Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn cách làm bài văn nghị luận xã hội....

Tài liệu Skkn cách làm bài văn nghị luận xã hội.

.DOC
20
1036
137

Mô tả:

Cách làm bài văn nghị luận xã hội A.phần mở đầu. I. Lí do chọn đề tài. Trong trương trình ngữ văn bậc thpt hiện nay gồm có 3 phân môn : Tiếng việt,đọc văn và làm văn.Mỗi phân môn đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó làm văn là phân môn mang tính thực hành.Mỗi bài làm văn của học sinh thể hiện khá rõ những nhận thức,kĩ năng,tình cảm của học sinh,là cơ hội để học sinh bộc lộ rõ nhất vốn hiểu biết cũng như năng lực của mình. Trong làm văn, thể văn nghị luận giữ vị trí quan trọng. Gồm : nghị luận văn học ( Bàn bạc những vấn đề thuộc lĩnh vực văn học) và nghị luận xã hội( Bàn bạc những vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội) . Tuy nhiên trong hai kiểu bài này nghị luận văn học được chú trọng nhiều,còn nghị luận xã hội ít được chú ý đến.Bản thân các em học sinh cũng có tâm lí e ngại ,không mấy hứng thú với kiểu bài này.Dẫn đến kĩ năng làm bài còn yếu. Thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội,nghị luận xã hội ngày càng có vai trò thiết thực trong đời sống.Cấu trúc đề thi môn ngữ văn trong các đề thi ( Học kì,Tốt nghiệp,Đại học,Cao đẳng) có một câu 3 điểm dành cho một bài nghị luận ngắn. Ưu điểm của văn nghị luận, trước hết là học sinh không nhất thiết phải thuộc làu một khối lượng lớn tri thức đọc hiểu . Người viết có thể tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của mình một cách khách quan mà không bị một giới hạn, quy định nào ràng buộc. Mặt khác, ta có thể thể hiện sự hiểu biết phong phú của mình cho bài viết sinh động hơn. Dạng văn nghị luận xã hội thực chất là một dạng đề "mở" vì thế nó rất phù hợp cho mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là các bạn học khối khoa học tự nhiên vốn “sợ" học thuộc văn. Tuy vậy viết một bài nghị luận xã hội không phải là "thích viết gì thì viết" hay áp đặt ý kiến chủ quan của cá nhân. Bài viết vẫn phải đảm bảo tính khách quan khoa học và hướng về vấn đề cần bàn luận. Người viết phải là người có vốn sống phong phú, tầm hiểu biết rộng và có óc tư duy sắc sảo. Đây là "thách thức" lớn cho học sinh vốn xưa nay chỉ quen cách làm bài thụ động. Nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết trong đời sống. Viết văn nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết cho học sinh. Qua đó, có thể kiểm tra chính xác năng lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết của học sinh; bồi dưỡng kĩ năng sống đồng thới còn tránh tình trạng "đạo văn" hay lệ thuộc nhiều vào sách vở của hoc sinh hiện nay. Xuất phát từ những lớ do cơ bản trên, tôi viết bài : “Cách làm bài nghị luậnxã hội .” nhằm đưa ra một quy trình cụ thể cho việc giải quyết dạng bài này. Tôi đã thực hiện và thu được một số kết quả đáng kể. Dưới đây là một vài kinh nghiệm nhỏ, tôi muốn cùng trao đổi cùng các thày,các cô . Rất mong nhận được sự đồng tình,góp ý của các thày,các cô. II.Mục đích nghiên cứu -giúp các em học sinh có một định hướng cụ thể,rõ ràng về cách làm một bài văn nghị luận xã hội,xoá bỏ tâm lí e ngại,tạo hứng thú cho các em khi tiếp xúc với kiểu bài này. - Góp phần củng cố,rèn luyện,nâng cao kĩ năng làm một bài văn nghị luận cho học sinh. -Rèn luyện tư duy nhạy bén,linh hoạt,bồi dưỡng kĩ năng sống cho các em học sinh. III.Đối tượng và phạm vi áp dụng. 1.Đối tượng sử dụng đề tài. - Giáo viên bậc THPT tham khảo để hướng dẫn học sinh làm các dạng bài về nghị luận xã hội. - Học sinh lớp 11 luyện tập để làm tốt các bài kiểm tra, các bài thi môn ngữ văn. -Học sinh lớp12 luyện tập để làm tốt các bài thi học kì,tốt nghiệp THPT,Đại học,Cao đẳng . 2.Phạm vi áp dụng. -Các bài học về nghị luận xã hội trong sách giáo khoa chương trình cơ bản và nâng cao lớp 11 và lớp 12. - Các tiết luyện tập về kĩ năng nghị luận trong chương trình. IV.Phương pháp nghiên cứu. - Xác định đối tượng học sinh để áp dụng đề tài. - Tổng hợp những hướng dẫn về kĩ năng làm bài trong sách giáo khoa một cách có hệ thống theo từng kiểu bài. -Bổ sung kĩ năng làm bài,đưa ra cách làm bài cụ thể cho từng dạng. - kiểm tra sự tiếp thu của học sinh bằng các đề ôn luyện. B.Phần nội dung. I.Cơ sở lí luận. 1.Giải thích khái niệm nghị luận xã hội . 2. Các yêu cầu chung về kĩ năng. II.Cở sở thực tiễn. III.Cách làm bài nghị luận xã hội. 2.1. kĩ năng tìm hiểu đề: Gồm các bước sau: * Đọc kĩ đề bài: Đọc, chú ý từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ ngữ, câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các vế, gạch chân những từ ngữ quan trọng. * Nhận diện cấu tạo của đề bài: Đề văn có nhiều dạng thức khác nhau tuy nhiên căn cứ vào nội dung và hình thức cấu tạo ta nhận thấy có những dạng đề sau: - Đề trực tiếp (đề nổi): Có kết cấu rạch ròi, đầy đủ, rõ ràng, tường minh. Dạng đề này thường có cấu tạo như sau: + Phần nêu yêu cầu nội dung + Phần nêu yêu cầu cách thức nghị luận + Phần yêu cầu về tư liệu - Đề gián tiếp (đề chìm): Là những đề bài không có quy định một cách cụ thể, chặt chẽ các yêu cầu về nội dung và hình thức cũng như phương hướng cách thức, mức độ phạm vi giải quyết. Đề gián tiếp không nêu trực tiếp yêu cầu nội dung và cách thức nghị luận, mà chỉ nêu vấn đề cần nghị luận. Tất cả tùy thuộc vào vốn hiểu biết và trình độ nhận thức của người làm bài. * Xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận: Phải trả lời được các câu hỏi: Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa các ý như thế nào? Sử dụng những thao tác lập luận gì ? thao tác lập luận gì là chính? * Xác định phạm vi và mức độ nghị luận: Vùng tư liệu được sử dụng cho bài viết: tác giả, trào lưu, giai đoạn, thời kỳ văn học; trong nước hay thế giới…. *Ví dụ minh họa. Đề trực tiếp (đề nổi): Hãy viết một bài văn ngắn( không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh ( chị) về bệnh vô cảm trong đời sống xã hội hiện nay ? - Nhận diện đề: dạng trực tiếp (đề nổi) - Cấu tạo của đề như sau: + Phần nêu yêu cầu nội dung: Bệnh vô cảm trong đời sống xã hội hiện nay. + Phần nêu yêu cầu cách thức nghị luận: Dùng thao tác giải thích để trình bày khái niệm bệnh vô cảm.; dùng thao tác phân tích, bình luận để trình bày ý kiến của mình. + Phần yêu cầu về tư liệu : Vận dụng những hiểu biết xã hội của bản thân. Đề gián tiếp (đề chìm): “Sứ mạng của người mẹ không phải là làm chỗ dựa cho con mà phải làm cho chỗ dựa ấy trở nên không cân thiết” . Trình bày suy nghĩ của anh( chị) về câu nói trên. + Yêu cầu về nội dung nghị luận: Trách nhiệm lớn lao của cha mẹ là giáo dục con cái biết sống tự lập.. + Yêu cầu về cách thức bàn luận: lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề; phân tích, chứng minh, bình luận. + Yêu cầu về phạm vi nghị luận: Vận dụng những hiểu biết về xã hội. 2.2. kĩ năng lập dàn ý *Kĩ năng lập dàn ý . Lập dàn ý là lựa chọn, sắp xếp ý đã tìm được ở bước tìm ý theo trật tự hợp lí và xác định mức độ trình bày sao cho vấn đề nghị luận được rõ ràng. Dàn ý chính là bộ khung của một bài văn.Việc lập dàn ý sẽ giúp người viết có thể bao quát được những nội dung chủ yếu, những luận điểm, luận cứ cần triển khai, nhờ lập dàn ý người viết cũng xác định đúng mức độ và phạm vi nghị luận vấn đề. Mặt khác, lập dàn ý trước khi viết sẽ giúp người viết có thể điều chỉnh hệ thống luận điểm, lược bớt các ý thừa, hoặc bổ sung để khắc phục các ý còn thiếu. Làm dàn ý còn giúp cho người viết chủ động phân phối thời gian cho từng ý trong bài một cách hợp lí . Một bài văn không được lập dàn ý trước khi viết thường mắc phải các lỗi như thiếu ý, thừa ý, ý lộn xộn, dung lượng viết cho các ý không phù hợp với yêu cầu của đề bài . Kết cấu chung của một dàn ý đều có 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Mỗi phần có một nhiệm vụ riêng: - Mở bài: có nhiệm vụ giới thiệu và dẫn dắt vấn đề. Mở bài phải vừa đảm bảo đúng hướng, vừa hấp dẫn để thu hút sự chú ý của người đọc. - Thân bài: có nhiệm vụ triển khai vấn đề đã được giới thiệu ở mở bài bằng các luận điểm, luận cứ. Các luận điểm, luận cứ ở thân bài phải được sắp xếp theo một trật tự hợp lí để cùng tập trung làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. - Kết bài: có nhiệm vụ kết thúc vấn đề đã được triển khai ở thân bài. Kết bài phải vừa đảm bảo tính tổng kết, vừa có ý nghĩa đánh giá vấn đề vừa nghị luận. *Ví dụ minh họa. Đề bài: Truyện ngắn“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đề cập đến một vấn đề có tính chất nhức nhối trong xã hội hiện nay: nạn bạo hành gia đình. Em có hiểu biết gì về tệ nạn trên? Theo em, ta cần làm gì để góp phần chấm dứt tệ nạn đó? Mở bài: - Giới thiệu về xuất xứ của vấn đề. - Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: nạn bạo hành gia đình. Thân bài: - Nạn bạo hành gia đình trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. + Tại gia đình hàng chài: đông con, cuộc sống khó khăn cơ cực + Biểu hiện: người chồng thường xuyên đánh vợ; người vợ câm lặng cam chịu còn xin chồng “lên bờ mà đánh”. - Hiểu biết của bản thân về tệ nạn trên: + Đó là một tệ nạn vẫn còn tồn tại trong xã hội ngày nay. + Nguyên nhân: > Do cuộc sống lao động quá cơ cực, thiếu thốn >Do trình độ văn hóa thấp, sự cam chịu câm lặng của nạn nhân >Do dấu ấn của quan niệm phong kiến còn nặng nề. > Do coi thường pháp luật của nhà nước; bản chất độc ác, dã man. + Hậu quả: >Gây ra bao cuộc đời đau khổ, bất hạnh >Làm tổn thương tâm hồn con cái. >Làm cho nền văn minh xã hội trở nên chậm tiến - Suy nghĩ và hành động của mỗi người: + Suy nghĩ: Cần có nhận thức sâu sắc và đầy đủ về vấn đề này + Hành động: >Cần góp sức với cộng đồng để ngăn chặn tệ nạn trên. >Cần nỗ lực học tập để nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết pháp luật đẩy lùi đói nghèo, góp phần giảm thiểu tệ nạn đó. >Tu dưỡng đạo đức nhân cách, luyện cách sống nhân ái yêu thương con người Kết bài: - Đánh giá ý nghĩa của việc bàn bạc vấn đề này. - Bài học cho bản thân. 1.3. Các kĩ năng diễn đạt. *Kĩ năng viết mở bài Đối với học sinh, một trong những phần các em thường bối rối khi viết văn nghị luận là phần mở bài. Tuy đây không phải là phần trọng tâm của bài văn nhưng nó là phần không thể thiếu, góp phần làm nổi bật vấn đề. Phần mở bài trong văn nghị luận là phần đặt vấn đề, thông thường có hai cách: - Trực tiếp: Là cách đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã tìm hiểu đề và tìm được vấn đề trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề đó ra bằng một luận điểm rõ ràng. Tuy nhiên khi mở bài trực tiếp, ta cũng phải trình bày cho đủ ý, không nói thiếu nhưng cũng không nên nói hết nội dung, phải đáp ứng đủ các yêu cầu của một phần mở bài đúng mực trong nhà trường. Đặt vấn đề theo cách trực tiếp dễ làm, nhanh gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận, tuy nhiên thường khô khan, cứng nhắc, thiếu hấp dẫn cho bài viết. - Gián tiếp: Với cách này người viết phải dẫn dắt vào đề bằng cách nêu lên những ý có liên quan đến luận đề (vấn đề cần nghị luận) để gây sự chú ý cho người đọc sau đó mới bắt sang luận đề.Mở bài theo cách này tạo được sự uyển chuyển, linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc, tuy nhiên kiểu mở bài này dễ dẫn đến sự lan man, lạc đề cho bài viết. * Ví dụ minh họa Đề bài : Bàn về quan niệm sống. - Mở bài trực tiếp: Trong cuộc sống mỗi người đều có quan niệm sống riêng. Có người chỉ sống vì tiền tài danh vọng mà quên đi giá trị đích thực của cuộc sống.Quan niệm sống tốt là sự hài hòa giữa danh vọng ,tiền bạc với các mối quan hệ và giá trị của con người với thiên nhiên,không bị chi phối bởi vật chất, sống hết mình, làm việc hết mình. ( (Bài viết của học sinh) -Mở bài gián tiếp: Nhà văn Pháp Đ.Đi-đơ-rô từng quan niệm “ Nếu không có mục đích ,anh không làm được gì cả.Anh cũng không làm được gì vĩ đại nếu như mục đích bình thường.Đây là quan niệm đúng và rất phù hợp với chúng ta.Trong cuộc sống mỗi người đều có một lí tưởng sống riêng để tự vươn tới,tự hoàn thiện và phát triển bản thân. Bất kì ai cũng cần tự tạo cho mình một lí tưởng và có lòng quyết tâm theo lí tưởng ấy ”. (Bài viết của học sinh) * Kĩ năng viết thân bài Thân bài là phần trọng tâm của bài văn. Nhiệm vụ của phần thân bài là triển khai đầy đủ, chi tiết hệ thống luận điểm, luận cứ để làm sáng tỏ luận đề. Khi viết phần này cần chia thành các đoạn, mỗi đoạn văn là sự triển khai hoàn chỉnh một luận điểm đã được xác định khi lập dàn ý, ngoài ra người viết còn cần phải biết cách viết câu, cách chuyển ý, chuyển đoạn, cách dùng từ, hành văn. Phần thân bài là phần phải dành nhiều thời gian thực hiện nhất trong ba phần. Học sinh nên chú ý phân phối thời gian cho hợp lí khi bố cục phần thân bài. *Ví dụ minh họa. Đề bài: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” (Mặt đường khát vọng) Ở đó tác giả muốn đưa ra một thông điệp gì cho tuổi trẻ? Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày suy nghĩ của mình về vấn trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước hiện nay. Thân bài: -Thông điệp mà Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra với tuổi trẻ qua 4 câu thơ: + Cần có một nhận thức đúng đắn về đất nước: “đất nước là máu xương của mình” + Cần có trách nhiệm với đất nước: “gắn bó và san sẻ” “hóa thân cho dáng hình xứ sở” …biết hi sinh, cống hiến cho đất nước. - Suy nghĩ của bản thân: + Bản thân cần biết nhận thức đúng về đất nước: đất nước gần gũi, thân thuộc , ở quanh ta,ở trong ta, là một phần trong mỗi chúng ta. + Bản thân phải có trách nhiệm chung sức gánh vác nhiệm vụ chung trong công cuộc xây dựng đất nước; sẵn sàng cống hiến trí tuệ, tài năng để đưa đất nước đi lên - Bàn bạc, mở rộng vấn đề: + Thông điệp của tác giả Nguyễn Khoa Điềm vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại đất nước không còn giặc ngoại xâm, thời đại xây dựng nhận thức đúng đắn của thế hệ thanh niên về đất nước, về vai trò và trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước. + Làm thế nào để phát huy được tinh thần trách nhiệm đối với đất nước: học tập tốt, rèn luyện tốt để cống hiến trí tuệ và sức lực; có lối sống lành mạnh luôn sẵn sàng san sẻ mọi khó khăn khi Tổ quốc cần. Khi viết phần thân bài cho đề bài này cần chia tối thiểu 3 đoạn, mỗi đoạn ứng với 3 luận điểm (Thông điệp mà Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra với tuổi trẻ qua 4 câu thơ/ Suy nghĩ của bản thân / Bàn bạc, mở rộng vấn đề). Người viết cần phải vận dụng cách viết câu, cách chuyển ý, chuyển đoạn, cách dùng từ, hành văn để triển khai đày đủ các ý đã định ra ở dàn ý trên. * Kĩ năng viết kết bài Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các cách kết bài sau đây: - Kết bài bằng cách tóm lược: Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm tắt quan điểm, tổng hợp những ý chính đã nêu ở thân bài. Cách kết bài này dễ viết hơn và thường được sử dụng nhiều hơn. - Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên cơ sở quan điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở rộng nâng cao vấn đề. Trên đây là một số kiểu kết bài cần hình thành cho học sinh, tùy vào đối tượng và mục đích nghị luận, người viết có thể chọn một cách kết bài phù hợp. Kĩ năng mở bài và kết bài cũng đã được cụ thể hóa trong một tiết học trong chương trình Ngữ văn 12. *Ví dụ minh họa. Đề bài: Từ cuộc đời của các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân) và “Vợ chồng APhủ” (Tô Hoài), anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về số phận người phụ nữ xưa và nay. - Kết bài bằng cách tóm lược: “Như vậy, các nhân vật nữ trong hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng APhủ” có nhiều điểm chung. Họ đều là những người phụ nữ có số phận bất hạnh, cơ cực nhưng trong tâm hồn họ đều tiềm tàng một sức sống và ý thức vươn lên. Người phụ nữ ngày nay có nhiều khác biệt, họ đã biết khẳng định vị trí của mình trong xã hội và càng ngày càng vươn tới những đỉnh cao mới.” (Bài viết của học sinh) - Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: “Làm thế nào để một nửa thế giới luôn được sống hạnh phúc và ngày càng được hạnh phúc hơn? Làm thế nào để tất cả phụ nữ Việt Nam luôn ngập tràn trong tiếng cười?...Đó là những câu hỏi không dành riêng cho bất cứ ai, không dành riêng cho phái nam mà chính những người phụ nữ cũng phải trả lời chúng” (Bài viết của học sinh) Viết văn nghị luận là thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, khám phá của mình về đối tượng nghị luận giúp người khác cùng hiểu và tin vào vấn đề. Đồng thời người viết cũng thể hiện chính kiến, thái độ, sự đánh giá vấn đề, không ngừng đưa ra những điều chỉnh tích cực. Do đó ngoài những kĩ năng cơ bản trên người viết phải sử dụng kết hợp các thao tác lập luận như phân tích, giải thích, bình luận, chứng minh, bác bỏ… Các thao tác lập luận đã được cụ thể hóa trong các bài học trong sách giáo khoa theo cấu trúc đồng tâm. Các em đã được học các thao tác lập luận từ cấp 2, học sinh cần chú ý xác định thao tác chính và thao tác phụ để sử dụng cho hợp lí giúp bài văn nghị luận đạt được kết quả cao nhất. 3.Các kiểu bài nghị luận xã hội Kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. 3.1.Nhận biết. - Nghị luận về một hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng đạo lí, bên cạnh những nét khác biệt còn rất nhiều điểm tương đồng. Vì vậy học sinh cần nhận diện rõ đề thuộc kiểu bài nào để có cách làm bài phù hợp. - Kiểu bài nghị luận về hiện tượng đời sống thường đề cập đến những hiện tượng nổi bật, tạo được sự chú ý và có tác động đến đời sống xã hội như: + Ô nhiễm môi trường, sự nóng lên của trái đất, nạn phá rừng, thiên tai lũ lụt… + Bạo hành gia đình, Bạo lực học đường, tai nạn giao thông… + Tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục, hiện tượng chảy máu chất xám… + Phong trào tiếp sức mùa thi, giúp đỡ đồng bào lũ lụt, tấm gương người tốt, việc tốt, nếp sống đẹp… 3.2.Một vài lưu ý. - Yêu cầu của kiểu bài này là học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống ( qua việc miêu tả, phân tích nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng…) từ đó thể hiện thái độ đánh giá của bản thân cũng như đề xuất ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời sống. - Cần có cách viết linh hoạt theo yêu cầu của đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc chung chung. Ví dụ: Cùng bàn về vấn đề internet nhưng nếu đề yêu cầu rình bày suy nghĩ về vai trò của internet thì cần nhấn mạnh về vai trò, tác dụng. Còn nếu đề yêu cầu trình bày ý kiến trước hiện tượng “nghiện” internet trong thanh niên hiện nay thì cần chú ý nhiều hơn đến mặt hạn chế và tác động tiêu cực của nó. - Ngoài việc trang bị cho mình những kỹ năng làm bài, học sinh cần tích lũy những vốn hiểu biết thực tế về đời sống xã hội. - 3.3.Các bước làm bài. Bước 1: Miêu tả hiện tượng được đề cập đến trong bài. + Giải thích ( nếu trong đề bài có khái niệm, thuật ngữ hoặc các ẩn dụ, hoán dụ, so sánh…)cần làm rõ để đưa ra vấn đề bàn luận. + Chỉ ra thực trạng ( biểu hiện của thực trạng) Bước 2: Phân tích các mặt đúng – sai, lợi – hại của vấn đề. - Phân tích tác dụng của vấn đề nếu là hiện tượng tích cực. - Phân tích tác hại của vấn đề nếu là hiện tượng tiêu cực. - Phân tích cả hai mặt tích cực và hạn chế nếu đề có cả hai mặt. Bước 3: Chỉ ra nguyên nhân. Bước 4: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá của người viết về hiện tượng. 3.4.Vận dụng. * Gợi ý với dạng bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính chất tiêu cực. Đề bài: Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày ý kiến của anh ( chị) về nạn bạo hành trong xã hội hiện nay. Gợi ý: Bước 1: Miêu tả hiện tượng - Nạn bạo hành- sự hành hạ xúc phạm người khác một cách thô bạo, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đếnsức khỏe, tinh thần của người khác. - Nạn bạo hành thể hiện ở nhiều góc độ, nhiều phương diện của đời sống xã hội: không chỉ là sự hành hạ thể xác người khác bằng bạo lực mà còn hành hạ về tinh thần. - Nạn bạo hành diễn ra trong gia đình, trường học, xã hội; phụ nữ, trẻ em thường là nạn nhân của bạo hành. Bước 2: Nêu nguyên nhân của hiện tượng. - Do bản tính hung hăng, thiếu kiềm chế của một số người Do ảnh hưởng của phim ảnh mang tính bạo lực. Do áp lực cuộc sống. Do sự thiếu kiên quyết trong cách xử lí nạn bạo hành. Bước 3: Tác hại to lớn của hiện tượng. - Làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của con người. - Làm ảnh hưởng tới tâm lí, sự phát triển nhân cách, đặc biệt là cử chỉ. Bước 4: Ý kiến, thái độ của bản thân, đề xuất giải pháp. - Cần lên án đối với nạn bạo hành. - Cần xử lí nghiêm khắc với những người trực tiếp thực hiện hành vi bạo hành. - Cần quan tâm giúp đỡ kịp thời với những nạn nhân của bạo hành. *Gợi ý với dạng bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính chất tích cực. Đề bài: Đồng cảm và sẻ chia là một nếp sống đẹp trong xã hội hiện nay. Hãy viết một bài văn ngắn trình bày ý kiến của anh (chị) về nếp sống ấy. Bước 1: Miêu tả hiện tượng. - Đồng cảm: Là biết rung cảm trước những buồn, vui của người khác, hiểu và cảm thông với những gì đang diễn ra xung quanh cuộc đời mình, luôn đặt mình trong hoàn cảnh của mọi người để nhìn nhận vấn đề, từ đó thể hiện thái độ quan tam của mình. - Sẻ chia: cùng người khác sẻ chia niềm vui, nỗi buồn, sẵn sàng có mặt khi người khác cần.Không tỏ thái độ thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của người khác cũng như không ganh ghét, đố kị, nhạo báng vinh quang, niềm vui của họ. - Đồng cảm, sẻ chia là nếp sống đẹp, là lối sống được coi trọng trong xã hội ta hiện nay. Bước 2: Nguyên nhân của hiện tượng. - Lối sống đồng cảm, sẻ chia bắt nguồn từ truyền thống nhân ái của dân tộc ta: : “Lá lành đúm lá rách”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… - Xã hội ngày càng phát triển, nhiều lối sống hiện đại được du nhập vào nước ta nhưng nhân dân ta vẫn giữ được lối sống đồng cảm, sẻ chia. Bước 3: Tác dụng của lối sống. - Làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn. - Làm cho một dân tộc, một đát nước trở nên vững mạnh. - Phê phán lối sống ích kỷ, vô cảm do bị cuốn theo những tham vọng vật chất của nhiều người trong xã hội hiện nay. Bước 4: Liên hệ bản thân - Phải biết sống đồng cảm, sẻ chia không chỉ trong suy nghĩ, tình cảm mà phải hành động thực tế . - Có tinh thần giúp đỡ, hi sinh cho những người xung quanh mình. * Gợi ý với dạng bài về hiện tượng đời sống vừa có tính chất tích cực vừa có tính chất tiêu cực. Kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. 1. Một vài lưu ý chung -Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng, đạo lí trong cuộc đời. - Đề tài về văn nghị luận rất phong phú, gồm những vấn đề như : +Về nhận thức ( lí tưởng , mục đích sống) +Về tâm hồn,tính cách( lòng nhân ái, vị tha, độ lượng…, tính trung thực ,dũng cảm chăm chỉ , cần cù ,vị tha , … + Về quan hệ gia đình : Tình mẫu tử , tình anh em…, Quan hệ xã hội : Tình thày trò , tình bạn, tình đồng bào… - Đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí khá đa dạng: +Có thể nêu rõ yêu cầu nghị luận , có thể chỉ đưa ra vấn đề nghị luận mà không đưa ra yêu cầu cụ thể nào. + Có đề nêu trực tiếp vấn đề nghị luận, có đề gián tiếp đưa ra vấn đề nghị luận qua một câu danh ngôn , một câu ngạn ngữ , một câu chuyện… Vì vậy học sinh cần nắm chắc kĩ năng làm bài. - Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là : + Sử dụng thao tác lập luận giải thích để làm rõ ý nghĩa vấn đề, các nghĩa nghĩa tường minh, hàm ẩn ( nếu có ) + Sử dụng thao tác lập luận phân tích để chia tách vấn đề thành nhiều khía cạnh , nhiều mặt , chỉ ra các biểu hiện cụ thể của vấn đề . + Sử dụng thao tác lập luận chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề. Dẫn chứng lấy từ thực tế , có thể lẩy trong thơ văn nhưng không cần nhiều ( tránh lạc sang nghị luận văn học ). + Sử dụng thao tác lập luận so sánh , bình luận , bác bỏ đẻ đối chiếu với các vấn đê khác cùng hướng hoặc ngược hướng , phủ định cách hiểu sai lệch , bàn bạc tìm ra phương hướng… 2.Các bước cơ bản. Bươc 1 : giải thích tư tư tưởng , đạo lí. Bước 2 : Bàn luận - phân tích mặt đúng. -bác bỏ ( phê phán ) những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề Bước 3: Mở rộng. -Mở rộng bằng cách giải thích và chứng minh. -Mở rộng bằng cách đào sâu thêm vấn đề. -Mở rộng bằng cách lật ngược vấn đề. Người tham gia nghị luận đưa ra mặt trái của vấn đề.Phủ nhận nó là công nhận cái đúng,ngược lại ,nếu vấn đề bình luận là sai hãy lật ngược bằng cách dưa ra vấn đề đúng.Bảo vệ cái đúng cũng có nghĩa là phủ dịnh cái sai. Trong các bước mở rộng ,tuỳ vào từng trường hợp và khả nưng của mình mà áp dụng cho tốt ,không nên cứng nhắc. Bước 4 : Nêu ý nghĩa ,rút ra bài học nhận thức và hành động. 3.Ví dụ minh họa Đề bài : Có ý kiến cho rằng :’’ học vấn không có quê hương nhưng người co học vấn phải có tổ quốc”. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên. Gợi ý. B1: Giải thích . - “Học vấn không có quê hương “ : Tri thức , thành tựu khoa học …là của chung nhân loại , con người có thể học tập ,lĩnh hội mà không cần phân biệt nó là của quốc gia nào. - Nhưng người có học vấn phải có tổ quốc” : mỗi người trí thức đều được sinh ra ở một quê hương , một đất nước vì thế cần phải yêu và có trách nhiệm vói tổ quốc mình - Tóm lại : mõi người có thể học tập tiếp thu tri thức của cả nhân loại nhưng trong lòng phải có tổ quốc. B2 : Bàn luận : - Tại sao con người có thể học tập tiếp thu tri thức mà không cần phân biệt nguồn gốc quốc gia của tri thức đó? ( Vì tri thức là của chung tất cả mọi người, góp phần phục vụ cho con người …) - Tại sao người có học vấn phải có quê hương? ( tình yêu tổ quốc , tinh thần tụ hào dân tộc…) - Nếu người trí thức không có quê hương thì sao? - Thể hiện tình yêu quê hương người co học vấn phải làm gì ? B3: Mở rộng . - Không phải chỉ những người có học thức mới có tình yêu tổ quốc. Có nhiều cách thể hiện tình yêu tổ quốc : Tấm lòng luôn hướng về quê hương , ý thức giữ gìn nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc, cống hiến những thành tích thể thao , âm nhạc… - Đặt câu nói vào thời kì hội nhập của đất nước : Nhiều người sống trên quê hương mà đánh mất quê hương : Đua đòi, chạy theo lối sống lai căng làm xấu đi hình ảnh đât nước trong con mắt bạn bè quốc tế. B4: Liên hệ bản thân. - Có ý thức vươn lên trong học tập. - Có tinh thần tự hào dan tộc. 4.Vận dụng các dạng đề bài cụ thể. a.Dạng đề trong đó tư tương đạo lí được nói đến một cách trực tiếp. Ví dụ : bàn về sự tự tin, lòng tự trọng của con người trong cuộc sống, tinh thần tự hào dân tộc … Cách làm bài dạng này cơ bản giống với hướng dẫn nói trên: - Giải thích. - Phân tích những biểu hiện. - Bác bỏ , phê phán những biểu hiện sai lệch liên quan đến vấn đề. - Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân. b. Dạng đề trong đó tưởng đạo lí được nói tới một cách gián tiếp. *Những lưu ý về cách làm bài: - Ở dạng đề này tưởng đạo lí được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện ,một văn bản ngắn. - Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện trong những cau danh ngôn, tục ngữ ngạn ngữ,…Ý nghĩa ẩn dụ , triết lí sâu sắc của câu chuyện. Để rút ra được vấn đề tưởng đạo lí cần bàn luận cần chú ý : + Giải thích từ ngữ ( nghĩa đen , nghĩa bóng ) , từ đó rút ra nội dung câu nói.( Nếu đễ bài dẫn câu danh ngôn , tục ngữ , ngạn ngữ…) + Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản( Nếu đề có dẫn câu chuyện , văn bản ngắn ) - Cần chú ý đến tính chất đúng đắn của vấn đề kết hợp với thao tác bổ sung, bác bỏ…những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của vẩn đề. - Không được sa vào phân tích câu danh ngôn ,ngạn ngữ ,câu chuyện , văn bản… như trong một bài nghị luận văn học. *Ví dụ minh họa. Ví dụ 1. Đề bài : “ Sứ mạng của người mẹ không phải là làm chỗ dựa cho con cái mà là làm cho chỗ dựa ấy trở nên không cần thiết” (B.Babbles) Gợi ý: B1: Giải thích. - “Sứ mệnh” : Vai trò lớn lao, cao cả của cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái. - “Người mẹ”: Người sinh ra con cái , rộng hơn đó chính là mái ấm gia đình. - “ Chỗ dựa cho con cái”: nơi che chở , yêu thương , là nơi con cái có thể nương tựa. Ý nghĩa cả câu : Câu nói đã đưa ra quan điểm giáo dục của cha mẹ với con cai hết sức thuyêt phục : Vai trò của cha mẹ không chỉ nằm trong việc dạy dỗ con mà quan trọng hơn là làm sao để con cái biết sống chủ động , tích cực , không dựa dẫm… B2: Bàn luận. - Phân tích mặt đúng: + Tại sao đólà quan điểm đúng đắn : Cuộc sống có rất nhiều trở ngại trông gai mà con người cần phải vượt qua. Nếu con người chưa từng được rèn luyện , không phải đối mặt với bất kì trong gai nào thì rất dễ gục ngã Vì vậy cần dạy con cái cách sống tự lập. + Dạy con như thế nào ? .Dạy từ việc nhỏ nhất như chăm sóc bản thân đến việc học tập ,đến những vấn đề phức tạp hơn . theo thời gian con cái sẽ được tôi luyện , tích lũy kinh nghiệm, vững vàng hơn,trưởng thành hơn. . Dẫn chứng cách dạy con của người Nhật. - Phê phán. + Nhiều phụ huynh nuông chiều con quá mức khiến con cái mất đi ý thức tự lập. Hậu quả : trước khó khăn của cuộc sống thường mất phương hướng, lúng túng , bi quan ,vô dụng , hành động nông nổi thiếu suy nghĩ. + Hoặc phó mặc con cái một cách tự nhiên theo kiểu “trời sinh tính” , không quan tâm uốn nắn con cái. B3: Mở rộng. + Cha mẹ cần luôn ở bên cạnh con nhưng cũng cần tạo cho con những “khoảng lặng”Cần thiết cho đứa trẻ tự suy ngẫm , tự quyết định việc mình đang làm. + Đặt vấn đề vào xã hội hiện nay thì quan điểm trên vô cùng đúng đắn. B4: Liên hệ, rút ra bài học. + Bản thân luôn phải cố gắng không dựa dẫm vào sự giúp sức của bất kỳ ai. Tình thương của cha mẹ là nguồn động viên chứ không phải là vỏ bọc để lẩn tránh mọi trở ngại trên đường. + Cần tạo được sự yên tâm của cha mẹ với mình, cần khẳng định được bản thân. Ví dụ 2. Đề bài. Chiếc bình nứt. Một người có hai chiếc bình lớn để chuyển nước.Một trong hai chiếc bình bị nứt nên khi gánh từ giếng về , nước trong bình chỉ còn một nửa.chiếc bình lành rất hãnh diện về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc bình nứt luôn dằn vặt , cắn rứt vì không hoàn thành nhiệm vụ. Một hôm chiếc bình nứt nói với ông chủ : “ Tôi thực sự thấy xấu hổ về mình … Tôi muốn xin lỗi ông… Chỉ vì tôi bị nứt mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức mà ông bỏ ra.” “ Không đâu – ông chủ trả lời – khi đi về ngươi có chú ý tới những luống hoa bên đường không ? Ngươi không thấy hoa chỉ mọc bên này đường phía đường của nhà ngươi sao ? Ta đã biết được vết nứt của nhà ngươi nên đã gieo hạt giống hoa bên ấy. Trong những năm qua , ta đã vun xới cho chúng và hái chúng về để trang hoàng căn nhà. Nếu không có ngươi nnhaf ta có ấm cúng và duyên dáng như thế này không?”. Cuộc sống của mỗi chúng ta đều có thể như chiếc bình nứt. Anh( Chị) có đồng ý với câu kết của văn bản trên không? Gợi ý: B1. Từ câu chuyện cần làm rõ vấn đề nghị luận. - tóm lược nội dung chính của câu chuyện. - Giải thích : “ vết nứt ”: tượng trưng cho những gì khiếm khuyết , không trọn vẹn trong bản thân mỗi con người. Mỗi chúng ta – dù không hoàn hảo như chiếc bình lành nhưng , ai cũng có giá trị riêng , những đóng góp riêng cho xã hội. Điều đó làm nên sự khác nhau của mỗi người trong cuộc đời. B2. Bàn luận. - Trong cuộc đời không mấy ai là người toàn thiện , toàn mĩ. Nhưng khiếm khuyết , hạn chế có thể làm ta mặc cảm, dằn vặt. - Nhưng đằng sau những khiếm khuyết ấy mỗi người luôn có già trị riêng. Dẫn chứng : + Tấm gương về Nguyễn Ngọc Kí. - Cần hiểu về bản thân , biết điểm mạnh , điểm yếu của chính mình để tự hoàn thiện. B3. Mở rộng. - cuộc sống không có gì là hoàn hảo , không có gì là tuyệt đối – như chiếc bình lành tưởng chừng rất hoàn hảo , nhưng hóa ra nó khuyết ở chỗ không thể làm những luống hoa bên đường mọc lên. Hai chiếc bình đã bổ khuyết cho nhau vừa giúp ông chủ có nước đầy vừa có những luống hoa xinh đẹp. - Con người cũng vậy , không ai là người hoàn hảo nên con người cần tìm đến nhau , bổ khuyết cho nhau. - Mỗi người khi đối diện với những khiếm khuyết của chính mình cần học cách chấp nhận , đồng thời cần biết hướng đến những điều tốt đẹp của bản thân. B4. Liên hệ bản thân. - Cần ý thức được điểm mạnh và khiếm khuyết của bản thân để tự hoàn thiện mình. - Biết nhìn vào người khác để học , để lấy đó làm gương , làm động lực hoàn thiện mình,không nên mặc cảm ,tự ti hay kiêu ngạo, coi thường người khác. CÁCH LÀM DẠNG BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC 1.Một vài lưu ý chung. - dạng bài nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học là một dạng đề tích hợp giữa làm văn và đọc văn. - Cần thấy rõ đây là kiểu bài nghị luận xã hội chứ không phải là nghị luận văn học. Tác phẩm văn học chỉ là “ cái cớ” khởi đầu.Mục đích chính của kiểu bài này là yêu cầu người viết bàn bạc nghị luận về một vấn đề xã hội ,tư tưởng,nhân sinh đặt ra trong tác phẩm đó mà bàn luận ,kiến giải. 2. Diễn giải sơ đồ cấu trúc tổng quát cách làm cho dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học như sau: Cũng giống như bố cục thông thường của một bài văn nghị luận, dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học triển khai bố cục ba phần : Mở bài, Thân bài, Kết luận: MỞ BÀI: Phần mở bài cần giới thiệu được vấn đề nghị luận ở dạng khái quát nhất và định hướng đi, phạm vi của bài viết. THÂN BÀI: Bài viết cho dạng này, ở phần thân bài thường gồm hai nội dung lớn: - Phần một: Phân tích, giới thiệu và nêu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. + Nếu đề văn nêu sẵn vấn đề rút ra từ một tác phẩm đã học, thì phân tích qua vấn đề ấy đã được thể hiện như thế nào trong tác phẩm. + Nếu đề nêu một văn bản chưa học, không cho sẵn vấn đề, thì cần đọc hiểu, phân tích để rút ra vấn đề xã hội và ý nghĩa của vấn đề trước khi vào phần hai. - Phần hai (trọng tâm): Nghị luận về vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện). Khi đã có vấn đề (đề tài, chủ đề) cần bàn bạc rồi, thì mới bắt đầu làm bài nghị luận xã hội, nêu lên suy nghĩ của bản thân mình về vấn đề ấy. KẾT BÀI: Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải quyết ở thân bài, góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn. 3.Vận dụng cấu trúc tổng quát. Đề bài : Em hiểu thế nào là kiểu người Bê-li-cốp sau khi học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khốp? Theo em, ở tầng lớp thanh niên trong xã hội hiện nay có còn kiểu người đó? Em có thái độ và hành động như thế nào với lối sống trong bao? Dàn ý Mở bài: - Giới thiệu về nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn “Người trong bao”. - Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: một lối sống hèn nhát, thu mình Thân bài: - Kiểu người Bê-li-cốp là như thế nào?(sống hèn nhát, thu mình, ích kỉ) + Biểu hiện ở lối sống, quan điểm, tư tưởng, tình cảm + Nguyên nhân dẫn đến lối sống đó: nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan + Tác hại của lối sống đó với bản thân và với cộng đồng - Trong xã hội hiện nay: + Thanh niên phải sống mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm + Còn một bộ phận thanh niên sống thu mình, hèn nhát, ích kỉ: biểu hiện? tác hại? - Thái độ và hành động của bản thân với lối sống trong bao. + Thái độ của bản thân: cần lên án, bài trừ lối sống đó. + Hành động: Với bản thân: sống mạnh dạn, dám thử sức, dám đấu tranh, dám tiếp thu cái mới. Với cộng đồng: gần gũi, giúp đỡ những kẻ sống hèn nhát. Kết bài: - Đánh giá ý nghĩa của vấn đề - Bài học đối với bản thân 4.Giới thiệu một số đề làm văn nghị luận tự luyện về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học ở lớp 12: Trong khuôn khổ một bài viết, tôi xin đưa ra một số đề nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học, các đề văn này gắn với những tác phẩm nằm trong chương trình ôn tập thi tốt nghiệp và thi đại học của các em học sinh. Đề 1. Bài viết “ Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ của dân tộc” của tác giả Phạm Văn Đồng giúp em được chiêm ngưỡng ánh sáng khác thường từ nhân cách của ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu. Em có suy nghĩ gì về nhân cách ấy? Trong cuộc sống đầy cám dỗ hiện nay em học được điều gì cho nhân cách của bản thân từ tấm gương của cụ Đồ Chiểu? Qua bài thơ “Bên kia sống Đuống” của Hoàng Cầm, em có suy nghĩ như thế nào về việc gìn giữ bản sắc văn hóa xứ Kinh Bắc? Nhà thơ Chế Lan viên có viết: “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu) Em có suy nghĩ gì về quy luật tâm lí trên? Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày quan điểm của mình về quy luật tình cảm đó. Nguyễn Khoa Điềm có viết :“Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” (Trích “Mặt đường khát vọng”) Ở những câu thơ trên em thấy Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra một thông điệp gì cho tuổi trẻ? Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề trên? Từ lí tưởng sống cao quý của người lính Tây Tiến, em có suy nghĩ như thế nào về lí tưởng sống của thanh niên hiện nay? Tình thương bà và nỗi ân hận của người cháu được thể hiện trong bài thơ “Đò Lèn” của tác giả Nguyễn Duy đem đến cho em bài học gì về tình cảm gia đình? Theo em, trong cuộc sống cấp tập hiện nay, tình cảm gia đình có ý nghĩa như thế nào trong việc hình thành nhân cách, tình cảm của lớp trẻ? Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh giúp em hiểu gì về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam hiện đại? Tìm hiểu mối quan hệ kế thừa- phát triển giữa con người “kẻ sĩ hiện đại” với con người “nho sĩ truyền thống”. “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” (Lưu Quang Vũ- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”). Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề này. “Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết” (Cô-Phi-An-Nan). Quan niệm của anh (chị) về vấn đề này. Từ cuộc đời của các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân) và “Vợ chồng APhủ” (Tô Hoài), anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về số phận người phụ nữ xưa và nay. Từ chuyện gia đình trong các tác phẩm “Một người Hà Nội” (Nguyễn Khải) và “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu), bàn về vai trò của gia đình trong cuộc sống mỗi con người. Truyện ngắn “Một người Hà Nội” giúp em hiểu gì về vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa của người Hà Nội? Trong “cơn lốc thời đại” này, em cần phải làm gì để góp phần gìn giữ cốt cách, bản sắc văn hóa người Hà Nội? “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đề cập đến một vấn đề có tính chất nhức nhối trong xã hội hiện nay: nạn bạo hành gia đình. Em có những hiểu biết gì về tệ nạn trên? Theo em,thanh niên hiện nay cần nghĩ gì và làm gì để góp phần chấm dứt tệ nạn đó? Với “Mùa lá rụng trong vườn” của nhà văn Ma Văn Kháng, em có nhận thức như thế nào về tác động của truyền thống gia đình với việc hình thành nhân cách của con người? Trong xã hội hiện nay, thanh niên cần suy nghĩ và hành động như thế nào để gìn giữ và phát huy truyền thống gia đình? Qua câu chuyện của ông lão đánh cá Xan-chia-gô (trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của nhà văn Hê-ming-uê), anh (chị) có suy nghĩ như thế nào về niềm tin,ý chí và nghị lực của con người? Theo anh (chị), thanh niên hiện nay cần phải nhận thức như thế nào về niềm tin, ý chí và nghị lực để hòa nhập với cuộc sống? Từ tác phẩm “Số phận con người” của nhà văn Nga Sô-lô-khốp, nghĩ về nghị lựcvà lòng nhân ái của con người trong cuộc sống.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan