Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn các biện pháp phòng chống béo phì cho trẻ...

Tài liệu Skkn các biện pháp phòng chống béo phì cho trẻ

.DOC
18
3280
82

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BÉO PHÌ CHO TRẺ” I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với sự phát triển chung của xã hội, mỗi người chúng ta ngày nay đều có cuộc sống đầy đủ sung túc hơn. Chính vì vậy trẻ em ngày nay được hưởng sự chăm sóc đặc biệt của gia đình và toàn xã hội, nhiều người cho rằng có điều kiện cho con ăn nhiều là tốt; con mình càng mập mạp, càng bụ bẫm thì càng tốt hơn, nên đến khi cha mẹ phát hiện con mình thừa cân quá nhiều thì đã muộn. Trong lúc mức độ báo động và cần thiết sự quan tâm của xã hội đối với trẻ thừa cân béo phì hiện nay được ưu tiên hàng đầu. Là một cán bộ phụ trách mãng công tác bán trú của một trường mầm non tôi đã suy nghĩ và có nhận thức như sau: Giáo dục mầm non là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, là tiền đề cho sự phát triển toàn diện về đức, trí, thể mỹ của con người. Sự phát triển của con người bắt đầu từ những ngày thơ ấu; đây là điểm nút góp phần hình thành nhân cách cho trẻ. Do vậy, bậc học mầm non phải có nhiệm vụ phát triển toàn diện về mọi mặt; trong đó chăm sóc sức khỏe mầm non là một điều kiện cần thiết. Bởi vì, trẻ em lớn lên thông qua 2 quá trình tăng trưởng và phát triển, hai quá trình này tuy khác nhau, nhưng có mối quan hệ phụ thụôc vào nhau, tác động qua lại với nhau. Nếu một đứa trẻ sức khỏe tốt là cơ sở cho sự phát triển về nhân cách. Do đó, nhiệm vụ trọng tâm của trường mầm non là phải kết hợp hài hòa giữa giáo dục nâng cao sức khỏe với phát triển các mặt vận động, tâm lý của trẻ. Chăm sóc sức khỏe cho trẻ, đảm bảo các điều kiện về chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt hàng ngày như: ăn, ngủ, vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường thoáng mát, an toàn đối với trẻ, để phòng chống các loại vi khuẩn và khám bệnh định kỳ cho trẻ; gắn với giáo dục tâm lý, tình cảm, bồi dưỡng năng lực nhận biết về thế giới xung quanh, về các biện pháp vận động thể lực cho trẻ. Sức khỏe của trẻ em phụ thụôc vào rất nhiều yếu tố như chế độ dinh dưỡng, phòng bệnh, di truyền, môi trường … trong đó, chế độ dinh dưỡng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của trẻ em; thiếu ăn, ăn không đủ chất, ăn không hợp lý dẫn đến trẻ suy dinh dưỡng và ngược lại nếu cho trẻ ăn quá mức cần thiết, ăn quá nhiều thức ăn, tỷ lệ mỡ và thức ăn béo trong khẩu phần ăn quá cao, chế độ ăn ít thay đổi, hoạt động thể lực ít cũng dẫn đến trẻ thừa cân, béo phì … đều gây tác hại cho sức khỏe của trẻ sau này. Từ nhận thức “Sức khỏe trẻ em hôm nay là sự phồn vinh của đất nước ngày mai”, sức khỏe ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực trí tuệ, là yếu tố quyết định đến sự phát triển của trẻ sau này. Sức khỏe là một yếu tố không thể thiếu của con người. Để thế hệ trẻ được khỏe mạnh, thông minh sáng tạo, có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc nuôi dạy trẻ là yêu cầu rất lớn. Hiện nay tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em đang tăng lên với một tốc độ báo động không những ở các nước phát triển mà ở cả những nước đang phát triển. Béo phì thường đi kèm theo tỷ lệ bệnh tật do các bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, viêm xương khớp… trẻ em béo phì một yếu tố nguy cơ. Béo phì ảnh hưởng đến sự linh hoạt, sáng tạo, sự phát triển của trẻ. Béo phì là trình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ do sự thừa năng lượng trong khẩu phần ăn hàng ngày so với nhu cầu tiêu hao của cơ thể. Đối với trẻ béo phì đều trở thành người lớn béo phì, nên đều có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, bệnh huyết áp, bệnh viêm khớp, bệnh tiểu đường … Trẻ em béo phì thường xuyên có cảm giác kém cỏi do chứng hạn chế và bị cách ly với các bạn khác, ảnh hưởng tới sinh hoạt và học tập, trẻ béo phì thường được người khác nựng nịu, dòm ngó, trẻ tự cho mình là “xấu xí” và có mặc cảm, có tác hại cho trẻ về nhiều mặt. Sự gia tăng tình trạng béo phì ở trẻ em đòi hỏi chúng ta phải có một sự quan tâm và hành động kịp thời. Xác định được tầm quan trọng đó và thực trạng hiện nay, song hành với trẻ suy dinh dưỡng thì nhà trường hiện đang phải thực hiện chế độ chăm sóc trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì.. Với đề tài “Thực hiện một số biện pháp phòng chống và điều trị trẻ béo phì” đã thực hiện ở năm học 2007-2008 thấy có một số kết quả rất khả quan, và trước thực trạng hiện nay qua khảo sát đầu năm học 2008- 2009 cũng vậy, ở trường trẻ có nguy cơ béo phì và có trẻ đã bị béo phì, nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phòng chống béo phì ở trẻ mầm non” II- THỰC TRẠNG Ở TRƯỜNG: - Trường mầm non Hoa Hồng là một trường bán trú, nên công tác chăm sóc- nuôi dưỡng- giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Xác định được tầm quan trọng đó và thực trạng hiện nay ở trường trẻ có nguy cơ béo phì và béo phì. Bản thân là Hiệu phó phụ trách công tác bán trú, tôi không thể nào không quan tâm đến vấn đề này, và luôn trăn trở cần tìm nhiều biện pháp chăm sóc trẻ tốt hơn và làm sao để trẻ không bị thừa cân béo phì, phát triển một cách toàn diện cả về trí lực và thể lực. * Thuận lợi: - Trong những năm gần đây nhờ sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước cũng như của xã hội đối với ngành Giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng đã có bước chuyển biến đáng kể về điều kiện cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị dạy và học. - Đội ngũ cán bộ- giáo viên- nhân viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhịêt tình trong công tác nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ. 100% giáo viên được chuẩn hoá theo quy định và tay nghề từng bước được nâng lên. - Tất cả giáo viên ở trường được tham gia qua các lớp học tập huấn nghiệp vụ về chăm sóc sức khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ do ngành Giáo dục tổ chức. - Đa số phụ huynh có ý thức, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục trẻ tại gia đình. Biết phối hợp giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc trẻ tốt hơn. * Khó khăn: - Đội ngũ cấp dưỡng trong trường chưa qua lớp đào tạo nấu ăn, chủ yếu thông qua kinh nghiệm hoạt động thực tiễn là chính, nên việc tiếp thu, nắm bắt qua phổ biến, tập huấn về chế độ dinh dưỡng của nhà trường có phần còn hạn chế. Mặt khác, đa số các chị cấp dưỡng lớn tuổi nên việc tham gia học tập kiến thức nuôi dạy trẻ có nhiều khó khăn nhất định. - Một bộ phận phụ huynh ở trường thường hay cưng chiều con quá mức trong việc ăn uống, cha mẹ dùng những thực phẩm không thích hợp để làm yên những đứa trẻ hiếu động, quấy khóc, hoặc dùng thức ăn mà trẻ yêu thích như: (kẹo, bánh, Snack, Socola …). * Khảo sát thực trạng: - Đầu năm học 2007- 2008, tôi chỉ đạo và phát biểu đồ tăng trưởng cho giáo viên từng nhóm, lớp lập biểu đồ tăng trưởng cân đo vào ngày 15/9/2007. Sau đó, tôi kiểm tra biểu đồ tăng trưởng và dựa vào bảng đánh giá chiều cao, cân nặng để đánh giá trẻ có suy dinh dưỡng và trẻ có béo phì hay không? và nắm số liệu, qua khảo sát kết quả như sau: + Có 8 cháu bị thừa cân, béo phì. + Có 10 cháu nguy cơ bị thừa cân- béo phì. - Năm học 2008-2009 cũng vào ngày 15/9/2008 cho giáo viên từng nhóm, lớp lập biểu đồ tăng trưởng cân đo. Sau đó, tôi kiểm tra biểu đồ tăng trưởng và dựa vào bảng đánh giá chiều cao, cân nặng để đánh giá trẻ có suy dinh dưỡng và trẻ có béo phì, cập nhật kết quả và phân loại sức khỏe trẻ. Qua số liệu thực tế: + Có 13 cháu bị thừa cân, béo phì. + Có 12 cháu nguy cơ bị thừa cân- béo phì. - Qua số liệu qua khảo sát đầu năm học 2008-2009 cho thấy số trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì tăng hơn so với năm học trước, là do số cháu mới nhập học vào trường, đồng thời cũng có một số trẻ đã học ở trường năm cũ và đã được trường thực hiện biện pháp phòng chống trẻ béo phì đã có tốc độ giảm dần, nhưng 3 tháng hè trẻ ở nhà với cha mẹ khi nhập học vào trường, tháng 9/2009 cân đo thì thấy trẻ tăng cân quá mức độ. Vì thế tôi phải tìm hiểu nguyên nhân do đâu? Vì sao? - Trước hết tôi gặp trực tiếp cha mẹ trẻ hỏi về tình hình 3 tháng hè cháu ở nhà về việc chăm sóc trẻ như thế nào, sinh hoạt ngày của trẻ ra sao … và nhất là chế độ ăn uống của trẻ, thì biết được là do phụ huynh quá nuông chiều con, thậm chí cho con ăn bánh kẹo nhiều, uống nước ngọt, ăn không đúng thời gian, ăn cơm quá nhiều, ít tập thể dục, xem ti vi phim họat hình nhiều…, có nhiều phụ huynh còn cho rằng ở trường trẻ nghe lời cô giáo nên việc học tập, ăn uống của trẻ có nề nếp, còn về nhà trẻ không lời bố mẹ nên rất khó dạy con được. - Xuất phát từ thực trạng trên, tôi suy nghĩ cần tìm nhiều giải pháp tiếp tục thực hiện biện pháp phòng chống và điều trị trẻ béo phì trong năm học này. III- BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG VÀ ĐIỀU TRỊ TRẺ BÉO PHÌ VÀ CÓ NGUY CƠ BÉO PHÌ: 1- Trách nhiệm của Hiệu phó bán trú: Sau khi nắm tình hình số trẻ béo phì, tôi tổng hợp số liệu báo cáo với Hiệu trưởng và có kế hoạch đề ra một số biện pháp như sau: - Họp Hội đồng thông báo lại tình hình quả kết quả cân đo ngày 15/9, ở khối mầm, chồi, lá cho giáo viên 3 khối nắm lại danh sách trẻ cũ và trẻ mới tuyển vào bị béo phì và có nguy cơ béo phì. Sau đó tôi phổ biến biện pháp thực hiện đối với những trẻ bị béo phì và có nguy cơ béo phì hướng dẫn cấp dưỡng nấu ăn riêng và giáo viên tổ chức cho trẻ ăn theo thực đơn riêng …; đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để có chế độ ăn phù hợp cho trẻ tại gia đình, giáo viên chú ý thường xuyên cho trẻ tham gia các hoạt động thể dục, thể thao. - Trên cơ sở được sự thống nhất của Ban giám hiệu, hội đồng nhà trường, tôi đã tổ chức họp phụ huynh thông báo danh sách những trẻ béo phì và có nguy cơ bị béo phì cho phụ huynh biết; đồng thời tổ chức họp riêng những phụ huynh có con bị nguy cơ béo phì và béo phì để phối hợp một số biện pháp thực hiện trong năm học. - Tôi nghĩ muốn biện pháp này có kết quả, cần phải có sự kết hợp với nhiều đối tượng khác để cùng nhau chăm sóc trẻ thì mới đạt hiệu quả cao, nhất là những người đang làm công tác nuôi dưỡng trẻ cần phái có cái tâm thật sự tốt, thật sự yêu nghề, và lòng kiên nhẫn thì mới thực hiện được. - Tôi phải thường xuyên sưu tầm những tranh ảnh, tài liệu, trên mạng, trang Web cập nhật thông tin để phổ biến cho giáo viên nắm và tuyên truyền cho phụ huynh biết. * Có kế hoạch thay đổi dần chế độ ăn uống cho trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì bằng cách: - Giảm năng lượng đưa vào khẩu phần ăn từng bước một, mỗi tháng giảm khoảng 50 Cala so với khẩu phần ăn trước đó cho đến khi đạt năng lượng tương ứng, đặc biệt là giảm chất béo, đường ngọt, tăng chất xơ trong các bữa ăn, nhưng vẫn đảm bảo cho trẻ được ăn no, đủ chất và khỏe mạnh thật sự. - Đối với những trẻ béo phì rồi thì phải hạn chế dầu mỡ trong bữa ăn chứ không phải là cấm ăn dầu mỡ. Vì dầu mỡ ngoài cung cấp năng lượng còn là dung môi hòa tan các loại vitamin tan trong dầu như Vitamin A phòng bệnh khô mắt giúp trẻ phát triển thể lực, Vitamin D chống bệnh còi xương, Vitamin K,E tham gia vào nhiều chức phận trong cơ thể. Vì thế, khẩu phần ăn của những trẻ này tôi giảm bớt dầu, mỡ, cơm bằng cách thêm rau, củ, quả, ít ngọt để đảm bảo các cháu vẫn có cảm giác no mà không thừa năng lượng. Thường xuyên thay đổi thực phẩm, kết hợp nhiều loại thực phẩm, món ăn hỗn hợp để trẻ ăn nhiều rau xanh, nhưng rất chú ý đến 10 cặp thực phẩm xung khắc và thường xuyên thay đổi cách chế biến các món ăn, thực đơn cho trẻ để tránh béo phì. - Vì thế thực đơn tôi lên riêng cho những trẻ béo phì vẫn cho trẻ ăn đầy đủ chất đạm, Vitamin và muối khoáng. Ăn cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật. Cho ăn các loại thịt nạc, tăng cường sử dụng các thức ăn ít béo có sẵn ở địa phương, rẻ tiền và chất lượng như: cá, tôm, tép, cua, đậu phụ, lạc vừng, … nhưng mới đầu chỉ thay đổi từ từ để trẻ quen dần và phân công cấp dưỡng nấu ăn riêng cho trẻ béo phì và hướng dẫn cấp dưỡng cách chế món ăn, dù trẻ ăn theo chế độ riêng nhưng vẫn cảm thấy thích thú trong bữa ăn. - Đồng thời chỉ đạo giáo viên lưu ý cho trẻ hạn chế ăn các loại bánh kẹo, đường, mật, kem, sữa đặc có đường, sữa béo (vì cung cấp nhiều năng lượng). Nhưng thay vào đó tôi cho trẻ uống sữa bột tách bơ, sữa đậu nành, sữa chua. Tôi kiểm tra thường xuyên giờ ăn của trẻ xem khi thay đổi chế độ ăn thì trẻ ăn có ngon miệng không, giáo viên, cấp dưỡng thực hiện như thế nào để phát hiện kịp thời và uốn nắn những sai lệch xảy ra. * Phổ biến chỉ đạo cho giáo viên nên tăng cường cho trẻ hoạt động thể dục, thể thao bằng cách: - Đối với trẻ béo phì, điều quan trọng là vận động để tiêu hao năng lượng chứ không phải là nhịn ăn để giảm béo bằng cách khuyến khích trẻ tham gia các môn thể dục thể thao như: giáo viên tổ chức trong các giờ chơi cho những trẻ này có thể chơi những trò chơi như: chạy, nhảy dây, đá bóng, đi bộ, trò chơi dân gian (cướp cờ, mèo đuổi chuột, trốn tìm …). Do vậy, tôi chỉ đạo giáo viên tổ chức các họat động vui chơi ngoài trời. Hạn chế xem tivi, video. Nhưng phải chú ý sinh hoạt, vui chơi phải điều độ, thể dục thể thao, lao động có giới hạn, không quá sức của trẻ. Khuyến khích trẻ tham gia lao động tự phục vụ: tự rữa mặt, rữa tay … cô không nên bắt trẻ ngồi học quá nhiều, đồng thời phải thương yêu, khuyến khích trẻ, giải thích cho những trẻ khác trong lớp hiểu đề cùng giúp đỡ, động viên trẻ béo phì, tránh chọc ghẹo, chê bai bạn. - Qua khảo sát có 25 cháu bị béo phì và nguy cơ béo phì nhưng ở các khối mầm và chồi, lá tôi đã phân công cho giáo viên kết hợp dẫn trẻ đi bộ với (hình thức giống như đi tham quan) hàng ngày như, ví dụ: tôi phân công tuần 1 giáo viên phụ khối mầm dẫn trẻ đi bộ, tuần 2 giáo viên phụ lớp chồi, tuần 3 giáo viên phụ lớp lá dẫn trẻ đi bộ 15’ vào giờ đón trẻ buổi sáng cứ như thế phân công xoay vòng. * Đối với những trẻ có nguy cơ bị béo phì thì tôi có biện pháp như sau: - Trẻ em cần được nuôi dưỡng một cách khoa học để phát triển đúng quy luật. Vì vậy, phải giữ chế độ ăn hợp khoa học, không ăn quá nhiều chất béo, chỉ ăn đủ lượng protein, đủ Vitamin và chất khoáng, tăng tỷ lệ chất xơ, khoai củ, đậu đỗ, hạn chế ăn đường, thay đổi các món ăn thường xuyên trong tuần. - Do vậy, tôi chỉ đạo giáo viên phải thường xuyên tổ chức cho trẻ luyện tập thể dục thể thao, vui chơi, hoạt động, nhưng phải phù hợp với thể lực. Chú ý giáo viên theo dõi cân nặng hàng tháng, phát hiện sớm nguy cơ thừa cân của trẻ để có biện pháp phòng ngừa và điều trị trẻ béo phì kịp thời. * Làm tốt công tác phối hợp giữa nhà trường và gia đình: Đây là việc làm nhà trường xác định có tầm quan trọng rất lớn để đem đến hiệu quả trong việc chăm sóc và phòng ngừa trẻ béo phì. - Do vậy, tôi chỉ đạo hàng ngày giáo viên thường xuyên trao đổi tình hình trẻ ở tại trường trong giờ đón trả trẻ, kết hợp tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng cho trẻ béo phì ở cả gia đình và nhà trường. - Cho phụ huynh biết béo phì là gì? Tác hại và nguy cơ béo phì? Nguyên nhân béo phì là do đâu? Cách điều trị và phòng ngừa. - Cho phụ huynh biết cho trẻ ăn hạn chế các loại bánh kẹo, đường, mật, kem, sữa đặc có đường, sữa béo (vì cung cấp nhiều năng lượng), thay vào đó cho trẻ uống sữa bột tách bơ, sữa đậu nành, sữa chua. - Bản thân tôi cũng như giáo viên thường xuyên gặp phụ huynh trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ sau mỗi lần cân đo, kiểm tra sức khỏe trẻ. * Điều trị cho trẻ bị béo phì: Trước hết, tôi tuyên truyền phổ biến cho giáo viên biết điều trị béo phì rất khó khăn phải kiên trì, thời gian điều trị không chỉ kéo dài hàng tháng, có khi là hàng năm thì mới đạt được kết quả. Cơ thể trẻ em luôn phát triển và tăng trưởng, vì vậy trong điều trị béo phì ở trẻ em không được đặt ra vấn đề giảm cân mà mục tiêu điều trị là giảm tốc độ tăng cân hay tránh tăng cân để đảm bảo sự phát triển chiều cao và cân nặng cân đối. 2- Đối với giáo viên: Từ đó giáo viên phải thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của nhà trường cũng như biện pháp của Hiệu phó bán trú đã triển khai. Năm đầu tiên qua nắm bắt thông tin từ phía phụ huynh giáo viên thấy đối với những trẻ béo phì thì có những mặc cảm như sau: Ví dụ: Lớp có bạn Minh bị béo phì, trẻ thường chọc ghẹo bạn gọi là bạn Minh ù hoặc Minh béo …. đối với những trẻ lớp mầm không có suy nghĩ gì, các cháu chưa biết gì đối với tên gọi của mình. Nhưng đối với trẻ lớp chồi, lá đã biết xấu hổ khi bị bạn trêu chọc với những tên gọi gán ghép là sẽ phản ứng ngay như là thưa cô giáo, hay đánh nhau … nhưng có trẻ về thưa với cha mẹ là ở trường bạn bạn chọc con, gọi cái tên như thế. Rồi có những biểu hiện không muốn ăn, hoặc nhịn đói không ăn, hoặc nói là con không ăn vì sợ mập bạn chọc, không chơi cùng con … Chính vì giáo viên làm tốt công tác phối hợp cho nên có những phụ huynh thường hay trao đổi những thông tin này với cô giáo. Cho nên năm đầu tiên cô rất khổ tâm trong vấn đề này, từ đó giáo viên có sự trao đổi thông tin bàn bạc cùng tôi để có biện pháp thích hợp thực hiện. Sau đó cô phải giải thích cho các bạn cùng biết và khuyên các bạn không nên chọc ghẹo bạn, và dần dần trẻ không còn chọc ghẹo các bạn béo phì với những cái tên gán ghép như thế, và các bạn béo phì cũng không cám thấy mình là mập, hay xấu. Tôi chỉ đạo giáo viên không được bắt trẻ nhịn ăn, hoặc ăn quá ít, vì như thế sẽ làm cho trẻ mệt mỏi, luôn luôn buồn ngủ, học hành kém, sức đề kháng của cơ thể giảm sút, sẽ dẫn đến bệnh tật. Như vậy nên cho trẻ ăn uống cho vừa đủ. Cho nên nguyên tắc chính điều trị béo phì ở trẻ em là điều chỉnh chế độ ăn hợp lý kết hợp với các hoạt động thể lực. Việc điều trị béo phì cho trẻ khác người lớn, không can thiệp phẩu thuật, không dùng các loại thuốc giảm béo cho trẻ. * Tạo thói quen cho trẻ ăn uống đúng chế độ: - Cho giáo viên biết để điều trị và dự phòng trẻ thừa cân béo phì một cách có hiệu quả trước hết cần hiểu rõ do đâu mà bị mập. Hiện tượng thừa cân béo phì xảy ra khi năng lượng tiêu hao. Một chế độ ăn nhiều năng lượng (thường là nhiều chất béo), ít vận động dễ dẫn đến thừa cân béo phì. Các yếu tố nội tiết, chuyển hóa và gia đình cũng liên quan đến tình trạng béo phì của trẻ. Để điều chỉnh chế độ ăn uống, bắt các cháu ăn theo chế độ riêng không phải là chuyện dễ dàng, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì, nhẹ nhàng giảng giải cho trẻ mỗi khi đến giờ ăn. - Qua kiểm tra giờ ăn nắm tình hình từ phía giáo viên tôi được biết một số cháu năm học 2007- 2008 còn quen với nề nếp, sinh hoạt và thực đơn đã ăn nên việc cho trẻ tiếp tục ăn theo chế độ ăn riêng không có gì khó khăn, nhưng đối với những trẻ mới tuyển vào năm học này thì gặp rất nhiều khó khăn trong giờ ăn, vì thế tôi chỉ đạo giáo viên phải hết sức quan tâm động viên, khuyến khích trẻ ăn theo chế độ mới. - Chỉ đạo giáo viên trong các bữa ăn giáo viên khuyến khích trẻ ăn nhiều rau xanh, hoa quả ít ngọt vì nhóm thức ăn này ngoài cung cấp vitamin, muối khoáng còn có tác dụng điều hòa sự bài tiết của cơ thể, chống táo bón, phòng ngừa xơ mỡ động mạch (vì có nhiều chất xơ là xenlulozơ). Chú ý bữa ăn của trẻ xếp riêng các cháu thừa cân và béo phì để dễ dàng thực hiện chế độ ăn hợp lý cho các cháu, cho trẻ ăn đúng thời gian quy định Tạo thói quen cho trẻ ăn uống điều độ, theo đúng chế độ của trẻ, không quá no, không được bỏ bữa, không để trẻ đói. Đối với biện pháp này năm đầu rất khó khăn cho giáo viên, vì thực tế những trẻ thích ăn cơm nhiều hơn, nhưng với sự nhiệt tình của cô động viên khuyến khích dần dần trẻ cũng quen với thực đơn theo chế độ dành cho mình. - Chỉ đạo giáo viên nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ, và đối với trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì thực hiện đúng thời gian cho các hoạt động theo quy định có sự giám sát chặt chẽ của Ban giám hiệu nhà trường có như vậy tôi đã tạo cho trẻ được một thói quen tốt giờ nào việc ấy. - Hàng tháng vào ngày 15 giáo viên tổ chức cân đo những trẻ béo phì để theo dõi mức độ phát triển của trẻ. Sau đó, tôi kiểm tra lại xem có đúng thực chất hay không? và có một kế hoạch riêng đối với những trẻ béo phì về cách theo dõi cân đo hàng tháng. 3- Đối với cấp dưỡng: Phải thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của nhà trường cũng như biện pháp Hiệu phó bán trú triển khai. - Phổ biến cho cấp dưỡng nấu ăn đảm bảo đúng giờ, biết cách khi chọn thực phẩm phải tươi ngon, không có chất kích thích, chất xúc tác, rau ngon đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đúng như vậy hoa quà là một thức ăn vô cùng quan trọng nó góp phần tăng sức đề kháng cho cơ thể, cung cấp một số vitamin cần thiết giúp cơ thể hấp thu được nhiều loại thức ăn khác nhau. Tuy nhiên, để rau quả thực sự có tác dụng cho cơ thể ta cần phải chú ý đến cách chế biến và thời gian ăn các loại quả: Ví dụ: Khi ta chế biến các loại rau củ cần phải đảm bảo còn đủ lượng vitamin cần thiết cho đến lúc trẻ ăn Ví dụ: Ta không xào giá đậu với gan lợn vì sẽ mất hết chất tươi của gía và các chất bổ trong gan lợn cũng bị phân hủy nhiều Ví dụ: Hoa quả nên ăn trước bữa ăn thì hoa quả sẽ có tác dụng trực tiếp trong quá trinh tiêu hóa thức ăn sau này của cơ thể. Bổ sung gia vị cho trẻ như muối mì chính 6g/ngày nếu trẻ tăng huyết áp chỉ dùng 4g/ngày: - Gia vị là nguồn thực phẩm không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày của chúng ta. Một bữa ăn ngon là ta biết kết hợp các loại gia vị vào thức ăn cho phù hợp từ đó sẽ kích thích được các giác quan khứu giác, vị giác, thị giác … và bữa ăn của ta hấp dẫn hơn. Nhưng đối với trẻ thừa cân, béo phì thì việc sử dụng gia vị là cả vấn đề quan trọng. Đa số trẻ thừa cân thường ăn mặn hơn so với những trẻ khác nên khi chế biến thức ăn chỉ nên dừng lại ở mức độ 6g muối, mì chính/ngày là đủ. - Chỉ đạo tổ nuôi nấu riêng thức ăn cho những trẻ thừa cân va béo phì, trước khi cho trẻ ăn phải nếm thử thức ăn xem có đủ đậm, ngọt chưa như thế mới có thể điều chỉnh kịp thời lượng gia vị từ các bữa ăn sau. Đồng thời những nội dung này tôi cũng tuyên tuyền cho phụ huynh biết để có cách chế biến, nấu ăn cho trẻ phù hợp nhằm đẩy mạnh công tác phối hợp giữa nhà trường và gia đình ngày càng đạt kết quả tốt vì mục tiêu chính là cùng nhau chăm sóc sức khỏe cho trẻ phát triển toàn diện. Sau đây là một số thực đơn mà tôi đã áp dụng thực hiện trong thời gian qua: - Thực đơn: - Canh rau ngót nấu cua - Thịt sốt cà chua - Cháo thập cẩm - Thực đơn: - Thịt bò hầm hạt sen - Rau, củ nấu xương - Cháo thịt của quả - Thực đơn: - Canh chua nấu chả cá - Xào thập cẩm - Phở gà … 4- Tuyên truyền phụ huynh: - Buổi tối cho các con ăn thức ăn dễ tiêu hơn vì buổi tối các con ít làm và vận động hơn. Cần nhất là cha mẹ phải coi lại chế độ ăn uống của con em mình, hạn chế nhưng chất dầu mỡ, chiên sào và cho các cháu tập thể dục - Kết hợp với gia đình để phụ huynh hiểu sâu hơn về vấn đề này tôi thường tư vấn cho cha mẹ trẻ cách nấu ăn như thế nào cho trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì với những bữa ăn ở nhà để trẻ ăn ngon miệng mà vẫn đảm bảo được mục đích giảm khả năng tăng cân cho trẻ. - Hàng ngày tôi thường truy cập trên mạng, trang Web Giáo dục Mầm Non tìm những thông tin để cập nhật và tuyên truyền cho phụ huynh như: (Mỗi hình ảnh này đều có một nội dung tuyên truyền kèm theo cho phụ huynh xem) Thức ăn nhanh - một trong những thủ phạm gây béo phì những trẻ thừa cân, hãy cho trẻ ăn nhiều chất gan nhiễm mỡ xơ hơn là những chất bột, béo hay đường Với Trẻ béo phì dễ mắc chứng bệnh Báo động tình trạng trẻ béo phì ở các trường học Cho trẻ ăn uống đầy đủ các chất hợp lý sức khỏe của trẻ phát triển tốt hơn - Giáo viên hàng ngày trao đổi thông tin của trẻ tại trường, hoặc giờ đón trẻ có những biểu hiện bất thường cũng nên quan tâm hỏi cha mẹ trẻ và chý ý đến trẻ nhiều hơn trong ngày. III- KẾT QUẢ ĐẠT ĐỰƠC: - Với những biện pháp như trên, kết quả qua theo dõi cân đo hàng tháng và đến cuối năm những cháu có nguy cơ béo phì và bị béo phì cũng giảm tốc độ tăng cân đáng kể, nhất là những cháu có nguy cơ bị béo phì thì không bị béo phì. Nhờ sự chỉ đạo sâu sát của tổ mầm non Phòng Giáo dục, sự quan tâm đúng mức của Ban giám hiệu, giáo viên, nên đã giáo dục trẻ hiểu được và không chọc ghẹo những trẻ béo phì, và trẻ cũng quen với chế độ ăn hàng ngày, nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe cho trẻ. Qua đó giáo viên nắm vững thêm những kiến thức phòng ngừa và chăm sóc trẻ béo phì. Giáo viên, cấp dưỡng rất nhiệt tình trong việc chăm sóc trẻ. Phụ huynh rất đồng tình khi trường đã triển khai biện pháp thực hiện phòng chống béo phì cho trẻ, và nhất là những phụ huynh có con đang bị nguy cơ hoặc béo phì đều thấy được hiệu quả thiết thực đã mang lại sức khỏe cho trẻ. - Đặc biệt qua 2 năm thực hiện một số biện pháp như trên, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì giảm rõ rệt, cụ thể: KẾT QUẢ TRẺ BÉO PHÌ 2 NĂM HỌC (2007-2008 và 2008-2009) -----------------Năm học Đầu năm Số trẻ Cuối năm Tỷ lệ Số trẻ % Tỷ lệ % 2007- 2008 8/237 3,37% 5/237 2,1% 2008- 2009 13/239 5,43% 3/239 1,25% * So sánh tỷ lệ giảm trẻ béo phì năm thứ 1 và năm thứ II là: 0,85% SƠ ĐỒ MINH HỌA TRẺ BÉO PHÌ 2 NĂM LIỀN KỀ (Năm học: 2007 -2008 và 2008 -2009) KẾT QUẢ TRẺ CÓ NGUY CƠ BÉO PHÌ 2 NĂM LIỀN KỀ (Năm học: 2007-2008 và 2008-2009) ------------------Năm học Đầu năm Số trẻ Cuối năm Tỷ lệ Số trẻ % Tỷ lệ % 2007- 2008 10/237 4,21% 7/237 2,95% 2008- 2009 12/239 5,02% 4/239 1,67% * So sánh tỷ lệ giảm trẻ có nguy cơ béo phì năm thứ I và năm thứ II là: 1,28% SƠ ĐỒ MINH HỌA TRẺ NGUY CƠ BÉO PHÌ 2 NĂM LIỀN KỀ (Năm học: 2007- 2008 và 2008- 2009) - Đây là kết quả đáng mừng cho tôi, Hội đồng nhà trường và cũng là niềm vui của phụ huynh học sinh có con em béo phì và có nguy cơ béo phì. Từ đó những cái tên gọi gáng ghép đã đi vào quên lãng không ai nhớ tới, và các cháu trước kia béo phì đến nay khỏe mạnh bình thường như các bạn khác. IV- BÀI HỌC KINH NGHIỆM: - Việc điều trị béo phì ở trẻ em đòi hỏi có thời gian, kết hợp sự điều chỉnh hợp lý chế độ ăn của trẻ và các hoạt động. Với trẻ dưới 6 tuổi biện pháp chủ yếu là giảm tốc độ tăng cân (không phải là làm cho trẻ giảm cân hoặc không tăng cân), bằng cách lực chọn áp dụng những thực đơn đã được tính toán phù hợp với trẻ. Ngoài ra cần khuyến khích trẻ hoạt động như chạy, nhảy hoạt động, đi bộ hoặc thông qua các trò chơi vận động phù hợp hạn chế các trò chơi ít vận động như xem ti vi. - Đối với các bậc cha mẹ trước tiên cần phải giáo dục làm thay đổi quan niệm “béo là khỏe, phát tướng” giúp họ hiểu được nguyên nhân trẻ béo phì và đặc biệt là cách phòng bệnh béo phì ở trẻ em. Hướng dẫn cho mẹ biết cách theo dõi sự tăng trưởng của con mình, vá cách cho con ăn uống, hoạt động hợp lý nhằm phòng chống cả suy dinh dưỡng và béo phì cho trẻ em. - Với lương tâm của một nhà giáo tôi luôn tự nhủ mình dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải đặc nhiệm vụ chăm sóc cháu lên hàng đầu, xem các cháu như con ruột của mình, vui khi con khỏe buồn như con đau. - Tạo niềm tin ở phụ huynh, bên cạnh đó qua trao đổi với với cô giáo phụ huynh biết cách tổ chức bữa ăn cho phù hợp với sức khỏe của con mình và nhân rộng ra hơn với các gia đình khác. - Ban giám hiệu, cũng như giáo viên phải quan tâm đến khâu chăm sóc- nuôi dưỡng trẻ và đặc biệt phải chú ý đối với những trẻ suy dinh dưỡng cũng như trẻ béo phì thì mới đem lại sức khỏe tốt cho trẻ. - Kiểm tra thường xuyên bộ phận cấp dưỡng về cách chế biến nấu ăn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời kiểm tra thường xuyên giờ ăn các nhóm, lớp để chấn chỉnh kịp thời thiếu sót, đặc biệt hàng tháng phải có kế hoạch chăm sóc- nuôi dưỡng trẻ béo phì, chế độ ăn, thực đơn riêng … - Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong cách dùng thực phẩm chế biến thức ăn cho trẻ tại gia đình. - Phối hợp các hình thức, biện pháp phong phú, sưu tầm tranh ảnh phù hợp để tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng ngừa và điều trị trẻ béo phì và vệ sinh an toàn thực phẩm đến tất cả giáo viên, cấp dưỡng và phụ huynh để thực hiện. Qua trên, ta thấy rằng chế độ ăn hợp lý để điều trị và phòng tránh béo phì ở trẻ em là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, để thực hiện như vậy phải có một thời gian dài và đòi hỏi sự kiên nhẫn của gia đình, của bản thân trẻ cùng sự tham gia đóng góp của xã hội. Nếu được sự quan tâm đúng mức của mọi người chắc chắn sẽ mang lại kết quả, hạn chế sự gia tăng của bệnh béo phì ở trẻ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan