Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục ở trường tiểu ...

Tài liệu Skkn các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục ở trường tiểu học ninh xuân, huyện hoa lư, tỉnh ninh bình

.DOC
30
110
52

Mô tả:

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NINH XUÂN HOA LƯ- NINH BÌNH Phần thứ nhất ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã nêu quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững” và “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi”. Bước vào thế kỉ XXI, thế kỷ của nền kinh tế tri thức, cùng với xu thế chung của thế giới đổi mới mạnh mẽ chất lượng giáo dục, nước ta cũng đang trong quá trình chuyển mình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân". Quan điểm chỉ đạo Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục được thể hiện trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học”. Mục tiêu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát triển toàn diện giáo dục phổ thông trong điều kiện kinh phí đầu tư của nhà nước còn nhiều hạn chế, thì xã hội hoá giáo dục là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm đa dạng chủ thể đầu tư, chủ thể tham gia và giám sát các hoạt động giáo dục; xây dựng xã hội học tập, bảo đảm điều kiện học tập suốt đời cho mọi người dân; thực hiện tốt phương châm phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Định hướng này được thể hiện xuyên suốt trong các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp đổi mới giáo dục Việt Nam. Như vậy, xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục của Đảng, nhà nước ta. Khi bàn về công tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã dạy: “ Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường với nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ…” (HCM toàn tập-1996- NXB Chính trị Quốc gia). Nghị quyết số 04NQ/HNTW ngày 14/1/1993 Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT đã ghi: “Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước ngoài để phát triển GD”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của Nhà nước”. Trên thế giới, ngành giáo dục các nước phát triển mạnh và có chất lượng tốt bởi phần lớn do việc họ biết phát huy tốt công tác xã hội hóa giáo dục. Tại Việt Nam chúng ta, công tác này mới được chú trọng phát huy gần đây, nhưng chủ yếu ở những vùng thành thị và những vùng có điều kiện kinh tế và nhận thức của người dân tốt. Còn ở khu vực miền núi thì đây là vấn đề thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn. 2 Thực hiện chủ trương về xã hội hóa giáo dục của Đảng, nhà nước và của ngành giáo dục, các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình đã có nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục, xong trên thực tế hiệu quả của công tác này vẫn còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trường tiểu học Ninh Xuân, một trường đóng trên địa bàn xã miền núi nghèo của huyện Hoa Lư. Dân số hơn 3 nghìn người. Kinh tế xã hội chậm phát triển so với mặt bằng chung của huyện Hoa Lư, tỷ lệ hộ nghèo trên 10% (cao nhất huyện). Ngành nghề chính của nhân dân là sản xuất nông nghiệp, một số tham gia nhân viên chở đò cho khu du lịch sinh thái Tràng An. Không có cơ quan, xí nghiệp hay doanh nghiệp đóng trên địa bàn xã. Cơ sở vật chất của trường mới được xây dựng năm 2009 xong còn thiếu các phòng học Tin học, Mỹ thuật, Âm nhạc, Ngoại ngữ và phòng đa năng, chưa có lán xe cho cán bộ, giáo viên và học sinh, chưa có hệ thống nước hợp vệ sinh, hệ thống cây xanh, cây cảnh, vườn trường còn nhiều hạn chế. Trường có nhiều học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, nhiều học sinh chưa biết cách tự học. Đội ngũ giáo viên có nhiều đồng chí tuổi cao, nhiều đồng chí có hoàn cảnh đặc biệt (chồng, con, bản thân ốm đau), việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở một số giáo viên còn hạn chế. Công tác xã hội hóa giáo dục vốn rất khó khăn ở trường học nói chung và với trường tiểu học Ninh Xuân một trường miền núi thì đó là một việc làm vô cùng khó khăn. Song đứng trước nhiệm vụ thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, triển khai thực hiện tốt Kế hoạch số 74/ KH- SGDĐT về Phát triển Giáo dục Đào tạo Ninh Bình 5 năm (2011-2015) và Kế hoạch Số 18/KH- UBND thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy về phát triển Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2011- 2015, đó là nâng cao chất lượng dạy học xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, kiểm định chất lượng giáo dục và tiến tới xây dựng trường chất lượng đứng tốp đầu của huyện Hoa Lư và tỉnh Ninh Bình. Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục ở trường tiểu học Ninh Xuân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác XHHGD để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cũng như xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, kiểm định chất lượng giáo dục, xây dựng trường có chất lượng cao của huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. 3. Thêi gian nghiªn cøu 3 5 n¨m (tõ n¨m 2010 - 2014) 4. Đối tượng nghiên cứu - Lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể các cấp. - Giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh của trường tiểu học Ninh Xuân. - Các cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức hỗ trợ quốc tế… 5. Phạm vi nghiên cứu - Trường tiểu học Ninh Xuân- Hoa Lư- Ninh Bình. 6. Phương pháp nghiên cứu - Khảo sát; - Phỏng vấn, điều tra; - Phân tích, tổng hợp… Phần thứ hai 4 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Giáo dục là phạm trù vĩnh cửu, sự ra đời của giáo dục gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của loài người. Chức năng đầu tiên, chức năng nguyên thuỷ của giáo dục là XHH chính là làm cho con người sinh học thành con người xã hội. Khi khoa học quản lý xuất hiện người ta đã coi XHHGD như là một đối tượng nghiên cứu đặc biệt về tính khoa học cũng như nguyên lý của nó. Trong các lĩnh vực XHH đã được các nhà quản lý sử dụng như phương tiện tối ưu nhằm tạo ra kết quả. Nhà xã hội học Pháp E.Durkheim (1858-1917) là một trong số ít người đầu tiên sử dụng thuật ngữ XHH. Tác giả cho rằng: “Giáo dục vừa có chức năng phân hoá vừa có chức năng XHH”, về sau được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực. XHH là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhiều cách hiểu, định nghĩa khác nhau như: 1.1. Khái niệm về giáo dục, giáo dục tiểu học a) Khái niệm về giáo dục: Giáo dục (theo nghĩa rộng của giáo dục học): Quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục (theo nghĩa hẹp của giáo dục học): Là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư sử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động, tư tưởng, chính trị, thẩm mỹ, vệ sinh… b) Giáo dục tiểu học Điều 2 của Luật phổ cập giáo dục tiểu học quy định: “Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của các em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa” Luật giáo dục (năm 2005), điều 27 quy định: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở” 5 1.2. Khái niệm xã hội hóa, xã hội hóa giáo dục. a) Khái niệm “Xã hội hóa” Theo quan điểm xã hội học thì Xã hội hóa là quá trình tương tác, lan tỏa các chuẩn mực, các giá trị, các khung mẫu, hành vi xã hội giữa các cá thể và các nhóm xã hội. b) Khái niệm “Xã hội hóa giáo dục” Xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục (XHHGD) là quá trình tương tác, lan tỏa các chuẩn mực, các giá trị, các khung hình mẫu, các hành vi xã hội giữa các cá thể và các nhóm cá thể trong lĩnh vực giáo dục. Làm cho mọi người hiểu về giáo dục, giáo dục đến với mọi nhà, mọi người, làm cho mọi người được thụ hưởng thành quả của giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, tạo ra một phong trào, một xã hội học tập đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, của đất nước, đồng thời mọi người có trách nhiệm tham gia giáo dục và làm cho giáo dục phát triển. Như vậy, thực hiện xã hội hóa giáo dục là thực hiện mối liên hệ có tính phổ biến, có tính qui luật giữa cộng đồng với xã hội. Thiết lập được mối quan hệ này là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển xã hội: “Mỗi người dân đều nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối hợp hành động thực hiện, đồng thời chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả của hoạt động đó đem lại”. Xã hội hóa giáo dục có hai vế: mọi người có nghĩa vụ chăm lo phát triển giáo dục để giáo dục phục vụ cho mọi người. Được học tập, học tập thường xuyên, học suốt đời, học để biết cách sống trong cộng đồng, lao động để tồn tại và phát triển. Hai vế này nêu rõ hai yêu cầu của xã hội hóa giáo dục là: phải xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục và xã hội hóa quyền lợi về giáo dục. Hai yêu cầu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và thực hiện liên kết với nhau. Trong đó yêu cầu về xã hội hóa quyền lợi về giáo dục là đỉnh cao, là mục tiêu, là cốt lõi của xã hội hóa giáo dục; phải làm cho toàn xã hội đều được học tập, tiến tới xây dựng một xã hội học tập. 1.3. Bản chất của XHHGD và các quan điểm chỉ đạo về XHHGD. Bản chất của XHHGD là nhằm thu hút sự tham gia của tất cả các thành phần trong xã hội - Nhà nước, gia đình, thị trường và các tổ chức dân sự - tham gia tư vấn, thiết kế về nội dung và triển khai chương trình, cách thức giáo dục cùng với nhà trường để tạo ra những công dân tốt hơn. Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII chỉ rõ: “ Xã hội hoá trong công tác giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp 6 nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước” Để phát triển giáo dục trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu của các nước trên thế giới cũng như việc lạm phát tăng cao, kinh tế tăng trưởng chậm của Việt Nam như hiện nay thì việc đẩy mạnh công tác XHHGD sẽ đem tới một diện mạo mới cho các nhà trường bởi xã hội hóa giáo dục góp phần quan trọng trong việc xây dựng các điều kiện phát triển giáo dục, để các nhà trường có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ và chất lượng giáo dục toàn diện. 1.4. Nội dung của XHHGD a) Giáo dục cho mọi người. Tạo cơ hội cho mọi người được học tập, học tập thường xuyên, học suốt đời, tiến tới xây dựng một xã hội học tập. b) Huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục. Đó là việc huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan đến giáo dục vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục. Sự huy động này không phải nhất thời mà là thường xuyên theo một cơ chế vận hành xác định, xây dựng từ cấp trung ương đến địa phương trên cơ sở một chiến lược phát triển giáo dục lâu dài cho cả nước cũng như cho mỗi địa phương, địa bàn dân cư nhất định. Các lực lượng xã hội có thể tham gia rộng rãi vào nhiều lĩnh vực hoạt động giáo dục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Các lực lượng đó là Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội khuyến học…Sự tham gia của các lực lượng này sẽ làm cho giáo dục gắn bó với cộng đồng, do cộng đồng thực hiện và vì lợi ích của cộng đồng. c) Đa dạng hóa loại hình Đó là đa dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình nhà trường, tạo điều kiện cho công tác giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn, thực hiện hiệu quả hơn nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. d) Đa phương hóa nguồn lực Xã hội hóa công tác giáo dục còn là việc mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển. Đây không những là chính sách lâu dài trong việc thực hiện các chính sách xã hội của 7 Đảng ta mà còn là biện pháp cần thiết trong giai đoạn mà nhà nước chưa có đủ kinh phí cần thiết cho các hoạt động giáo dục. e) Thể chế hóa chính sách 2. Cơ sở thực tiễn Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của đất nước cũng như của Giáo dục, Chính phủ đã có những văn bản chỉ đạo về công tác xã hội hóa giáo dục như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về việc đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường; Tỉnh ủy - UBND tỉnh Ninh Bình đã có những văn bản chỉ đạo công tác giáo dục trên địa bàn tỉnh như: Nghị quyết Số 03/2012/NQ-HĐND, ngày 17 tháng 4 năm 2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh Về việc ban hành Quy định chính sách ưu đãi về sử dụng đất đối với hoạt động xã hội hoá trong các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2012-2016. Huyện ủy Hoa Lư ra Nghị Quyết về phát triển Giáo dục và Đào tạo huyện Hoa Lư giai đoạn 2011- 2015; Kế hoạch Số 18/KH- UBND thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy về phát triển Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2011- 2015. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Sở GD&ĐT Ninh Bình, phòng GD&ĐT Hoa Lư, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và nhân dân, công tác xã hội hóa giáo dục của trường tiểu học Ninh Xuân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình đã được sự quan tâm của chính quyền địa phương và các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình xã hội hóa, huy động được các nguồn lực xã hội đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu của công tác giáo dục tiểu học. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện xã hội hoá giáo dục ở trường tiểu học Ninh Xuân vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế, đó là: 8 Nhận thức về nội dung công tác xã hội hóa giáo dục ở một bộ phận cán bộ, nhân dân còn chưa đầy đủ. Cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường còn lúng túng, chưa chủ động trong công tác xã hội hóa giáo dục, còn trông chờ nhiều vào sự chỉ đạo của cấp trên, chưa coi trọng và huy động được sức mạnh của các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế cũng như các “mạnh thường quân”… Trong điều kiện nhà trường còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nên nói đến xã hội hoá giáo dục nhà trường chú trọng nhiều đến huy động vật chất và kinh phí chứ chưa quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy - học tập, đặc biệt chất lượng mũi nhọn để tạo uy tín, niềm tin đối với phụ huynh, cấp uỷ Đảng, chính quyền và cộng đồng địa phương. Thực tế ấy đã làm thu hẹp ý nghĩa bản chất của xã hội hoá giáo dục và làm hạn chế hiệu quả của công tác xã hội hoá giáo dục ở nhà trường. *Cơ sở vật chất, các điều kiện của nhà trường trước khi vận dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác XHHGD: + Là một trường tiểu học đứng tốp cuối của huyện Hoa Lư (do Phòng GD&ĐT đánh giá) cả về cơ sở vật chất và chất lượng đội ngũ, chất lượng học sinh. + Chưa có học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi huyện, tỉnh. Đặc biệt không có học sinh tham gia thi ở cấp quốc gia. + Đội ngũ giáo viên: Số lượng có trình độ trên chuẩn thấp, chưa có giáo viên giỏi cấp tỉnh. + Cơ sở vật chất: chưa có các phòng học Âm nhạc, Mỹ thuật, Tin học, Ngoại ngữ, nhà đa năng, nhà để xe cho giáo viên và học sinh. Sân khấu ngoài trời phục vụ tổ chức các hoạt động ngoại khóa. Hệ thống cây xanh, cây cảnh chưa có nhiều. 3. Các giải pháp đã thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác XHHGD của trường tiểu học Ninh Xuân. 1. Xây dựng kế hoạch và các bước thực hiện công tác XHHGD Kế hoạch là một nội dung và là chức năng quan trọng nhất của quản lý. Kế hoạch nhằm định hướng mục tiêu, phân bổ các nguồn lực hợp lý, tổ chức các hoạt động theo trình tự, phối hợp các hoạt động của các bộ phận nhằm huy động tổng hòa các nguồn lực để đạt các mục tiêu đã định. Do vậy, công tác XHHGD cũng cần phải lập kế hoạch, điều này dễ bị xem là mông lung, song trong thực tế đó chính là ngọn hải đăng chỉ đường. 9 Để nâng cao hiệu quả của công tác XHHGD, tôi đã xây dựng Kế hoạch, kế hoạch này được xây dựng theo quy trình giống như một lộ trình gồm những mục tiêu rõ ràng, cụ thể về nhiệm vụ và đặt ra những mốc thành tựu quan trọng trong lộ trình thực hiện, thông tin chi tiết như ai làm việc gì và làm vào lúc nào…Nội dung kế hoạch coi trọng cả hai nguồn lực vật chất và nguồn lực phi vật chất. Đặc biệt quan tâm đến “hình ảnh”, “danh tiếng” của nhà trường, tầm quan trọng của các chuẩn đạo đức, chuẩn kỷ luật, các mối quan hệ và sự ủng hộ từ bên ngoài. Các bước thực hiện theo quy trình: - Hiệu trưởng lập kế hoạch huy động xã hội tham gia giáo dục, phân phối các nguồn lực thích hợp (Ví dụ: phân phối học sinh phù hợp với năng lực giáo viên để có học sinh giỏi và hạn chế học sinh lưu ban). Các cơ chế liên kết giữa nhà trường, gia đình, lực lượng xã hội, nhà trường chú ý đến việc chủ động tham gia các hoạt động của địa phương, tổ chức các hoạt động phối kết hợp hoặc kết nghĩa với các đơn vị kinh tế, xã hội hoặc huy động các nguồn lực cho nhà trường bằng việc xây dựng các chương trình, dự án. Kế hoạch thực hiện lập cho trung hạn hoặc dài hạn. - Hiệu trưởng thảo luận kế hoạch đã xây dựng với Ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương, CBGVNV để thống nhất. -Tiến hành công tác tuyên truyền trong nhà trường và cộng đồng. - Giáo viên chủ nhiệm họp phụ huynh triển khai và vận động phụ huynh. Giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong sự kết hợp giữa phụ huynh học sinh và nhà trường, việc bố trí giáo viên dạy giỏi, dạy tốt làm công tác chủ nhiệm lớp tạo uy tín đối với phụ huynh học sinh là điều kiện tốt để phụ huynh đóng góp và tham gia xây dựng nhà trường. - Hiệu trưởng thực hiện các biện pháp liên kết với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức xã hội,… để làm tăng thêm nguồn tài lực, vật lực; thúc đẩy phong trào nâng cao chất lượng dạy và học để tạo uy tín cho việc vận động. - Hiệu trưởng thường xuyên rút kinh nghiệm để điều chỉnh kế hoạch. Sơ đồ quy trình các bước thực hiện: 10 * Giải thích sơ đồ. CHÍNH QUYỀN Chính quyền địa phương vừa là đối tượng được huy động tham gia XHHGD vừa là chủ thể. CƠ SỞ SXKD Cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ là đối tượng được huy động tham gia XHHGD BAN ĐẠI DIỆN CMHS Ban đại diện CMHS vừa là đối tượng được huy động tham gia XHHGD vừa là chủ thể. TỔ CHỨC XH Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, doanh nghiệp là đối tượng được huy động tham gia XHHGD. CƠ QUAN BAN, NGÀNH Các cơ quan, ban ngành là đối tượng được huy động tham gia XHHGD. TRƯỜNG Nhà trường là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai công tác XHHGD HT HT đóng vai trò quyết định trong việc huy động các lực lượng. 11 GV CHỦ NHIỆM GV chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong sự kết hợp giữa phụ huynh học sinh và nhà trường CB, CNV Nhà trường vừa là chủ thể vừa là một đối tượng để XHHGD. HỌC SINH HS vừa là chủ thể của XHHGD vừa là tuyên truyền viên đắc lực. c.6.1 Lập KH HT lập kế hoạch huy động xã hội tham gia giáo dục, phân phối các nguồn lực thích hợp. HỘI NGHỊ Hội thảo bàn về kế hoạch thực hiện XHH, thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. c.6.2 Thảo luận Ban đại diện CMHS thảo luận kế hoạch cùng với nhà trường. c.6.3 Thảo luận Chính quyền địa phương thảo luận kế hoạch cùng với nhà trường. c.6.4 Thảo luận CBGVNV cùng thảo luận kế hoạch XHH. TUYÊN TRUYỀN HT tiến hành công tác tuyên truyền cho cộng đồng và bản thân nhà trường c.6.5 Vận động GV chủ nhiệm: họp phụ huynh triển khai và vận động phụ huynh c.6.6 Tham gia Vận động các cơ quan, ban ngành tạo nên một lực lượng đông đảo, đa dạng tham gia. c.6.7 Tham gia Vận động các tổ chức quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân”. c.6.8 Tham gia Vận động các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ: đây là một lực lượng hỗ trợ quan trọng c.6.9 Tham gia Chính quyền địa phương là lực lượng quan trọng tạo cơ chế cho việc XHHGD ở địa phương, tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cho việc XHHGD triển khai thuận lợi. c.6.10 Tham gia Ban đại diện cha mẹ học sinh: là lực lượng quan trọng, 12 góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh. GIẢI PHÁP HT thực hiện các biện pháp đến các đối tượng có có thể huy động tham gia xã hội hóa giáo dục. c.6.11 Dạy tốt Chất lượng đào tạo của nhà trường là sức mạnh thúc đẩy việc XHHGD hiệu quả. c.6.12 Học tốt HS học giỏi là động lực tạo uy tín trong việc huy động các nguồn lực. c.6.13 Rút kinh nghiệm HT thường xuyên rút kinh nghiệm để chỉ đạo thực hiện và tham mưu tốt hơn. 2. Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách về xã hội hoá để cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, nhân dân và giáo viên, học sinh có nhận thức đúng, đầy đủ, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá giáo dục của nhà trường. Công tác tuyên truyền, phổ biến có vai trò rất quan trọng, là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi người dân. Công tác tuyên truyền góp phần nâng cao nhận thức, xây dựng thành niềm tin; thúc đẩy mọi người hành động một cách tự giác, có ý nghĩa quyết định thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Để đổi mới công tác tuyên truyền, vận động, tôi quan tâm tập hợp tất cả các đối tượng có thể huy động tham gia XHHGD, đặc biệt cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân”, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp, làm cho họ thấu hiểu, tin tưởng và tự nguyện tham gia các hoạt động XHHGD của nhà trường. Bên cạnh đó tôi còn quan tâm đến nội dung, hình thức và phương pháp vận động: - Nội dung tuyên truyền, vận động gồm toàn bộ các văn bản liên quan đến quyền lợi của học sinh, trách nhiệm của cộng đồng, xã hội đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, các thành quả đã đạt được và kế hoạch trong thời gian tiếp theo trong công tác XHHGD của nhà trường. - Ngoài hình thức tuyên truyền qua các hội nghị của các ban ngành đoàn thể của xã, cuộc họp cha mẹ học sinh, tôi tuyên truyền bằng các bài viết, hình ảnh, kết quả các hoạt động của trường, hoạt động hỗ trợ của các tổ chức qua trang thông tin điện tử. Đặc biệt, thường xuyên mời lãnh đạo Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể của huyện, xã, lãnh đạo Sở GD&ĐT Ninh Bình, phòng 13 GD&ĐT Hoa Lư, các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ về dự các ngày lễ lớn để họ trực tiếp giao lưu, thấu hiểu, chia sẻ những khó khăn với nhà trường. - Trong quá trình tuyên truyền tôi quan tâm đến từng đối tượng để lựa chọn nội dung cho phù hợp cũng như xác định thời điểm, bối cảnh để sắp xếp thời gian, dung lượng cho hợp lý để đạt hiệu quả hơn. 3. Thông qua hoạt động giao tiếp, chủ động tham mưu; vận động các ban ngành, đoàn thể, cha mẹ học sinh, các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ trong công tác XHHGD của trường . - Giao tiếp là tài sản và chìa khóa để hiệu trưởng thành công trên con đường giáo dục bên cạnh kiến thức chuyên môn chuyên sâu. Do đó trong quá trình vận động đối tượng tham gia công tác XHHGD của trường, tôi rất quan tâm đến nghệ thuật giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, quan hệ xã hội, tôi luôn chân thành, chia sẻ hoàn cảnh của họ cũng như chia sẻ hoàn cảnh của trường với họ, đặc biệt bằng tâm huyết của mình khích lệ tâm huyết của họ. Tôi cố gắng lựa chọn ngôn ngữ phù hợp trong từng bối cảnh, không dùng các từ làm người nghe thấy thiếu sự chân thật hoặc những loại từ như thuật ngữ địa phương, tiếng lóng, những từ ngữ bị biến tướng.... Tôi cũng đặc biệt quan tâm sử dụng hiệu quả ngôn ngữ không lời (qua những cử chỉ). Trong khi giao tiếp, tôi thường kiểm soát chặt chẽ hành vi của mình để thể hiện sự tự tin và tạo ra một hình ảnh tích cực như: gật đầu và mỉm cười đúng lúc; có thái độ, cử chỉ tự nhiên, thoải mái; hướng ánh mắt của mình chăm chú theo dõi thông điệp của người nói với đôi tai mở rộng và thái độ không thành kiến hay đánh giá; luôn biết coi trọng đối tác như một khách hàng đặc biệt. Tất cả những hành động đó hòa chung thành một thể thống nhất giữa lời nói, cử chỉ, để chứng tỏ mình làm chủ được tình hình. Ngoài ra tôi còn quan tâm đến nghi thức trong giao tiếp (ví dụ như nghi thức trong buổi giao tiếp mang tính trang trọng sẽ không phù hợp trong buổi đàm thoại thông thường cần sự thoải mái, thân mật). Tùy vào mục đích và điều kiện để lựa chọn hình thức giao tiếp phù hợp như: giao tiếp mặt đối mặt, giao tiếp qua điện thoại, giao tiếp bằng văn bản, giao tiếp qua thư, thư điện tử... - Bằng cách vận dụng “văn hóa giao tiếp” và “văn hóa ứng xử” tôi đã làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương, phối hợp, vận động các ban ngành, đoàn thể cha mẹ học sinh, nhân dân địa phương và các đối tượng là doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ tham gia vào hoạt động XHHGD của trường: + Ngoài việc báo cáo kế hoạch XHHGD của trường với Đảng ủy, UBND xã tôi còn chủ động, tích cực tham mưu khi triển khai từng việc làm cụ thể để có sự chỉ đạo của lãnh đạo nhằm vận động mọi tổ chức, đoàn thể tham gia. Khi tham mưu tôi luôn tính đến chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp lãnh đạo để tham mưu đúng, trúng và có hiệu quả. Trước khi tham mưu tôi thường có 14 kế hoạch chuẩn bị, không tham mưu lặt vặt, mỗi lần được bố trí làm việc tôi chuẩn bị kỹ nội dung để trình bày một cách ngắn gọn, trọng tâm, cụ thể các biện pháp thực hiện. Việc tham mưu nhiều khi không ở trong giờ làm việc hành chính mà ở bất kỳ thời gian, địa điểm nào thuận lợi. Đặc biệt, tôi không báo cáo, gặp gỡ lãnh đạo vào lúc họ đang phải tập trung lo những việc lớn. Tôi luôn chủ động tranh thủ sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền, không trông chờ ỷ nại với nhận thức việc đó là trách nhiệm của cấp trên. Kịp thời báo cáo tình hình của nhà trường và xin ý kiến chỉ đạo ở những vấn đế ngoài tầm tay của hiệu trưởng. Nội dung sau tham mưu được thể hiện trong các nghị quyết của cấp ủy, văn bản của địa phương để được toàn cộng đồng ủng hộ. Sau khi được lãnh đạo chấp thuận, thực hiện công việc xong tôi báo cáo lại kết quả thực hiện. + Đặc biệt, các hoạt động của địa phương tổ chức bản thân tôi đều chủ động tham gia cũng như tạo mọi điều kiện để giúp đỡ họ nếu có thể. Tôi chủ động chỉ đạo các bộ phận, đoàn thể của nhà trường tham gia các hoạt động của hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ của xã, ban công an xã, trưởng thôn, bí thư ở các thôn để từ đó tranh thủ sự quan tâm giúp đỡ về mọi mặt của các tổ chức đó. Đồng thời mời họ tham gia lao động công ích như san nền bãi tập, trồng cây bóng mát... Mời họ tham gia tổ chức các chuyên đề, tham quan các di tích lịch sử trong tỉnh, mít tinh kỷ niệm của trường như chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; mít tinh kỷ niệm các ngày lễ lớn 20/11, 8/3, 22/12, 19/5, 1/6, ...Phối hợp tổ chức tết Trung thu; viếng nghĩa trang liệt sỹ; tuyên truyền giáo dục pháp luật cho CBGV và học sinh; tuần lễ học tập suốt đời... để họ thấu hiểu hơn về các nhiệm vụ của nhà trường mà phối kết hợp có hiệu quả hơn. Mỗi thành viên của các ban ngành, đoàn thể đều có trách nhiệm theo dõi, nhắc nhở, hướng dẫn học sinh khi bắt gặp các em vi phạm các chuẩn mực đạo đức hoặc khi tham gia giao thông...Gặp gỡ trao đổi với nhà trường, gia đình đối với những học sinh vi phạm nhiều lần. + Đối với hội Khuyến học, là một thành viên của Ban chấp hành hội tôi luôn tham mưu về nội dung triển khai cũng như các biện pháp thực hiện nhằm liên kết phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh các hoạt động khuyến học của xã. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với hội khuyến học xã để họ tham gia vận động nhân dân tích cực học tập, học tập suốt đời, hỗ trợ, phát thưởng cho học sinh nghèo, học sinh khuyết tật và những học sinh có năng khiếu, học sinh đoạt giải trong các cuộc thi hàng năm. Tôi thường đến dự và phát biểu ở các buổi phát thưởng của Hội khuyến học của các thôn, xóm và các dòng họ, trong bài phát biểu ngoài tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của nhà nước về giáo dục, về công tác khuyến học tôi còn đưa ra các kết quả học sinh đạt được bằng con số cụ thể nhằm tuyên truyền, khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo lý, đề cao sự học, đề cao giá trị của học vấn... của mỗi dòng họ; tạo niềm tin của mỗi cá nhân vào sự 15 nghiệp phát triển của giáo dục. Do vậy các ban khuyến học ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, từ 5 dòng họ khuyến học (năm 2011) đến nay đã có 12 dòng họ khuyến học. Ngoài ra tôi còn vận động CBGV nhà trường ủng hộ quỹ khuyến học của xã và lập quỹ khuyến học của trường nhằm động viên, phát thưởng cho những học sinh nghèo đoạt giải, những học sinh là con giáo viên của trường. + Đặc biệt, với hội Cựu giáo chức, tôi mời hội đặt văn phòng làm việc tại trường để có điều kiện thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với họ, đề nghị họ hỗ trợ các hoạt động giáo dục của nhà trường. Đồng thời đề nghị họ phối hợp phụ đạo ở nhà cho cháu và những học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong học tập. Lập quỹ phát thưởng của hội Cựu giáo chức cho những học sinh là con giáo viên và học sinh đoạt giải cao trong các cuộc thi. + Hằng năm, nhà trường và giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức tốt các cuộc họp cha mẹ học sinh theo quy định. Đặc biệt cuộc họp đầu năm học để bầu những người có năng lực, tâm huyết vào Ban đại diện cha mẹ học sinh (BĐD CMHS) của trường, lớp. BĐDCMHS phối kết hợp chặt chẽ với ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm lớp xây dựng kế hoạch hoạt động của mình và thường xuyên tham gia các hoạt động, phong trào của từng lớp, của trường. Thông tin hai chiều giữa cha mẹ học sinh với giáo viên chủ nhiệm và nhà trường được duy trì thường xuyên. Nhà trường luôn đề cao vai trò của cha mẹ học sinh trong sự phát triển của nhà trường, họ trực tiếp tham gia bàn bạc, thống nhất các chủ trương, biện pháp trong huy động các nguồn lực đầu tư cho nhà trường, tổ chức các hoạt động phát triển năng lực cho học sinh…Do đó cha mẹ học sinh luôn chủ động đề xuất với nhà trường về các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh, cũng như các giải pháp huy động các nguồn lực đầu tư cho cơ sở vật chất trường học. Nhà trường thực hiện tư vấn cho cha mẹ học sinh về nâng cao chất lượng, phát huy truyền thống gia đình vì từ gia đình các em bước đầu hình thành những chuẩn mực đạo đức, thói quen lao động, cách suy nghĩ, thái độ và quan hệ với các hiện tượng và sự vật xung quanh; hình thành những ý niệm đầu tiên về những giá trị mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong cuộc sống hàng ngày. Từ gia đình các em được nuôi dưỡng chu đáo, là cơ sở cho sự phát triển thể chất và tinh thần trong tương lai. Tất cả những gì được hình thành ở học sinh từ gia đình thường để lại trong tâm hồn các em những ấn tượng không bao giờ phai mờ và có ảnh hưởng quan trọng đến các em trong suốt cuộc đời. Hiệu quả giáo dục gia đình phụ thuộc nhiều vào chất lượng gia đình. Nếu cha mẹ bất hòa, gia đình lục đục sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của học sinh, học sinh mất phương hướng, không biết vâng lời ai sinh ra buồn chán, đau khổ không an tâm học tập; tình cảm lệch lạc, bè phái nảy sinh ở học sinh. Từ đó có thể nảy sinh ở học sinh một số thói hư tật xấu như vô lễ, nói dối, tính tình cáu gắt... Đồng thời tôi tổ chức bồi dưỡng kiến thức về kỹ năng giáo dục con cái cho các bậc cha mẹ vì cha mẹ là người thầy giáo đầu tiên, lâu dài của mỗi con người. Kết quả giáo dục gia đình phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, trình độ 16 học vấn và nghệ thuật sư phạm của các bậc cha mẹ. Nhưng “đội ngũ thầy giáo” này lại hầu như bị xã hội bỏ quên, không được đào tạo. Chúng ta thấy người cha là biểu tượng về sức mạnh cơ bắp, trí tuệ và ý chí, là chỗ dựa tin thần và vật chất của gia đình. Dù đi xa, người cha luôn luôn như hiện diện trong gia đình thông qua sự tôn trọng, niềm tin cậy, lòng yêu thương của vợ đối với chồng, của con cái đối với cha. Người mẹ thường tỉ mỉ, gần gũi con hàng ngày, thương yêu chăm sóc con từ tấm bé, có thái độ dịu dàng, tế nhị, vị tha, nên đã cảm hóa, thuyết phục con, có ảnh hướng lớn trong việc giáo dục con lòng nhân ái, tính cần kiệm, tác phong, nếp sống… ngay cả khi các con đã khôn lớn, trưởng thành. Người mẹ cũng là người đặt nền tảng và duy trì mối quan hệ tình cảm của các thành viên trong gia đình, giữa gia đình và xã hội. Vì vậy, việc bồi dưỡng kiến thức về khoa học giáo dục cho các bậc cha mẹ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc cải thiện công tác giáo dục học sinh. + Đối với Quỹ giáo dục Marubeni Nhật Bản tại Việt Nam: Xuất phát từ sự hỗ trợ ban đầu 2,5 tỷ đồng của tổ chức để xây phòng học, nhà trường chủ động giao lưu với tổ chức cả khi họ không về trường công tác, đồng thời thường xuyên mời họ về thăm trường, dự các ngày lễ lớn để báo cáo kết quả hoạt động của nhà trường và cũng là dịp để CBGVNV và học sinh thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với họ, tạo nên tình cảm thân thiện giữa tổ chức với nhà trường. Từ đó, có cơ hội tham mưu để họ thường xuyên quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cũng như khen thưởng, động viên tinh thần phấn đấu của giáo viên và học sinh. Nhà trường đã xây dựng Dự án “Tăng cường trang thiết bị hỗ trợ cho việc giảng dạy và học tập, ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin trong nhà trường” tháng 8/2013 vận động Quỹ ủng hộ 15 bộ máy tính cho phòng máy, 1 bộ máy tính cho quản lý. Năm học 2013-2014, Quỹ đã phát thưởng cho 5 giáo viên, 10 học sinh với tổng số tiền thưởng 17.500.000 đồng (Mười bảy triệu năm trăm ngàn đồng). + Đối với Tổ chức Hỗ trợ phát triển giáo dục Miền núi (HEDO): Nhân xây dựng phòng truyền thống của nhà trường, tôi đã chủ động xin thầy Trịnh Ngọc Trình - Giám đốc điều hành của tổ chức một số tư liệu về thầy để trưng bày (mặc dù thầy không phải là cựu học sinh của trường, thầy tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ từ khi còn là thiếu niên và xa quê từ rất sớm). Sau khi đọc xong các tài liệu viết về thầy, tôi viết thư bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, lòng tự hào, niềm vinh dự của nhà trường về người con dũng cảm, thành đạt của quê hương. Nhân dịp tổ chức Kỷ niệm Ngày Thành lập Đội TNTP Hồ Chí Minh, tôi chủ động mời thầy trực tiếp về nói chuyện với học sinh của trường về cuộc đời hoạt động của thầy. Trong buổi nói chuyện đó, khi cảm ơn về bài nói chuyện của thầy, tôi đã liên hệ với học sinh của trường, những học sinh còn gặp nhiều khó khăn về hoàn cảnh gia đình, của bản thân cần học tập tinh thần của thầy để vượt khó vươn lên học tập tốt hơn. Tôi đã mời một số em có hoàn cảnh khó khăn đó 17 nói lên mơ ước và sự tự rèn luyện phấn đấu của mình, từ đó khơi dậy ở thầy sự thông cảm, chia sẻ cũng như trách nhiệm đối với các em. Sau buổi nói chuyện, tôi đã trực tiếp viết thư cảm ơn Tổ chức HEDO và thầy Trịnh Ngọc Trình, đồng thời đề cập đến sự giúp đỡ của tổ chức đối với các đối tượng học sinh nghèo vượt khó của trường. Với sự thể hiện tình cảm và sự thăm hỏi thường xuyên đã từng bước đưa thầy Trịnh Ngọc Trình và Tổ chức HEDO đến với giáo dục của trường tiểu học Ninh Xuân, từ tặng 15 xuất học bổng (Mười lăm triệu đồng) đến tặng 150 triệu đồng làm Quỹ học bổng “Em Ngọc” (Quỹ mang tên thầy khi còn là cậu bé liên lạc). + Bằng nghệ thuật giao tiếp và ứng xử tôi đã vận động một số doanh nghiệp không đóng trên địa bàn xã quan tâm đầu tư kinh phí phát thưởng bằng tiền, sách vở, bút cho học sinh của trường. 4. Nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh để khẳng định uy tín, chất lượng giáo dục của nhà trường. Uy tín, năng lực của hiệu trưởng, giáo viên và chất lượng học tập của học sinh tạo nên “hình ảnh” và “danh tiếng” của trường, đồng thời là nguồn kích thích sự tham gia ủng hộ của cộng đồng cho sự nghiệp phát triển của nhà trường. - Vì vậy, để nâng cao uy tín, năng lực của đội ngũ nhà giáo, tôi quan tâm cả ba phương diện: chất lượng chuyên môn, phẩm chất đạo đức và chất lượng cuộc sống. Đối với việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên, ngoài việc tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng như thường làm, tôi còn quan tâm đến việc đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn phần thống nhất bài dạy, cách dạy các tiết học khó được thay đổi bằng cách giáo viên dự giờ, quan sát một tiết dạy; chuyển trọng tâm quan sát chủ yếu từ hoạt động của giáo viên trước đây sang quan sát hoạt động của học sinh. Từ kết quả quan sát học sinh như thái độ (cử chỉ, nét mặt, điệu bộ…); nhận thức (sản phẩm học, lời nói…); mối quan hệ GV-HS, HS-HS một cách chi tiết, bản thân giáo viên tự suy ngẫm và chia sẻ với tập thể để cùng khắc phục, điều chỉnh hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh mối quan hệ - tương tác nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo…; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Tất cả những ý tưởng sáng tạo, những hiểu biết mới về phương pháp dạy học của giáo viên đều được vận dụng, trải nghiệm trong sinh hoạt chuyên môn giúp họ tìm ra cách dạy, cách thiết kế một bài học, tạo nên những thay đổi về chuyên môn của đội ngũ giáo viên và những thay đổi về việc học của học sinh. Đồng thời trao quyền tự chủ và hướng dẫn để CBGVNV tự quyết định mọi vấn đề có liên quan đến công việc được giao, giúp họ tự tin, sáng tạo, tạo tinh 18 thần tận tụy với công việc và tạo cho họ cả cơ hội phát triển năng lực lẫn kinh nghiệm. Khi giao việc cho giáo viên tôi căn cứ vào sự hứng thú đối với công việc, sự nhận thức về công việc và hiệu suất làm việc của mỗi người. Vì có rất nhiều phương pháp để thực hiện tốt một công việc nên tôi chỉ nêu rõ định hướng mục tiêu và vai trò của công việc chứ không “cầm tay chỉ việc” mà chỉ hướng dẫn, giúp đỡ khi thấy cần thiết. Thước đo năng lực của giáo viên đối với một công việc cụ thể là ít tốn sức lực, thời gian, tiền bạc hơn mà hiệu quả vẫn cao. Trong tập thể có những người ít quan tâm đến tính hợp tác, thậm chí bảo thủ trong đổi mới phương pháp giảng dạy, có người/nhóm nhỏ tự đề cao khả năng chuyên môn của mình, ít quan tâm và vô tình gây trở ngại cho các hoạt động chung. Đối với trường hợp này tôi gần gũi, chia sẻ, cảm hóa, đưa họ vào guồng máy hoạt động chung. Đi đôi với việc trao quyền tự chủ là sự kiểm soát, đánh giá của Ban giám hiệu để tránh sự xa rời thực tiễn cũng như để rút ra bài học kinh nghiệm. Ngoài việc quan tâm phát triển năng lực chuyên môn, các chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chuyển ngạch, nâng ngạch, nâng bậc lương chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà trường còn đặc biệt quan tâm đến môi trường làm việc đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị và xây dựng văn hóa trường học. Bởi xã hội ngày nay, con người bị cuốn theo cơ chế thị trường, lắm khi ít lưu ý đến cách xã giao thông thường, người ta lo lắng và chật vật cho mưu sinh, nên đôi lúc chẳng còn thời giờ suy nghĩ về phương châm xử thế. Có người dần trở nên dễ nổi nóng, ăn nói bốp chát khiến nhiều việc tưởng chừng đơn giản lại hóa thành phức tạp. Nếu một tập thể mà trong đó mỗi người đều tự do làm theo ý mình, chẳng sợ phật lòng hoặc nể nang ai thì sẽ thấy ngay ở đó những bất hòa, những gây gổ, những sự thù hằn…Do đó cần xây dựng văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử phù hợp trong nhà trường để tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp giữa các CBGVNV, giữa giáo viên với học sinh và một môi trường làm việc thoải mái, lành mạnh. Đó là nền tảng tinh thần cho sự sáng tạo – điều vô cùng quan trọng đối với hoạt động sư phạm mà đối tượng là tri thức và con người. Ngay đầu mỗi năm học, tập thể CBGVNV nhà trường tập trung xây dựng, sửa đổi, cam kết thực hiện nội quy về “văn hóa ứng xử”, “văn hóa giao tiếp” trong nhà trường để đặt ra các nguyên tắc xử sự với nhau và cũng để tạo hành lang pháp lý phù hợp góp phần khắc phục, giải quyết xung đột trong nhà trường. Hiệu trưởng làm việc theo nguyên tắc: từng cá nhân được tôn trọng; công việc và sự đóng góp của tất cả mọi người đều được đánh giá cao (kể cả những người không tham gia giảng dạy) ; “tôn trọng cá nhân”, “giúp mọi người trở thành người chiến thắng” (theo nhu cầu, năng lực, sở trường của từng người ở từng lĩnh vực vì mỗi người đều có thế mạnh riêng), để cho họ “nổi bật lên” (đáp ứng 19 nhu cầu về thành tích của mỗi cá nhân). Từng cá nhân tự đánh giá phẩm chất, hiệu quả hoạt động của họ theo chuẩn mực đã được xây dựng và so sánh bản thân họ với những người khác, giáo viên tự đánh giá nhau và biểu dương thành tích của nhau một cách công bằng, khách quan. Mọi thành tích đạt được của mỗi cá nhân đều được ghi nhận(dù rất nhỏ). Căn cứ vào những thành tích đạt được đó để có hình thức động viên, khuyến khích phù hợp như: khen ngợi trước hội đồng giáo viên, trước hội nghị, lễ kỷ niệm,… đến đề nghị các cấp có thẩm quyền khen thưởng, kể cả các các ban ngành, đoàn thể hay các tổ chức xã hội. Đó là nguồn động viên về vật chất cũng như tinh thần tạo động lực cho họ cống hiến hết mình. - Chất lượng học sinh là sự tổng hợp của ba yếu tố kiến thức, kỹ năng và thái độ. Vì vậy, giáo viên không truyền đạt kiến thức một chiều mà hướng dẫn, hỗ trợ học sinh tìm ra chân lý. Giáo viên dạy học sinh cách ghi nhớ ý nghĩa, hình thành khả năng khái quát, tổng hợp và phát triển tư duy trừu tượng, khơi dậy thái độ say sưa, hứng thú học tập để từ đó kích thích học sinh tự học, tự tìm tòi, tự chiếm lĩnh kiến thức, đồng thời tạo dựng niềm tin vào khả năng tự học của học trò. Nhà trường tổ chức tốt các hoạt động ngoại khóa, các bài viết về văn hóa, truyền thống lịch sử, đặc điểm tự nhiên – xã hội của địa phương, đưa các em đi tham quan…Qua các hoạt động, giáo viên khen ngợi, khích lệ kịp thời những học sinh tự tìm tòi, sáng tạo. Nhà trường có 28 máy tính phục vụ việc học tập của học sinh. Học sinh thường xuyên được sử dụng Intrnet để học tập, đó là một hoạt động bổ ích để học sinh tham khảo các phần mềm tự học cũng như cập nhật các thông tin, kiến thức mới. Xong cũng có nhiều trang Website không lành mạnh, do vậy nhà trường định hướng cho học sinh biết sử dụng và lựa chọn nội dung phù hợp có lợi cho sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các em. Để xây dựng nề nếp tự học của học sinh, giáo viên quan tâm giúp các em xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn; biết sắp xếp thời gian học tập; biết vận dụng mọi phương tiện, mọi hình thức để tự học; học đến đâu, ra sức luyện tập thực hành đến đó. Nhân cách của học sinh được hình thành thông qua các nề nếp học tập, lao động và các nguyên tắc ứng xử trong nội quy học sinh, nội quy này được từng lớp tổ chức thảo luận, bổ sung, sửa đổi ở đầu mỗi năm học cho phù hợp với thực tế và kết quả của năm học trước. Mỗi lớp học và trường có hòm thư “Những điều em muốn nói” để học sinh được trực tiếp bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của bản thân với bạn bè, thầy cô và nhà trường. - Hiệu trưởng là người tổ chức phát triển nhà trường, người nòng cốt điều khiển quá trình đào tạo của nhà trường và là người khích lệ mọi sự canh tân của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất