Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn cách soạn giảng bài đọc thêm môn học ngữ văn ở bậc thpt...

Tài liệu Skkn cách soạn giảng bài đọc thêm môn học ngữ văn ở bậc thpt

.DOC
18
1056
125

Mô tả:

BM 01-Bia SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị : TRỪƠNG THPT TRẦN PHÚ Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CÁCH SOẠN GIẢNG BÀI ĐỌC THÊM MÔN HỌC NGỮ VĂN Ở BẬC THPT Người thực hiện: Danh Kiều Oanh Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn. - Lĩnh vực khác: .......................................................  Có đính kèm:  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh Năm học: 2012 - 2013  Hiện vật khác SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Danh Kiều Oanh 2. Ngày tháng năm sinh: 02/12/1979 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: 121/1 Thôn Xây Dựng, Giang Điền, Trảng Bom, Đồng Nai. 5. Điện thoại: 0909590359 6. Fax: (CQ)/ (NR); ĐTDĐ: E-mail:[email protected] 7. Chức vụ: Giáo viên 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Trần Phú II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: ĐHSP - Năm nhận bằng: 2005 - Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Ngữ văn III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Công tác giảng dạy Số năm có kinh nghiệm: 8 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 1. Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm 2. Mối tình của Chí Phèo và Thị Nở. 3. Ứng dụng bài Lí luận văn học vào phân tích nhân vât trong truyện. CÁCH SOẠN GIẢNG BÀI ĐỌC THÊM MÔN HỌC NGỮ VĂN  I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong chương trình học đối với môn học Ngữ văn số bài đọc thêm tương đối nhiều so với tổng số bài trong chương trình học. Nhưng với thời gian hạn hẹp theo phân phối chương trình thì không đủ để chúng ta truyền đạt tất cả nội dung bài học cho học sinh hiểu. Vả lại những tác phẩm ấy theo tôi đó cũng là những tác phẩm hay, nó giúp học sinh hiểu biết củng cố thêm về những tác giả văn học, về những giai đoạn văn học, về trào lưu văn học… Vậy làm thế nào để truyền tải hết nội dung cơ bản trong thời gian cho phép. Đó là trăn trở của giáo viên khi giảng dạy các bài đọc thêm. Hơn nữa, theo chương trình năm 10111012 lại cắt một số bài chính trong chuyền sang đọc thêm- những bài ấy lại là những bài hấp dẫn. Ví dụ: Đoạn trích “Ra ma buộc tội”(Lớp 10) “Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn”(lớp 10) “Ba cống hiến vĩ đại của Mác”(lớp 11)…nếu bỏ qua thật đáng tiếc. Mặc khác nói đến hai chữ “đọc thêm” thì dường như học sinh xem nhẹ nếu như không nói là không muốn học. Vậy làm thế nào để học sinh không có suy nghĩ đó. Từ những lí do trên bản thân tôi nghĩ ra cách soạn giảng các bài học thêm đối với môn học Ngữ văn. Hy vọng đề tài này là sự chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân với đồng nghiệp. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề tài tôi được hoàn thiện hơn, ứng dụng vào công tác giảng dạy. II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1.1 Cơ sở lí luận Luật giáo dục nêu rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm , đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Tôi chú trọng đến một trong những yếu tố mà luật giáo dục đã đề cập-tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui ,hứng thú cho học sinh. Với những suy nghĩ trên, bản thân tự nhận thấy cần thiết có một cách soạn giảng phù hợp với nội dung các bài đọc thêm mặc dù chưa có tài liệu để tham khảo. Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui và hứng thú cho học sinh là phương pháp chủ yếu mà bản thân hay sử dụng trong quá trình giảng dạy. Muốn cho học sinh hoạt động tích cực, giáo viên phải khơi gợi nguồn cảm hứng và tác động đến tinh thần tự giác của học sinh để học sinh chuẩn bị tốt bài soạn ở nhà. Học sinh chuẩn bị bài xong các em sẽ hứng thú học hơn. Hơn nữa các bài đọc thêm có rất nhiều bài hay như: Rama buộc tội trích Ramayana, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn của Ngô Sĩ Liên, Nỗi thương mình trích Truyện Kiều cũa Nguyễn Du ( lớp 10 ).Vịnh khoa thi hương của Tú Xương, Chay giặc của Nguyễn Đình Chiểu, Lai Tân của Hồ Chí Minh, Nhớ Đồng của Tố Hữu,…(Ngữ văn 11)Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, . . .( Ngữ văn 12 ) mà các bài đọc thêm này chỉ dành thời gian từ 10 đến 20 phút để hướng dẫn cho học sinh. Nếu như không có cách soạn giảng cho phù hợp thì không tài nào giáo viên truyền tải hết nội dung cần thiết và học sinh cũng khó để khai thác hết những yếu tố đặc sắc trong tác phẩm. 1.2. Cơ sở thực tiễn Thực tế cho thấy trong nhiều năm gần đây các bài đọc thêm chỉ được hướng dẫn cho học sinh trên lớp chứ không có thời gian giảng dạy. Nhưng đối với tình hình chung của trường Trần Phú, đa phần học sinh trung bình-yếu mà chỉ hướng dẫn thì học sinh sẽ lờ đi. Vậy là giá trị của các bài đọc thêm không có tác dụng.Tất cả các yếu trên là là cơ sở thực tiễn của đề tài. 1.2.1. Thuận lợi - Về giáo viên Như đã nói ở trên đề tài này đã được khá nhiều giáo viên quan tâm. Điều đó giúp cho tôi có tâm huyết hơn và dễ dàng trao đổi khi gặp khó khăn trong quá trình thực hiện Về bản thân, tôi cũng đam mê văn học nên các bài đọc thêm trong chương trình cũng là tâm điểm gây sự tìm tòi khám phá của tôi. Vì vậy mà việc xác định nội dung cần đạt trong các bài đọc thêm tương tối dễ dàng. - Về học sinh, nhìn chung ở mỗi lớp học ít nhiều đều có những học sinh tích cực và hứng thú học văn. Việc kết hợp giữa giáo viên và học sinh trong việc dạy và học giờ đọc thêm hết sức thuận lợi, tiện cho việc nắm bắt mức độ đọc hiểu của học sinh. Từ đó người giáo viên có cách soạn giảng phù hợp. 1.2.2.Khó khăn - Về giáo viên Hiện nay có rất ít tài liệu đề cập đến nội dung và kiến thức của các bài đọc thêm. Nên nguồn tài liệu hổ trợ đề tài không tìm ra, đặc biệt là những tài liệu nói về cách soan giảng. Với nguồn hiểu biết hạn hẹp cộng với lòng đam mê, tôi mạo muội viết đề tài này bằng những quan niệm suy nghĩ cá nhân do vậy đề tài khai thác sẽ chưa đầy đủ, sâu sắc. Với những khó khăn trên chắc chắn đề tài sẽ không tránh khỏi sai sót. Tôi mong chờ nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô. - Về học sinh Mặc dù có học sinh đam mê học văn nhưng đó chỉ là số ít còn lại đa phần học sinh trung bình - yếu nên khả năng đọc hiểu và cảm nhận các bài đọc thêm là rất thấp.Đồng thời đa phần học sinh đều xem nhẹ bài đọc thêm vì không nằm trong yêu cầu của đề thi.Vì vậy trong quá trình giảng dạy dù người giáo viên hết sức cực lực mà kết quả vẩn chưa cao. 2. Nội dung thực hiện đề tài 2.1. Cách soạn Soạn là một khâu quan trọng quyết định kết quả của tiết dạy và học, giáo viên soạn tốt bài dạy sẽ dễ dàng thực hiện, học sinh soạn tốt học rất dễ hiểu. Với những nội dung có sẳn đến khi dạy giáo viên chỉ cần dựa vào đó mà trình bày theo hệ thống logic, học sinh dựa vào đó trả lời câu hỏi. 2.1.1 Học sinh Để thực hiện có hiệu quả bài dạy thì cần có sự chuẩn bị của học sinh. Việc chuẩn bị bài trước giúp học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật văn bản – không cần đọc lại. Mặc khác học sinh cũng sẽ chủ động hơn trong việc khai thác vấn đề trên lớp( giáo viên dành 1 đến 2 phút sau tiết học trước để dặn dò học sinh soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa) 2.1.2 Giáo viên Giáo viên thể hiện phần chuẩn bị của mình trên giáo án trong cột hoạt động giáo viên và học sinh. - Phần hoạt động của giáo viên và học sinh + Cách đặt câu hỏi gợi mở để tạo hứng thú cho học sinh: Thông thường tâm lí học sinh thường xem nhẹ các bài đọc thêm từ đó các em lơ là, không quan tâm. Việc tạo tâm thế cho giờ học là rất quan trọng. Với thời gian hạn hẹp giáo viên tận dụng ngay vào giời học bằng những câu hỏi gợi mở. Điều ấy còn có tác dụng khích lệ tinh thần chủ động tích cực của một số học sinh yếu kém. Khi trả lời được các câu hỏi học sinh sẽ cảm thấy hứng thú hơn và tiết đọc thêm nó sẽ trở nên nhẹ nhàng đơn giản. Muốn làm được những điều đó thì giáo viên chuẩn bị thật cẩn thận một hệ thống câu hỏi trong giáo án của mình. Ví dụ: để khích lệ tinh thần xung phong tạo hứng thú trong giờ học bài Lai Tân của Hồ Chí Minh, giáo viên có thể đặt câu hỏi sau: Câu hỏi: Năm 1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để làm gì. Kết quả như thế nào? Đây là câu hỏi mang tính chất gợi mở nên chỉ cần những ý nhỏ để học sinh xác định câu trả lời.(Có lẽ tất cả học sinh đều trả lời được câu hỏi trên vì các em đã được học bài Chiều Tối) Với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Khi học sinh trả lời được câu hỏi đó, phần nào các em đã có nhận định sơ về xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch nếu như không nói các em sẽ có cái nhìn phản cảm về xã hội Trung Quốc. Từ đó đặt tiếp các câu hỏi có liên quan để tìm hiểu nội dung văn bản. Câu hỏi: Trong những ngày bị giam cầm tác giả cảm nhận điều gì về nhà tù Trung Quốc? Học sinh trả lời : đó chính là thực trạng đen tối thối nát của xã hội Trung Quốc mà mọi người tưỡng là yên ấm tốt lành. Câu hỏi : Phân tích sắc thái châm biếm, mỉa mai ở câu cuối( Trời đất Lai Tân vẫn thái bình) Học sinh trả lời: Châm biếm mỉa mai sự yên ấm tốt lành chỉ là cái vỏ để che đậy thực trạng thối nát bên trong. Trả lời được câu hỏi gợi mở bên trong thì hai câu hỏi còn lại trong sách giáo khoa không khó khăn gì với học sinh. Trong phần câu hỏi sách giáo khoa đã gợi cho các em hiểu được bộ máy quan lại ở Lai Tân không làm tròn trọng trách của mình-kẻ thì lo đánh bạc, kẻ thì tham ô hối lộ, kẻ thì làm việc riêng qua việc soạn bài ở nhà. Nắm được các ý trên là học sinh đã hiểu được nội dung của bài. Qua ví dụ ta thấy chỉ với hai câu hỏi xoáy sâu vào nội dung và những câu hỏi gợi mở đã giúp học sinh nắm được nội dung và tư tưởng văn bản trong thời gian hạn hẹp. Một ví dụ khác: Khi dạy đoạn trích Rama buộc tội- sử thi Ramayana của Vanmiki (lớp 10)nội dung cần đạt: thấy được vẻ đẹp tinh thần của nhười Ấn Độ cổ đại trong cuộc chiến vì danh dự, nghĩa vụ và tình yêu. Đối với đoạn trích này buộc học sinh phải đọc trước ở nhà và nắm vững cốt truyện để hiểu được lời lẽ buộc tội và ruồng bỏ vợ của nhân vật Rama cũng như những mâu thuẫn trong tâm trạng của một nhân vật anh hùng cổ đại. Từ đó đặt câu hỏi gợi mở: Câu hỏi 1: Trong những lí do mà Rama đưa ra để giải cứu Xita có lí do nào xuất phát từ tình yêu của chàng dành cho Xi ta kông? Câu trả lời: Tất cả những lí do mà Rama giải cứu Xi ta là vì danh dự, vì tài năng vì bảo vệ tiếng tâm của dòng tộc. Câu hỏi 2: Em có nhận xét gì về nhân vật Rama?. Câu trả lời: Đó là một nhân vật anh hùng trọng danh dự vì bản thân là một đức vua nên phải đặt lợi ích cộng đồng lên tình cảm cá nhân mình. Phải hi sinh tình yêu để bảo vệ oai danh của dòng tộc. Câu hỏi 3: Thế thì Rama có yêu vợ không. Vì sao chàng làm như vậy? Trả lời được câu hỏi trên học sinh đã nhận ra sự mâu thuẫn trong tâm trạng của nhân vật Rama- cuộc chiến vì danh dự, ngĩa vụ và tình yêu. + Kết hợp hệ thống câu hỏi gợi mở với câu hỏi sách giáo khoa để làm nổi bật nội dung cơ bản: Đa phần câu hỏi sách giáo khoa đã đủ làm nổi bật nội dung tư tưởng nên việc sử dụng câu hỏi sách giáo khoa rất tiện lợi cho việc soạn giảng bài đọc thêm. Cũng ví dụ từ bài Lai Tân-Hồ Chí Minh (lớp 11).Để đạt được nội dung yêu cầu như đã nói ở trên giáo viên có thể sử dụng nguyên văn câu hỏi 1 và 2 trang 45 sách giáo khoa kết hợp với những câu hỏi gợi mở tạo hứng thú cho học sinh đủ làm sáng tỏ dung yêu cầu của bài đọc thêm trên lớp. Để dạy bài Lai Tân chỉ cần hai câu hỏi gợi mở và hai câu hỏi sách giáo khoa đủ làm nổi bật nội dung tư tưởng của văn bản: Ví dụ : Câu hỏi gợi mở: Năm 1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để làm gì. Kết quả như thế nào? Câu trả lời: Với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Câu hỏi gợi mở: Trong những ngày bị giam cầm tác giả cảm nhận điều gì về nhà tù Trung Quốc? Câu trả lời : đó chính là thực trạng đen tối thối nát của xã hội Trung Quốc mà mọi người tưỡng là yên ấm tốt lành. Câu hỏi sách giáo khoa: Trong ba câu đầu bộ máy quan lại ở Lai Tân đã được miêu tả như thế nào? Ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng có làm đúng chức năng của những người đại diện cho pháp luật không? Câu trả lời: Họ không làm đúng chức trách của mình, ban trưởng thì lo đánh bạc Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ, cảnh trưởng thì lo tham lam tiền phạm nhân bị giải Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền, còn huyện trưởng thì làm việc riêng Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự. Câu hỏi sách giáo khoa: Phân tích sắc thái châm biếm, mĩa mai ở câu thơ cuối? Câu trả lời: Từ vẫn thái bình thể hiện sắc thái châm biếm, mĩa mai xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới thạch, sự yên ấm tốt lành chỉ là cái vỏ để che đậy thực tế thối nát bên trong. Đó là một số câu hỏi ví dụ để thấy được sự kết hợp ngững câu hỏi gợi mở với những câu hỏi sách giáo khoa là rất tiện lợi trong việc soạn giảng bài đọc thêm- tiết kiệm được thời gian, lớp học sinh động, kiến thức cô đọng. Chú ý khi đặt câu hỏi cần dựa vào những hình ảnh then chốt và những từ ngữ đăc sắc mà trong thơ gọi là "thi nhãn".Đây là yếu tố rất quan trọng giáo viên đặc biệt quan tâm để tiết kiệm được tthời gian tiết học. Những hình ảnh then chốt góp phần quan trọng không kém vào việc thể hiện chủ đề của tác phẩm nếu giáo viên dựa cào đó đặt câu hỏi thì nội dung bài học hiện lên một cách rõ nét hơn. Ví dụ: Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh Chong đèn huyện trưởng làm công việc Trời đất Lai Tân vẫn thái bình (Lai Tân-Hồ Chí Minh) Khi đọc những từ ngữ gạch chân ở trên ngoài việc hiểu nghĩa đen còn phải hiểu sắc thái nghĩa mà từ ngữ biểu đạt.Ví dụ từ chuyên ngoài nghĩa chuyên môn, chuyên làm, chuyên nghiệp còn có nghĩa công việc đó làm nhiều lần thành chuyên môn mục đích châm biếm việc chuyên đánh bạc.Hay từ quanh ngoài nghĩa quanh năm suốt tháng quanh quẩn còn có nghĩa là cứ quanh quẩn lo thu gom tiền hối lộ của phạm nhân hoặc tìm cách để thu thêm tiền phạt quên hết nhiệm vụ cai tù của mình. Nói đến ngôn ngữ nghệ thuật lúc nào ta cũng hiểu cho được hai chức năng cơ bản của nó- chức năng thông tin và chức năng thẩm mĩ. Nên ngoài nghĩa gốc mà từ ngữ thể hiện còn có một lớp nghĩa nữa là nghĩa phái sinh. Từ đó ta kết luận nội dung tư tưởng văn bản. Với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn như vậy, giáo viên chỉ cần 5 phút hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung một cách dễ dàng thông qua những câu hỏi có tính chất quyết định. - Phần nội dung cần đạt Ở phần này giáo viên chỉ ghi những ý cơ bản, còn lại trong quá trình giảng thầy cô sẽ diễn giải thêm.(Xem phần giáo án minh họa) 2.2.Cách giảng Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản Khi đổi mới phương pháp dạy và học, người ta đã chú trọng đến vấn đề này. Đọc hiểu là khâu quan trọng để học sinh nắm được nội dung cơ bản. Vậy thì đọc như thế nào hiểu ra làm sao giáo viên cần hướng dẫn một cách cụ thể(nếu cần giáo viên giải thích cho học sinh những từ ngữ khó hiểu trước khi đọc văn bản trên lớp).Tùy theo độ dài văn bản mà giáo viên có thể cho học Đọc hiểu là hai yếu tố đi đôi với nhau. Nhưng “đọc” là vấn đề thông thường còn “hiểu” thì tùy thuộc vào năng lực cảm thụ văn học của từng học sinh và đa phần học sinh gặp khó khăn trong vấn đề này.Hơn nữa đây là bài đọc thêm không có thời gian đọc trên lớp học sinh tự đọc hiểu nên càng khó khăn hơn. Để hiểu được nội dung văn bản thì phải dựa vào đâu?Làm thế nào để hiểu đúng mục đích mà tác giả sử dụng ngôn ngữ đó? Đó là vấn đề mà học sinh thường thắc mắc. Vậy thì giáo viên nên hướng dẫn học sinh cụ thể những yếu tố quan trọng trong văn bản là đều dựa vào những ngôn từ nghệ thuật, ngô ngữ nghệ thuật là phương tiện chuyển tải nội dung văn bản nên khi khai thác một tác phẩm văn học ta dựa vào hai yếu tố: nội dung và nghệ thuật để thấy được giá trị tư tưởng của tác phẩm. Từ nghệ thuật làm nỗi bật nội dung nên giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý vào những từ ngữ hình ảnh mà tác giả đã sữ dụng trong văn bản. Bước 2: Giảng những từ ngữ, hình ảnh then chốt Phần soạn bài ở nhà giáo viên đà chuẩn bị các câu hỏi. Khi lên lớp giáo viên chú ý đến việc khích lệ tinh thần xung phong của học sinh tạo không khí sinh động trong giờ học và phân bố thời gian cho hợp lí. Ví dụ : Vào đầu giờ giáo viên có thể kiểm tra việc chuẩn bị bài học thêm của học sinh ở nhà bằng những câu hỏi đơn giản để học sinh lấy điểm cộng và những câu hỏi đó phải liên quan đến nội dung bài sắp học. Sau đó đặt các câu hỏi đã chuẩn bị sẵn trong phần soạn để học sinh trả lời. Giáo viên hướng dẫn và giảng những từ ngữ then chốt rồi chốt lại nội dung một cách ngắn ngọn. Ví dụ : Dạy bài Nhớ đồng của Tố Hữu ( lớp 11 ). Đặc điểm bài thơ tương đối dài nên giáo viên chọn yếu tố đặc sắc để giảng. Cũng từ phương pháp đặt câu hỏi gợi mở kết hợp với câu hỏi sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung văn bản và giảng giải những từ ngữ khen chốt điển hình như điệp khúc " Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, hiu quạnh bên trong một tiếng hò ". Trong câu đó có từ ngữ cần giải thích là những trưa, tiếng hò . Từ những chỉ số nhiều, sự việc lập lại nhiều lần kết hợp với từ trưa, tức là buổi trưa – không phù hợp lắm cho tiếng lòng thổn thức. Ấy vậy mà trong lòng tác giả lại gợi lên nỗi nhớ khi tiếng hò vang vọng. Chắc hẳn nỗi nhớ ấy luôn luôn rạo rực trong lòng, một nỗi nhớ da diết triền miên. Từ đó ta khẳng định tác giả là người luôn tha thiết với cuộc đời, khao khát được sống cuộc sống bên ngoài nhà tù. Làm rõ yếu tố ấy học sinh đã hiểu được tâm trạng của nhà thơ, một tâm hồn tha thiết với đời, niềm khát khao yêu cuộc sống. Tương tự từ tiếng hò giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu tại sao tiếng hò gợi tác giả bao nổi nhớ. Tố Hữu lớn lên trong vòng tay của mẹ, giấc ngủ của người được ru bởi lời ru ngọt ngào của mẹ. Hơn nữa quê hương của người là nơi nổi tiếng về làn điệu dân ca nên tiếng hò với tác giả là hai yếu tố gắn bó với nhau từ thời thơ ấu. Đó là nguyên nhân tại sao tiếng hò lại gợi cho tác giả bao nỗi nhớ. Soạn giảng là hai yếu tố không thể tách rời nhau, soạn là xác định những nội dung cơ bản cần giảng còn giảng là làm sáng tỏ nội dung đã soạn. Tuy nhiên do thời lượng của bài đọc thêm ít nên giáo viên chỉ cần giảng những từ ngữ then chốt, không nên ôm tất cả nội dung thì giờ dạy bài đọc thêm sẽ nhẹ nhàng và không phải chạy đua với thời gian. Bước 3: Giáo viên cho học sinh ghi chép những nội dung cơ bản. Phần này chỉ chốt lại cho học sinh một cách ngắn gọn đáp ứng nội dung cần đạt(Xem giáo án minh hoạ) Bước 4: Củng cố và dặn dò bằng những câu hỏi(Xem giáo án minh hoạ) III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI - Khi thực hiện phương pháp này đảm bảo được thời gian cho phép. - Học sinh tích cực hoạt động, không còn phân biệt bài đọc thêm với bài học chính thức. - Hiệu quả tiết học cao: học sinh hiểu bài, giáo viên truyền tải hết nội dung cần đạt. Bảng thống kê số liệu Sau khi áp dụng phương pháp Lớp 11a2 11a7 11a8 10a9 Mức độ hứng thú 90% 85% 80% 90% Mức độ hiểu bài 80% 70% 75% 85% IV. KẾT LUẬN Sau khi xác định được phương pháp soạn giảng bài đọc thêm, bản thân đã không còn lo sợ như trước đây – sợ không kịp giờ, sợ học sinh nhàm chán, . . . mà soạn giảng các bài đọc thêm rất nhẹ nhàng. Đầu tư vào việc soạn- giảng các bài đọc thêm sẽ làm cho người giáo viên thêm yêu văn chương hơn, từ đó khích lệ tinh thần làm việc và ta sẽ thấy được niềm vui khi sáng tạo ra một cái gì đó mới mẻ. Tuy nhiên tất cả những vấn đề vừa trình bày ở trên hoàn toàn xuất phát từ những suy nghĩ chủ quan nên tôi chân thành mong đợi nhận được sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy cô để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và thiết thực hơn. V.ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ 1.Đề xuất - Để áp dung được đề tài này, giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản trước khi kết thúc tiết học trước đó, học sinh phải soạn bài ở nhà. - Giáo viên phải linh hoạt trong quá trình tổ chức các khâu lên lớp để tiết kiệm được thời gian. - Nên có sưu tầm các hình ảnh minh họa (nếu có) để giờ học thêm hấp dẫn - Không nên căn thẳng gây áp lực cho học sinh mà phải tạo không khí lớp vui tươi, sinh động thì các em mới thích học. 2.Kiến nghị Hiện tại thư viện trường có rất ít tư liệu đa phương tiện như đĩa CD, phim ảnh,...đề nghị sưu tầm thêm đề phục vụ cho việc dạy và học môn Ngữ văn có hiệu quả hơn. Giáo án minh họa Tiết: 90 Đọc thêm- Bài 1: LAI TÂN -Hồ Chí MinhBài 2: NHỚ ĐỒNG -Tố Hữu A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT Bài Lai Tân -Thấy được hiện thực nhà tù Tưởng Giới Thạch và tính chiến đấu của bài thơ. - Nhận thức được đặc sắc của bút pháp trào phúng trong thơ Hồ Chí Minh. Bài Nhớ đồng - Thấy được cách lựa chọn hình ảnh miêu tả và diễn diến tâm trang của nhà thơ. - Hiểu được nỗi nhớ cuộc sống bên ngoài nhà tù, đó là sự khao khát cuộc sống tự do. B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC 1. Kiến thức Bài Lai Tân - Thực trạng thối nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Lai Tân. - Thái độ châm biếm của tác giả. Bài Nhớ đồng - Tâm trạng nhớ đồng của nhà thơ - Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ 2. Kĩ năng Đọc-hiểu văn bản C.TIÊN TRÌNH LÊN LỚP 1.Ổn định lớp 2. Bài mới Hoạt động của GV & HS GV: Gọi học sinh đọc tiểu dẫn Nội dung cần đạt Bài 1: LAI TÂN –Hồ Chí Minh - CH:Em hãy cho biết bài thơ được I. TÌM HIỂU CHUNG sáng tác trong hoàn cảnh nào? ( sgk) CH:Năm 1942, Bác Hồ sang Trung II. ĐỌC –HIỂU Quốc để làm gì?Kết quả như thế 1. Nội dung nào(nhớ lại bài học trước)? a. Bộ máy cai tù ở Lai Tân CH: Trong quá trình bị giam cầm - Ban trưởng: lo đánh bạc tác giả đã nhận thấy điều gì ở nhà - Cảnh trưởng: tham lam, hối lộ tù Tưởng Giới Thạch? - huyện trưởng: hút thuốc phiện GV: Chuyển ý sang đọc hiểu văn =>Không làm tròn trách nhiệm, vi bản (Có hình ảnh minh họa). phạm pháp luật. Đó là hiện trạng CH: Bộ máy quan lại ở Lai Tân đen tối, thối nát của xã hội Trung được tác giả miêu tả như thế nào? Quốc thời Tưởng Giới Thạch. CH: Ban trưởng, cảnh trưởng, b. Sắc thái châm biếm của tác giả huyện trưởng họ làm gì? Sự thái bình yên ấm chỉ là cái vỏ CH: Qua đó ta hiểu thêm điều gì xã vô thực bên ngoài che đậy thực hội Trung Quốc thời Tưởng Giới trạng đen tối. Thạch? 2. Nghệ thuật CH: Phân tích sắc thái mĩa mai - Chọn nhân vật, miêu tả chi tiết châm biếm ở câu thơ cuối( vẫn thái - Tạo điểm nhấn ở tiếng cuối câu. bình nghĩa là gì? 3. Ý nghĩa của văn bản CH: Em có nhận xét gì về kết cấu Thực trang đen tối thối nát của xã của bài thơ. Tác giả đã sử dụng hội tưởng như là yên ấm, tốt lành. nghệ thuật gì để thể hiện ý nghĩa Bài 2: NHỚ ĐỒNG văn bản? -Tố HữuI. TIỂU DẪN ( SGK) II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN CH: Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ 1.Nội dung CH: Vì sao tiếng hò lại có sức gợi a. Tiếng hò đối với tác giả cảm như vậy đối với nhà thơ? - Tiếng hò quê hương (Sông CH: Chỉ ra những câu thơ được Hương) dùng làm điệp khúc trong bài thơ? - Lời ru ngọt ngào của mẹ CH: Xác định những hình ảnh hiện về trong nỗi nhớ của tác giả. b. Nỗi nhớ của tác giả CH: Tất cả những hình ảnh đó thể - Nhớ quê hương : vùng quê nghèo hiện nỗi nhớ gì? - Nhớ mẹ quê, những người nông CH: Phân tích những hình ảnh mà dân chất phát thật thà. tác giả dùng để miêu tả nỗi nhớ - Nhớ về quảng đời của mình quê. =>Tác giả là người dạt dào tình CH: Hình ảnh trung tâm của nỗi cảm nhớ là hình ảnh gì? c. Khát vọng tự do và hành động CH: Nỗi nhớ da diết nhất và sâu của người chiên sĩ. năng nhất làm đau lòng tác giả nhất Muốn thoát khỏi chốn lao tù để đó là gì? thực hiên lí tưởng cao đẹp – hoạt CH: Những từ ngữ nào thề hiện động cách mạng. điều ấy. 2. Nghệ thuật CH: Cụm từ chao ôi gợi cảm giác - Sử dụng hình ảnh gần gũi quen gì. thuộc CH: Khát vọng tự do, khát vọng - Giọng thơ da diết, khắc khoải hành động là lí tưởng say mê của trong nỗi nhớ. tác giả, điều đó được thể hiện qua 3. Ý nghĩa của văn bản những câu thơ nào? Tiếng lòng của tác giả: khát vọng CH: Em có nhận xét gì về các hình tự do, tình yêu nhân dân, đất nước, ảnh mà tác giả dùng để thể hiện yêu cuộc sống của chính mình. trong nỗi nhớ của mình? CH: Ngôn ngữ và giọng thơ như thế nào? D.CỦNG CỐ -DẶN DÒ ( Ý nghĩa của từng bài ) Học sinh về học thuộc những dòng thơ mình yêu thích. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn – NXBGD&ĐT Năm 2010. 2. Sách giáo khoa, sách giáo viên –Ngữ văn lớp 10,11,12 3. Sách Hướng dẫn học Ngữ văn, nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh. Người thực hiện: Danh Kiều Oanh SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị : Trường THPT Trần Phú CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Long Khánh, ngày tháng năm 2013 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2012 -2013 Tên sáng kiến kinh nghiệm: CÁCH SOẠN GIẢNG BÀI ĐỌC THÊM MÔN HỌC NGỮ VĂN - THPT Họ và tên tác giả: Danh Kiều Oanh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường THPT Trần Phú Lĩnh vực: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: ...................  - Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: ............................................  Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành  1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có   2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan