Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường thpt...

Tài liệu Skkn cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường thpt

.DOC
29
182
95

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "CÁCH THỨC DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ Ở TRƯỜNG THPT" 1 A. ĐẶT VẤN ĐÊ 1. Lí do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, tác phẩm tự sự chiếm một số lượng lớn trong chương trình Ngư văn ở trường phổ thông. Việc khai thác, tìm hiểu, khám phá và hiểu tác phẩm tự sự một cách có hiệu quả cao vẫn đang là một thử thách lớn với giáo viên và học sinh. Trong nhưng năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm. Nghị quyết TW2 khoá VIII và kết luận của hội nghị TW6 khoá IX nêu rõ : “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen nề nếp, tư duy sáng tạo của người học”. Từ yêu cầu đó, trong nhưng năm qua Bộ GD –ĐT đã từng bước có nhưng cải tiến tích cực như việc cải cách chương trình, thay sách giáo khoa, tổ chức các lớp bồi dưỡng đổi mới phương pháp giảng dạy cho giáo viên, đổi mới cách thức ra đề thi…Đặc biệt, gần đây nhất là tập huấn về cách thức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và cách ra đề theo ma trận. Nhờ đó, trong công tác giảng dạy, kiểm tra đánh giá nói riêng và giáo dục nói chung đã đạt được nhưng kết quả nhất định. Tuy nhiên, nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học trong phần lớn giáo viên còn chuyển biến chậm do thói quen vận dụng các phương pháp dạy học truyền thống, do ngại thay đổi, do chưa thực sự tâm huyết với nghề hoặc nên chưa có sự vận dụng, đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh đó, còn có sự chi phối của yếu tố khách quan là: ngành Giáo dục - Đào tạo chưa thực sự có nhiều lớp bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học thật căn bản, cụ thể cho giáo viên, cho nên nhiều giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, 2 lúng túng trong phương pháp giảng dạy. Vì thế, ở đề tài này người viết xin đề cập đến một vài kinh nghiệm về cách thức dạy học tác phẩm tự sự trong trường THPT. 2. Mục đích nghiên cứu: Tôi chọn đề tài này với mục đích có điều kiện nghiên cứu kĩ lưỡng,sâu sắc hơn về cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường THPT.Đồng thời mong muốn được trao đổi kinh nghiệm để trong quá trình dạy học phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh,tạo thêm hứng thú và niềm say mê,yêu thích các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngư văn ở trường THPT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài này tôi tập trung nghiên cứu cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường THPT.Và tôi đã chọn một số tác phẩm tiêu biểu đó là: Truyền thuyêt An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy. Tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao. Tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.Truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. 4. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở đọc, tìm hiểu các tài liệu tin cậy, thực dạy, kiểm tra đánh giá học sinh và dự giờ đồng nghiệp. 5. Cấu trúc của đề tài: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề Chương 3: Các biện pháp giải quyết vấn đề 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐÊ Để có được phương pháp giảng dạy học tốt tác phẩm tự sự ở trường THPT phổ thông ta cần làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận xoay quanh thể loại tự sự. 1.1. Khái quát chung về tự sự. Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong: “Từ điển thuật ngữ văn học" (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội-1997) thì tự sự được hiểu là: “Phương thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương diện khác là trữ tình và kịch, được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học”. Theo “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng-2007): “Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách thông qua cốt truyện, tương đối hoàn chỉnh”. Trong lý luận văn học thì: “Tác phẩm tự sự là loại tác phẩm phản ánh đời sống trong quá trình khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”. Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Tiến sĩ Huỳnh Như Phương: "Tự sự là kể chuyện, trình bày sự việc, sự vật một cách cụ thể, chi tiết, có đầu có đuôi, tự sự tập trung chủ yếu vào việc miêu tả thế giới bên ngoài". Từ nhưng cơ sở trên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về thể loại tự sự như sau: “Tự sự là thể loại văn học phản ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết ... có đầu có đuôi thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”. 4 1.2. Đặc điểm của tác phẩm tự sự 1.2.1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự kiện, hệ thống sự kiện Các nhà lí luận từ Aristot đến Lessing, Bêlinxki đều cho rằng tác phẩm tự sự đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristot cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật, không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn dường như đứng bên ngoài để kể lại. Tất cả nhưng sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một đối tượng khách quan ở bên ngoài mình. Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự kiện có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố, sự kiện này có thể là nhưng biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là nhưng biến cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ... nhưng nhưng biến cố, sự kiện này không được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra phân tích, nhận biết. Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm nhưng sự kiện bên ngoài và bên trong của con người nhưng đều xem chúng như là nhưng sự kiện khác nhau về đời sống con người, xã hội. 1.2.2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà sự kiện là sản phẩm của mối quan hệ giưa con người với con người, con người và môi trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều mối quanhệ. 5 Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhà văn có thể thể hiện nhưng vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong hiện tại, có thể lướt qua hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho là quan trọng. Nó có thể kể về một khoảnh khắc hoặc một sự kiện dài 10 năm hay 20 năm trong một không gian nhất định hoặc ở nhiều vùng đất khác nhau. Từ nhưng đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều mặt nhất; có thể được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong phú. Nhân vật thường có số phận, con đường đi và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm tự sự được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện tại và trong xu thế phát triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh động, nhiều màu sắc thẩm mĩ. Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết trong tác phẩm tự sự cũng phong phú và đa dạng, mang chất "văn xuôi". Ở đây, có thể bắt gặp nhưng chi tiết về chân dung, ngoại hình, tâm sinh lí, phong tục, tập quán, đồ vật, đời sống lao động sản xuất, tôn giáo, chính trị...bao gồm nhưng chi tiết có thực, tưởng tượng, hoang đường... hơn tất cả mọi loại tác phẩm khác. 1.2.3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật. Hình tượng người trần thuật có thể là tác giả nhưng không nên đồng nhất người trần thuật với tác giả. Người trần thuật có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức: khi thì tác giả ẩn mình sau nhưng nhân vật tưởng tượng, khi thì nhân danh chính bản thân mình mà kể chuyện với ngôi thứ nhất. Nhưng dù dưới hình thức nào, người trần thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích, nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa nhưng quan hệ phức tạp giưa nhân vật và nhân vật, giưa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giư một vai trò hết sức quan trọng và luôn 6 luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên hiểu nhân vật, hoàn cảnh...thế này hoặc thế khác. 1.2.4. Lời văn trong tác phẩm tự sự Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả. Nó có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người đọc đến đối tượng mà nó miêu tả. Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận của văn tự sự, do đó nó thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu. Ðiều này khác với tác phẩm kịch và tác phẩm trư tình. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN( THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐÊ) Việc phân tích tác phẩm tự sự đóng vai trò rất quan trọng trong nội dung chương trình của bộ môn văn học cấp phổ thông trung học. Nhưng tác phẩm tự sự được đem vào giảng dạy là nhưng kiệt tác văn chương thế giới và nhưng tác phẩm đặc sắc trong nền văn học nước nhà. Trong văn chương cái hay nó thường đi liền với cái sâu sắc thâm thúy, đa nghĩa. Vì vậy, việc cảm thụ một tác phẩm tự sự đặc sắc đối với học sinh là một vấn đề khá khó khăn. Muốn làm được điều này đòi hỏi học sinh phải có lòng yêu thích văn học, phải có tâm thế đọc tác phẩm, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Nhưng trên thực tế, qua quá trình giảng dạy môn văn ở nhà trường THPT tôi nhận thấy, học sinh ở trường THPT Bá Thước nói riêng và các trường THPT khác nói chung ngày càng ít say mê và yêu thích văn học mặc dù đó vẫn được coi là một môn học chính. Vì thế một bộ phận không nhỏ học sinh không chịu đọc tác phẩm ở nhà. Việc soạn bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp mang tính đối phó. Tuy không đọc tác phẩm nhưng các em cũng vẫn soạn được bài vì nhiều lí do: thứ nhất học sinh chép tài liệu tham khảo mà không đầu tư suy nghĩ. Các em mượn vở ghi giảng văn của học sinh các khóa trước trước hoặc cùng khóa nhưng đã học 7 trước hoặc các em chép vở soạn của nhau. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu bài học ở lớp của các em. Bên cạnh đó, việc giảng dạy tác phẩm tự sự ở giáo viên chưa thực sự có nhiều cải tiến, đổi mới, trong phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu giảng theo phương pháp truyền thống, chỉ tập trung nhiều vào việc khai thác nội dung tác phẩm theo phương pháp lịch sử mà chưa chú ý đến cấu trúc, hình thức tác phẩm. Vì thế đã gây ra sự nhàm chán cho học sinh, làm giảm sức thu hút của tác phẩm văn chương đối với học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học ở các giờ giảng văn thuộc thể loại tác phẩm tự sự diễn ra chậm là do nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, thường một truyện ngắn hay một đoạn trích tác phẩm tự sự được đưa vào dạy ở nhà trường phổ thông là tác phẩm đặc sắc, mà trong khi đó thời gian cho phép thông thường chỉ từ 1 đến 2 tiết cho nên giáo viên còn gặp nhưng khó khăn nhất định trong việc truyền tải kiến thức, học sinh cũng gặp khó khăn trong việc tiếp nhận đầy đủ, sâu sắc nội dung bài học vì thời gian eo hẹp. Thứ hai, giáo viên còn gặp nhiều lúng túng trong việc đổi mới phương pháp trong giờ giảng văn tác phẩm tự sự. Thứ ba, học sinh không đầu tư thời gian cho việc đọc tác phẩm trước ở nhà. Trước tình hình đó, bản thân tôi mạnh dạn nêu lên một số giải pháp, một số kinh nghiệm mà bản thân đã áp dụng trong thời gian qua để cùng với đồng nghiệp trao đổi với mong muốn mang lại hiệu quả hơn trong nhưng giờ giảng văn thuộc thể loại tác phẩm tự sự. CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ 3.1. Biện pháp giải quyết 8 Trước thực trạng trên, qua quá trình giảng dạy môn văn ở trường THPT Bá Thước ,bản thân tôi đã áp dụng một số biện pháp như sau: Bằng mọi cách buộc học sinh phải đọc trước tác phẩm hoặc đoạn trích, tóm tắt được nhưng nội dung cơ bản của tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà và soạn bài theo nhưng định hướng của giáo viên và phần hướng dẫn học bài. Cải tiến, đổi mới phương pháp trong việc giảng dạy nhưng tác phẩm tự sự, thu hút học sinh vào bài giảng. Đổi mới cách thức kiểm tra bao gồm cả kiểm tra vấn đáp; kiểm tra 15’ và bài viết Đổi mới cách đánh giá, phân loại năng lực cảm thụ tác phẩm tự sự của học sinh 3.2. Nội dung và phương pháp thực hiện 3.2.1. Khâu chuẩn bị bài ở nhà Giáo viên cần dành thời gian của tiết học trước (sau phần củng cố, luyện tập) để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới, đặt ra nhưng yêu cầu cụ thể và bắt buộc học sinh phải hoàn thành. Đặc biệt, bằng mọi cách phải cho học sinh đọc kĩ và tóm tắt được nội dung tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà. Giáo viên kiểm tra việc đọc và tóm tắt nội dung tác phẩm hoặc đoạn trích của học sinh trong quá trình học bài mới hoặc kiểm tra thường xuyên vào đầu tiết học. Việc làm này sẽ giúp học sinh có ý thức tự học và tự giác hoàn thành yêu cầu của giáo viên. Ngoài việc bắt buộc phải đọc tác phẩm, chuẩn bị bài theo một số câu hỏi trong sách giáo khoa, giáo viên cần đưa ra nhưng câu hỏi nhỏ hơn, cụ thể hơn. Tuỳ theo trình độ, năng lực, tư duy của học sinh ở từng lớp mà giáo viên có thể có nhưng loại câu hỏi thêm khác nhau với mục đích giúp học sinh phát hiện nhưng vấn đề trọng tâm, cốt lõi của tác phẩm hoặc đoạn trích. 9 3.2.2. Khâu giảng trên lớp 3.2.2.1. Phần kiểm tra bài cũ Ở phần này giáo viên nên kết hợp giưa việc kiểm tra kiến thức của bài học trước với kiểm tra việc đọc tác phẩm và chuẩn bị bài mới của học sinh. Vì thế, một học sinh được gọi lên kiểm tra bài cũ tôi thường cho hai câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất, nhằm kiểm tra nhưng kiến thức cơ bản, trọng tâm của tiết học trước. Câu hỏi thứ hai, nhằm kiểm tra việc đọc và hiểu tác phẩm của tiết học mới. Cần lưu ý, nhưng câu hỏi kiểm tra việc chuẩn bị bài mới chưa đòi hỏi tư duy nhiều, chủ yếu là nhằm kiểm tra xem thực chất học sinh có học bài cũ và đọc tác phẩm hay không. Bởi trên thực tế nhiều học sinh chỉ đọc sách tham khảo hay vở ghi của học sinh khác để soạn bài. 3.2.2.2. Phần bài mới * Giới thiệu tác giả Phần này học sinh đã đọc phần tiểu dẫn ở nhà trước khi soạn bài vì vậy ở phần này tôi thường nêu ra một số câu hỏi để học sinh trả lời, sau đó bổ sung và chốt lại vấn đề. Các câu hỏi tôi thường đặt ra cho học sinh đối với một tác giả là: Dựa vào tiểu dẫn và nhưng hiểu biết của em, hãy nêu nhưng nét chính về tiểu sử của tác giả? Nêu vài nét cơ bản về sự nghiệp sáng tác của tác giả? Hãy đánh giá khái quát về tác giả? * Hoàn cảnh sáng tác 10 Phần này chủ yếu là giáo viên thuyết giảng nhằm làm sống lại đôi nét lịch sử mà tác phẩm ra đời để học sinh nhận thức được mối quan hệ giưa tác phẩm và cuộc sống. Chẳng hạn, Khi giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao) chúng ta không thể không đề cập đến hai vấn đề: Dựa vào nhưng cảnh thật, việc thật, người thật mà Nam Cao chứng kiến và nghe kể về làng quê mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc, xót xa cho số phận nhưng người nông dân nghèo, căm tức giới địa chủ đè nén người dân nghèo mà Nam Cao viết thành truyện vào năm 1941. Bá Kiến thật ngoài đời không chết giống như trong tác phẩm, mà vẫn sống đến đầu cách mạng. Sau khi tác phẩm ra đời hắn rất căm tức nhưng không làm gì được. * Tóm tắt tác phẩm Ở phần này, giáo viên nên tận dụng tối đa nhưng dụng cụ trực quan hoặc trình chiếu tranh ảnh, sơ đồ (trong giờ dạy bằng giáo án điện tử) và kiểm tra mức độ tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích của học sinh ở nhà… nhằm giúp các em dễ nắm bắt nội dung và nhớ lâu cốt truyện hơn. Trong quá trình tóm tắt tác phẩm cần chú trọng đến nhưng nét chủ yếu về cuộc đời và số phận của nhân vật chính. Tái hiện cho học sinh nắm được nhưng dẫn chứng, chi tiết quan trọng. Đồng thời, qua các dụng cụ trực quan tôi thường gọi một học sinh lên tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích. Cho một vài học sinh bổ sung và cuối cùng giáo viên đúc kết lại nhưng nội dung trọng tâm. Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về mặt tư tưởng lẫn nghệ thuật của một tác phẩm tự sự, cần tóm tắt chính xác cốt truyện của nó. Cách tóm tắt cốt 11 truyện thể hiện mức độ thâm nhập tác phẩm, năng lực bao quát và khả năng diễn đạt cô đúc, gãy gọn của người tóm tắt. Điều quan trọng là phải hiểu được cốt truyện chính là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định của nhà văn. Nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách cũng như sự tác động qua lại giưa các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà văn tái hiện các xung đột xã hội, chứng tỏ năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại khách quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. Mỗi cốt truyện thường bao gồm các phần sau: Trình bày: Giới thiệu thời kì lịch sử, khung cảnh cụ thể của sự việc. Khai đoạn: Nêu tình huống, vấn đề nảy sinh để người đọc chú ý theo dõi. Phát triển: Diễn tả sự tiến triển của hành động, của tính cách, của mâu thuẫn, xung đột. Đỉnh điểm (hoặc cao trào): Hành động, tính cách, mâu thuẫn được phát triển đến độ cao nhất, căng thẳng nhất. Kết thúc (hoặc mở nút): Giải quyết, kết thúc một quá trình phát triển của mâu thuẫn. Đó là kể một cách đầy đủ, theo trình tự thông thường. Tuy nhiên, không phải bất cứ cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ các phần như vậy, trình tự các phần ấy cũng biến hóa sinh động như cuộc sống muôn màu và tùy theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Điều quan trọng học sinh phải chiếm lĩnh, cảm thụ, tái hiện được nhưng diễn biến trọng tâm, nhưng tình tiết liên quan đến tính cách và kết cục của nhân vật. Từ khái niệm xác định như trên, muốn tóm tắt được cốt truyện một tác phẩm tự sự, trước tiên cần đọc kĩ tác phẩm và trả lời được nhưng câu hỏi sau: Hoàn cảnh xã hội, thời kì lịch sử mà tác phẩm phản ánh, tái hiện là gì? 12 Chủ đề của tác phẩm ra sao? Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của số phận nhân vật ấy như thế nào? Các chi tiết, sự kiện quan trọng trong tác phẩm tác động tới cuộc đời nhân vật ra sao? Cách tổ chức cốt truyện của nhà văn bao giờ cũng gắn với sự thể hiện có hiệu quả chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Vì thế, hiểu chủ đề, ý đồ tư tưởng của nhà văn thì chúng ta mới định hướng đúng sự phát triển của cốt truyện cũng như nội dung cụ thể, trực tiếp của tác phẩm. Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vưng kiến thức cơ bản theo yêu cầu trên mới có thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Tóm tắt cốt truyện thông thường tóm tắt các bước phát triển của dòng cốt truyện, dựa vào nhưng sự kiện nổi bật, nhưng chặng đường diễn biến của tính cách, số phận các nhân vật chủ yếu. Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ tương tác giưa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, có vai trò chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể hiện nội dung, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến nhưng bước ngoặt trên đường đời nhân vật chính. Chẳng hạn, cốt truyện của truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay quanh trục hai nhân vật điển hình Chí Phèo – Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ giưa hai nhân vật này. Tóm tắt cốt truyện của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân phận của Chí từ một đứa bé bị bỏ rơi đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở tù, dựa vào nhưng lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được quá trình tha hóa tất yếu của Chí khi gặp phải kẻ thống trị xảo quyệt, gian ngoan như Bá Kiến, thấy được số phận bi thảm của kẻ trượt quá xa khỏi xã hội loài người. Mặt khác, khi tóm tắt truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến thời điểm Chí Phèo tình cờ gặp Thị Nở, được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc. 13 Người cố nông lương thiện với nhưng ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong con qủy dư Chí Phèo sống dậỵ, Chí được làm người… nhưng rồi, Thị Nở đột ngột cự tuyệt chung sống. Sự kiện này khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của mình, để từ đó đi đến hành động trả thù quyết liệt cuối tác phẩm. * Chủ đề tác phẩm Như chúng ta đều biết, chủ đề của tác phẩm tự sự chính là nội dung cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy, để tìm hiểu chủ đề của tác phẩm hay đoạn trích giáo viên cần nêu ra nhiều câu hỏi nhỏ mang tính chất gợi mở để học sinh trả lời. Chẳng hạn có thể nêu một số câu hỏi như: Tác phẩm (hoặc đoạn trích) kể về ai ? Về việc gì ? Thông qua câu chuyện đó tác giả nhằm đề cập đến vấn đề gì? Thái độ, tình cảm của tác giả đối với con người và cuộc sống ra sao? Sau đó, thông qua việc trả lời được nhưng câu hỏi trên, giáo viên gọi một đến hai học sinh khái quát thành chủ đề của tác phẩm (hoặc đoạn trích) và giáo viên nhận xét, bổ sung, chốt kiến thức. * Phân tích tác phẩm Ở phần này, giáo viên nên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp học sinh hiểu bản chất của tác phẩm (hoặc đoạn trích). Giáo viên gợi mở cho học sinh thấy được nhưng tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu, thảo luận sau đó giáo viên bổ sung, làm sáng tỏ và hệ thống vấn đề một cách hoàn chỉnh. Về cơ bản, trong phần phân tích, giáo viên cần phải làm rõ nhưng vấn đề trọng tâm sau: - Làm cho học sinh nắm vững được sự phát triển của tình tiết trong tác phẩm (hoặc đoạn trích) tức là học sinh nắm được cốt truyện. 14 Học một bài thơ trư tình phải nắm được diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật trư tình; học một bài văn nghị luận phải nắm được trình tự lập luận của tác giả; còn học một thiên truyện, trước hết phải nắm được diễn biến của câu chuyện. Trong rất nhiều trường hợp, do không nắm được quá trình diễn biến của tình tiết tác phẩm mà giáo viên không phân tích được tác phẩm, học sinh hiểu vấn đề chưa thấu đáo, thậm chí còn hiểu một cách sai lệch nội dung tác phẩm (hoặc đoạn trích). Chính vì vậy, điều quan trọng là phải nắm được tình tiết, biến cố, sự kiện của câu chuyện đó. Khi phân tích cần quan tâm nhiều đến tình huống của truyện. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện tính cách và số phận nhân vật. Tình huống truyện chính là trạng thái xã hội, là hoàn cảnh bất bình thường đang thử thách con người. Nó gồm nhưng diễn biến, sự kiện đòi hỏi con người trong đó cần phải xoay xở, cần phải bộc lộ một cách chính xác năng lực và bản thân của mình. Như vậy, tình huống gắn chặt cùng cốt truyện và tác động trực tiếp tới nhân vật, tạo dựng tình huống trở thành nhiệm vụ và hứng thú, trở thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn. Một số truyện trong Ngư văn lớp 10 có cốt truyện đơn giản. Do đó, cần hướng dẫn học sinh nhận ra được tình huống truyện và tập trung phân tích các tâm trạng, hành động của các nhân vật ở trong tình huống đó. Chẳng hạn: Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy, cốt truyện xoay quanh tình huống An Dương Vương xây thành, chế nỏ và do mất cảnh giác nên bị mất nước. Vì thế, khi phân tích giáo viên nên cho học sinh thấy được hai giai đoạn: giai đoạn đầu xây thành, chế nỏ, đánh thắng được Triệu Đà và giai đoạn hai là phân tích sâu tình huống cơ đồ đắm biển sâu, bài học về tinh thần mất cảnh giác của An Dương Vương. Tuy vậy, khi phân tích truyền thuyết này giáo viên cũng cần làm rõ hình tượng Mị Châu, vì nhân vật này quyết định tới kết cục cuối cùng của An Dương Vương. 15 Còn trong chương trình Ngư văn lớp 11, 12 cốt truyện phức tạp hơn, nhân vật có nhiều mối quan hệ hơn, nhiều mâu thuẫn xung đột hơn, nhiều cung bậc tình cảm hơn. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận ra được nội tâm của nhân vật, tính cách của nhân vật. Từ đó, giúp học sinh thấy được cần phải tư duy, cần phải liên tưởng, cần phải xâu chuỗi nhiều tình tiết để rút ra nhận xét cuối cùng về toàn bộ câu chuyện. Trước khi đi sâu vào phân tích chi tiết, một sự phân tích đại cương như vậy về các chi tiết của bài văn sẽ củng cố ấn tượng hoàn chỉnh đầu tiên của học sinh đối với hình tượng tự sự của tác phẩm. - Làm cho học sinh cảm thụ sâu sắc, đánh giá được đúng đắn nhân vật trong tác phẩm Trong tác phẩm tự sự, nhà văn thể hiện tư tưởng, tình cảm, phát biểu quan điểm thông qua nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm hoặc đoạn trích chứa đựng nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi ký thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Do đó, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Nhân vật trong tác phẩm tự sự rất đa dạng, phong phú. Dựa trên phương diện kết cấu và ý thức hệ có thể chia nhân vật ra thành các loại sau: Nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện...các nhân vật sẽ góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề và nội dung của tác phẩm. 16 Tuy nhiên, trong giờ học ở trường phổ thông chúng ta không có đủ thời gian để hướng dẫn học sinh phân tích hết các nhân vật được nên chúng ta phải lựa chọn các nhân vật để phân tích. Chẳng hạn, trong tác phẩm Chí Phèo có nhiều nhân vật như Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở, Bà cô Thị Nở, Lý Cường, Binh Chức, Năm Thọ, Đội Tảo…nhưng chỉ có nhân vật Chí Phèo, Bá Kiến thể hiện rõ tư tưởng của nhà văn, cho nên khi phân tích tác phẩm này cần chú ý khai thác kĩ hai nhân vật này, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hoặc trong tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài cũng xuất hiện nhiều nhân vật nhưng nhân vật Mị mới là hình tượng điển hình cần phân tích. Nội tâm nhân vật được thể hiện trong nhiều thời điểm, có thể trong quá khứ, hiện tại hoặc trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trong tác phẩm Đời thừa nhân vật Hộ bộc lộ nội tâm trong nhưng hoàn cảnh đời thường của cuộc sống mưu sinh, trong mối quan hệ với bạn văn chương, gia đình. Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ nội tâm của Mị được bộc lộ khá rõ qua hai thời điểm đó là trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cứu A Phủ. Như vậy, qua nhưng tác phẩm trên chúng ta sẽ tập trung khai thác nội tâm các nhân vật Chí Phèo, Hộ và Mị để tìm hiểu toàn diện về nhân vật. Khi phân tích nhân vật cần chú trọng nhưng khía cạnh sau: Một nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính cách, số phận riêng, một cách trung nhất, muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc điểm tính cách của nhân vật chúng ta cần căn cứ vào nhưng chi tiết có liên quan đến nhân vật trong tác phẩm để đó từ mà tìm hiểu suy luận, tìm ra đặc điểm, tính cách của nhân vật. Ở tác phẩm tự sự, 17 nhưng chi tiết có giá trị góp phần thể hiện đặc điểm tính cách nhân vật, lai lịch, ngoại hình, ngôn ngư, nội dung, hành vi cử chỉ, hành động của nhân vật Vì thế, khi phân tích cần lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét về nhân vật trong tác phẩm. Nhưng chi tiết này có lúc được bộc lộ rõ ràng nhưng thường rất tế nhị, kín đáo ẩn trong lời văn đọc qua thường ít gây chú ý. Phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp phân loại chúng theo trình tự hợp lí nhằm làm sáng tỏ tính cách của nhân vật. Thông thường khi phân tích hình tượng nhân vật thường chú ý các phương diện sau: + Lai lịch: Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách cũng như cuộc đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trong với đường đờì của một người, một số phận nào dó trong văn học. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Số đỏ hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ, hành vi vô giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị đuổi ra khỏi nhà) bằng nhưng thành tích bất hảo của Xuân Tóc đỏ trong cuộc sống lang thang hè đường, xó chợ đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của y sau này. Hoặc Chí phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, ngay từ khi được sinh ra đã bị ném khỏi cuộc sống, đã là đứa trẻ hoang không biết bố mẹ, chẳng có cửa nhà. Hoàn cảnh xuất thân ấy tạo nên sự cô độc, thê thảm của Chí Phèo. Tính cách, số phận được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó. + Ngoại hình: 18 Tục ngư Việt Nam có câu: “Xem mặt mà bắt hình rong” trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn nhằm hé mở tính cách nhân vật. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét phác hoạ chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của nhân vật nào đó. Trong truyện ngắn Chí Phèo nhưng vết sẹo ngang dọc trên khuôn mặt của Chí cùng với nhưng nét chạm trỗ ở ngực tự có đã nói lên rất nhiều…Phải chăng cái ngoại hình biến dạng, kỳ dị gớm ghiếc kia như đã muốn trưng ra quá khứ dư dằn, và nội tâm tha hoá biến chất của Chí Phèo. Hay trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nư thanh niên người Pháp đi trên toa xe điện ngầm) tác giả Nguyễn Ái Quốc đã phác hoạ chân dung Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh đấy à?” Các chi tiết này ám chỉ thật sâu cay một tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương, cùng lối sống xa hoa, truỵ lạc của ông vua bù nhìn An Nam. Trong khi phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết, ngoại hình mà đi sâu vào nội tâm, vào bản chất của nhân vật. + Ngôn ngữ Qua lời ăn tiếng nói của một người, chúng ta có thể nhận ra trình độ văn hoá, nhận ra tính cách của người ấy. Ngôn ngư của nhân vật trong tác phẩm văn học được cụ thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Chẳng hạn, nhân vật cố Hồng trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng hễ cứ mở miệng ra là gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” mặc dầu ông ta chẳng biết cho tường tận việc gì cả. Còn nhân vật Xuân Tóc Đỏ, cho đến khi trở thành “Nhà cải cách thẩm mĩ”, “Đốc tờ Xuân”, “ Giáo sư quần vợt”, “Cố vấn báo gõ mõ”…. đựơc cả xã hội thượng lưu thành thị 19 trọng vọng nhưng mấy câu cửa miệng của hắn vẫn là: “Mẹ kiếp”, “nước mẹ gì” điều ấy chứng tỏ cái tính cách lưu manh, vô học của y không sao gột rửa nổi. Thông thường, mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con người làm sao thì lời ăn tiếng nói sẽ như vậy. Vì thế, khi phân tích nhân vật ta cần đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngư, lời ăn tiếng nói nhân vật. + Nội tâm Là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm giác, cảm xúc, tình cảm, tâm lí, suy nghĩ… của con người. Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín, phong phú, phức tạp. Ngòi bút của nhà văn có khả năng miêu tả được nhưng ngõ ngách sâu kín của nội tâm con người từ nhưng điều thuộc phạm vi ý thức đến nhưng điều trong tiềm thức lẫn vô thức. Qua đó ta có thể xét đoán được tính cách nhân vật. Chẳng hạn, đoạn miêu tả nội tâm của Chí Phèo sau cơn ốm cho thấy được sau nhưng lần quen rạch mặt, ăn vạ, là con quỷ dư của làng Vũ Đại, thì đây là lần hắn thực sự tỉnh: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà hắn vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao đó không phải là tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở nhưng người như hắn chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể hắn đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời trở rét nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở vào nếu không vào cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi thì đến khóc được mất”. Qua suy nghĩ của Chí Phèo ta có thể nhận ra một Chí Phèo thứ hai – “Chí không còn là một con Quỷ dư của làng Vũ Đại nưa mà là một con người bình thường như bao con người khác: Buồn lo trước tuổi già ập đến, cảm thấy cô đơn và sợ cô đơn. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất