĩ, vừa mang nhiều ý nghĩa nhân sinh; đó không phải là cái đẹp theo thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cuối cùng, cái đẹp trong văn Thạch lam là cái đẹp của truyền thống phương Đông, truyền thống đạo lí dân tộc, thường gắn với nỗi buồn man mác, dịu nhẹ. Còn cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân vừa cổ kính lại vừa hiện đại. Như vậy, cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân có rất nhiều điểm riêng biệt, độc đáo, đặc trưng. Sở dĩ có những điểm đặc trưng ấy trước hết là bởi sự khác nhau trong tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn. Tiếp đến 16 phải kể đến tài năng, sở trường và cá tính sáng tạo của mỗi người. Sự khác biệt giữa hai nhà văn trên hành trình kiếm tìm cái đẹp còn được tạo ra bởi sự chi phối của truyền thống văn hóa, văn học dân tộc và nhân loại. Dù mỗi nhà văn đều có những điểm đặc trưng riêng, nhưng họ lại gặp gỡ nhau ở một điểm hết sức cơ bản: đó là lòng yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam. 4. CÁI ĐẸP TRONG VĂN THẠCH LAM VÀ NGUYỄN TUÂN NHÌN TỪ MỘT SỐ TÁC PHẨM TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Như chúng tôi đã giới hạn trên đây, cái đẹp biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng trong tác phẩm văn học. Ở đây chúng tôi chỉ bàn về cái đẹp với tư cách là một yếu tố thuộc về nội dung phản ánh, còn về nghệ thuật, về sự thống nhất giữa nội dung và hình thức thể hiện chúng tôi xin được bàn kĩ ở một công trình nghiên cứu khác. Với Thạch lam và Nguyễn Tuân, tác phẩm của họ đã có mặt trong chương trình phổ thông hàng chục năm nay. Trong đó, ở chương trình THPT, Thạch lam có truyện ngắn Hai đứa trẻ, còn Nguyễn Tuân có truyện ngắn Chữ người tử tù và tùy bút Người lái đò sông Đà. Xung quanh các tác phẩm này đã có rất nhiều công trình, bài viết bàn luận đủ mọi phương diện. Bởi vậy, tác giả công trình này xin phép không trình bày theo hướng cảm thụ hay phê bình chung về tác phẩm, mà chỉ xin được đưa ra một số điểm đáng lưu ý khi khai thác các tác phẩm này, đó là nhìn tác phẩm dưới phương diện cái đẹp. 4.1. Thạch Lam với “Hai đứa trẻ” Cái đẹp trong Hai đứa trẻ biểu hiện trên những phương diện nào? Giá trị thẩm mĩ được thể hiện qua cái đẹp ấy? Trước hết, truyện ngắn Hai đứa trẻ hấp dẫn người đọc bởi cái đẹp của khung cảnh phố huyện. Khi chiều buông, “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. “Một chiều êm ả như ru” thấm đượm nỗi buồn dịu nhẹ, có màu sắc của mặt trời trong cảnh ngày tàn, có âm thanh của ếch nhái kêu ran, có gió nhẹ thoang thoảng từ ngoài đồng thổi vào, có cả mùi riêng của đất. 17 Cảnh sắc thiên nhiên dịu nhẹ, mang nỗi buồn man mác thấm vào lòng người nơi phố huyện nghèo. Nổi bật lên giữa khung cảnh ấy là hình bóng mờ nhạt của những mảnh đời bé nhỏ, những kiếp sống nghèo đói, leo lắt: mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi lại nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được mà những người bán hàng bỏ lại trên sau buổi chợ tàn. Chị Tí ban ngày mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước bên gốc cây bàng. Cái “cửa hàng nước” ấy chỉ có hai cái ghế và cái chõng, vài thứ điếu đóm mà tối tối hai mẹ con cứ mang đi mang về nhưng cũng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bà cụ Thi hơi điên với tiếng cười khanh khách và dáng đi lảo đảo lần bước lần vào đêm tối. Cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người nơi phố huyện buổi ngày tàn dường như có sự tương hợp với nhau, gợi nỗi buồn man mác trong lòng người đọc về cuộc sống nghèo nàn, buồn tẻ nơi phố huyện. Khi trời đã bắt đầu đêm, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, các nhà đều cửa đóng then cài. Bóng tối ngập tràn cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. Bóng tối dày đặc, thành hình thành khối, ngập tràn khắp cảnh vật, thâm nhập vào cả lòng người. Trong đêm tối thăm thẳm ấy, chỉ có một vài khe sáng còn hé ra từ những cửa hàng nước bé nhỏ, vệt sáng của những con đom đóm, quầng sáng lay lắt nơi ngọn đèn trên chõng hàng chị Tí, chấm lửa lơ lửng lúc ẩn lúc hiện từ gánh phở của bác Siêu, và từng hột sáng lọt qua phên nứa trong cửa hàng của chị em Liên. Đặt hai nguồn sáng tối bên nhau, bóng tối lại càng tối hơn. Bóng tối được đặc tả như một sức mạnh khủng khiếp đè nặng lên những kiếp người mòn mỏi. Ánh sáng dù bé nhỏ, leo lắt, không đủ xua tan bầu trời tăm tối và cuộc sống nghèo khổ, leo lắt nơi phố huyện nghèo, thì cũng phần nào thể hiện tâm hồn của những con người nơi đây: dù nghèo khổ thế ấy, nhưng tâm hồn họ vẫn ấm áp tình người. Trong tối tăm chừng ấy người nơi phố huyện vẫn cùng nhau hướng về ánh sáng, hướng về một cuộc sống tươi đẹp, dù đó chỉ là mơ ước bé nhỏ, mong manh. 18 Trong không gian ấy, Bác phở Siêu gánh hàng đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác lơ lửng trong đêm tối. Chị Tí vẫn ngồi bên ngọn đèn leo lét để chờ một vài người khách quen thuộc. Vợ chồng bác Xẩm góp vui bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng. Chị em Liên buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn phải gượng thức khuya. Những kiếp sống nghèo khổ, leo lắt ấy như làm nặng thêm không khí tĩnh mịch của phố huyện lúc về đêm. Khi đêm đã về khuya, cảnh vật và sự sống của phố huyện chìm hẳn trong thẳm sâu đêm tối. Âm vang tiếng trống cầm canh dường như cũng bị cô đặc lại bởi bóng tối, “tiếng ngắn khô khan, không vang động xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”. Trong cảnh đêm khuya vắng lặng, buồn tẻ, chừng ấy con người nơi phố huyện vẫn gắng đợi đoàn tàu, và đoàn tàu đã đến – một chuyến tàu “không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn” nhưng cũng đủ xua tan cái màn đêm tĩnh lặng đang bủa vây không gian và lòng người nơi phố huyện nghèo. Thiên nhiên hiu hắt, cuộc sống con người nghèo khổ, buồn tẻ được Thạch Lam cảm và tả với đủ màu sắc, âm thanh, hương vị đã tạo nên một không gian đặc trưng trong truyện ngắn Hai đứa trẻ - một kiểu không gian nửa mùi thôn ổ nửa đã thị thành, một kiểu không gian ngập đầy bóng tối. Không gian ấy góp phần chuyển tải cái nhìn của Thạch Lam về hiện thục đời sống con người và xã hội thời bấy giờ. Trong khi Vũ Trọng Phụng thẳng thừng bảo rằng đó là một “xã hội chó đểu”, Nam Cao không phát ngôn trực tiếp mà cô đặc xã hội trong bức tranh làng Vũ Đại đầy những cảnh trái ngang phi lí, còn Nguyễn Tuân gọi đó là xã hội “ối a ba phèng” , thì Thạch Lam phản ánh xã hội một cách nhẹ nhàng, kín đáo – phản ánh qua cái không gian nửa thành thị nửa nông thôn nghèo nàn, buồn tẻ. Vậy là, cái đẹp của không gian phố huyện không chỉ ở cảnh và người, mà còn ở giá trị thẩm mĩ mà nhà văn gửi gắp trong không gian ấy. Qua bức tranh phố huyện – một bức tranh đẹp và man mác buồn như chính cuộc sống con người nơi đây, Thạch Lam vừa phản ánh được hiện thực đời sống tối tăm, bế tắc, vừa thể hiện được nỗi niềm thương cảm sâu xa của mình đối với những kiếp sống mòn mỏi, và thái độ nâng niu, trân trọng đối với những tâm hồn trẻ thơ. Đồng thời, cũng qua đó tác giả đã gửi đến người đọc một thông điệp: hãy mở rộng tấm lòng thương yêu, trân trọng, và nâng niu 19 đối với những mảnh đời tối tăm, bé nhỏ, đặc biệt là những tâm hồn trẻ thơ, đừng để ước mơ của chúng bị vùi lấp vào đêm tối. Hai đứa trẻ đặc biệt hấp dẫn người đọc bởi cái đẹp của lòng người và tình đời. Thạch Lam đã rất tinh tế khi khai thác những cảm xúc, cảm xác hết sức tế vi trong thế giới tâm hồn con người, đặc biệt là tâm hồn nhạy cảm của nhân vật Liên. Không gian buồn và cuộc sống nghèo khổ của phố huyện trong buổi chiều tà dường như đã thấm thía vào tâm hồn Liên; “chị” man mác buồn, động lòng thương lũ trẻ nhà nghèo, đứng sững dõi mắt nhìn theo dáng hình dật dờ của bà cụ Thi... Có lẽ cuộc sống nghèo khổ đã khiến cô bé Liên nhạy cảm, dễ rung động một cách đáng thương như thế, và đó cũng chính là nét đẹp của tâm hồn mà Thạch lam hết sức nâng niu, trân trọng. Khi bóng đêm đã đè nặng lên phố huyện, nỗi lòng man mác, mơ hồ của Liên càng đậm đà hơn. Lúc này, “đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”, “chị ngồi yên không động đậy”, tâm hồn chị “yên tỉnh hẳn” và vẫn cứ “mơ hồ không hiểu”. Liên không hiểu vì sao cuộc sống nơi đây lại tối tăm đến vậy, vì Liên mới chỉ là một cô bé mà đã phải quẩn quanh bên cái cửa hàng nhỏ xíu để kiếm kế sinh nhai, làm sao có thể hiểu được vì sao cuộc sống con người và xã hội lại tối tăm và bế tắc như thế. Thạch Lam không trực tiếp phản ánh hiện thực, mà từ tâm trạng của những mảnh đời bé nhỏ này để soi rọi, làm hiện lên bức tranh hiện thực đời sống. Đó là một lối đi độc đáo trong con đường nghệ thuật của nhà văn. Khi đêm đến, không gian có bóng tối ngập tràn, có ánh sáng le lói. Lòng Liên cũng vậy. Bên cạnh nỗi buồn, tâm hồn Liên còn có những ước mơ tươi đẹp. Trong đêm tối, hai chị em Liên “ngước mắt nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông thần nông”. Cái nhìn lên của chị em Liên thật hồn nhiên và cũng thật đáng thương. Tác giả đã nâng niu, trân trọng những ước mơ ấy, dù biết rằng ước mơ của hai đứa trẻ thật xa vời, chỉ có trong cổ tích mà thôi. Trước mắt hai đứa trẻ vẫn ngập đầy bóng tối. Cũng trong cảnh phố huyện tối tăm ảm đạm, Liên nhớ lại kỷ niệm về Hà Nội, nơi gắn với những thứ quà ngon, được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan