Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh theo hướng dạy học tích cực...

Tài liệu Skkn biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh theo hướng dạy học tích cực trong môn vật lí trung học cơ sở

.DOC
30
292
80

Mô tả:

1 I. TÊN ĐỀ TÀI: BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH THEO HƯỚNG DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG MÔN VẬT LÍ TRUNG HỌC CƠ SỞ. II. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Tầm quan trọng và lí do chọn đề tài: Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho ngành giáo dục là đổi mới sâu sắc và toàn diện phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí không ngừng vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Một trong những mục tiêu quan trọng của đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay là rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn đời sống. Do đó, việc tăng cường rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học vật lí ở trường trung học cơ sở là rất cần thiết. Trong dạy học vật lí, việc cho học sinh tiếp cận với sách giáo khoa và giải các bài tập là một trong những biện pháp hữu hiệu để rèn luyện cho học sinh trong hoạt động nhận thức cũng như thực hiện các thao tác tư duy ngày một chính xác hơn. Bên cạnh đó, đối với giáo viên, hoạt động chính trong các giờ dạy học vật lí là tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện cho học sinh thực hiện thành công hoạt động nhận thức, để họ tái tạo được kiến thức, kinh nghiệm xã hội và biến chúng thành vốn liếng của mình. Thế nhưng, cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học tích cực ở trường trung học cơ sở chưa được là bao, phổ biến vẫn là cách dạy theo phương pháp truyền thống, thông báo kiến thức định sẵn, dạy học theo một chiều, học sinh thụ động, chưa có thói quen tự học. Mặc dù, trong những năm gần đây, Phòng GD-ĐT Đại Lộc và trường tôi đã tổ chức nhiều hội thi giáo viên dạy giỏi, đã xuất hiện nhiều tiết dạy tốt theo hướng dạy học tích cực, tổ chức cho học sinh hoạt động tự chiếm lĩnh tri thức mới nhưng tình trạng chung hằng 2 ngày vẫn là “Thầy đọc – trò chép”. Nếu cứ tiếp tục dạy và học thụ động như vậy thì giáo dục sẽ không đáp ứng nỗi những yêu cầu mới của xã hội, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vậy, để khắc phục những hạn chế như đã nêu ở trên và nâng cao hiệu quả trong giảng dạy thì yêu cầu đối với giáo viên là phải thường xuyên nghiên cứu, sử dụng những thành quả của những môn khoa học có liên quan, cần phải tiếp thu những thành tựu tiên tiến, những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới, cần tìm ra phương pháp tác động đúng quy luật và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Một trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học là biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh. Kĩ năng tự học giúp học sinh có khả năng học tập, tự học để có thể tồn tại, phát triển trong xã hội tri thức và hội nhập quốc tế. Do vậy, hình thành và phát triển kĩ năng tự học cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong dạy học vật lí ở trường THCS. Đặc biệt, yêu cầu dạy học theo hướng tích cực hiện nay là phải đảm bảo cơ hội học tập cho từng học sinh, các em được tham gia vào quá trình học tập, xây dựng nội dung bài học, họ thực sự là chủ thể của hoạt động dạy học, tất cả đều được nhận sự quan tâm từ giáo viên, cần ưu tiên đến học sinh gặp khó khăn trong học tập. Mỗi học sinh đến trường đều phải được học và học được… Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh theo hướng dạy học tích cực trong môn Vật lí trung học cơ sở”. 2. Giới hạn nghiên cứu đề tài: - Phạm vi nghiên cứu: Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh theo hướng dạy học tích cực trong môn Vật lí trung học cơ sở. - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 8 và 9 (gồm các lớp 8 1, 82, 91, 92 ) trường THCS Kim Đồng, xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. - Thời gian nghiên cứu:Từ năm học 2014-2015 đến năm học 2015- 2016 III. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3 1. Quan niệm về tự học: Lúc đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề tự học và tự đào tạo. Người cho rằng: Tự học chính là sự nỗ lực, sự làm việc có kế hoạch của người học trên tinh thần chủ động và cần có một môi trường để học tập. Theo Nguyễn Cảnh Toàn - Quá trình dạy-tự học, NXB giáo dục 2001. Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng với các phẩm chất của bản thân ( trung thực, khách quan, kiên trì, nhẫn nại, sự say mê khoa học) để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”. Với những cách diễn đạt khác nhau, các tác giả đều có sự thống nhất trong quan niệm về tự học rằng: Tự học là quá trình tự giác, tự chủ trong hành động, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo; trong đó người học thực sự là chủ thể của quá trình nhận thức, nỗ lực huy động các chức năng tâm lý, tiến hành hoạt động nhận thức nhằm đạt được mục tiêu đã định. Tự học là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tri thức và hiệu quả dạy học. Tự học là nội lực quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy học là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học. Quá trình dạy học chỉ có kết quả tốt khi người học tự nỗ lực, tự học để nắm vững những tri thức mà nhân loại đã tích lũy được. Trong học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là người học tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Như vậy, có thể hiểu tự học là một bộ phận của việc học tập, là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm đạt đến một mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại. Sự nỗ lực đó của con người bao gồm cả tư duy, trí tuệ, động cơ tâm lý, thái độ và tình cảm. Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của 4 nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông. 2. Quan niệm về kĩ năng tự học: Kĩ năng tự học là cách thức lựa chọn và thực hiện các hành động học tập do học sinh chủ động, tự giác tiến hành để đạt tới mục tiêu học tập của cá nhân. Kĩ năng tự học được biểu hiện ở hành động và năng lực tự học của mỗi cá nhân. Nói cách khác, năng lực tự học được biểu hiện ra ở kĩ năng tự học. Để tự học có kết quả, người học phải có một số kĩ năng tự học cơ bản sau: kĩ năng đọc sách, ghi chép, ôn tập và hệ thống hóa bài học; kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá; kĩ năng tìm tài liệu, làm việc với nhóm; kĩ năng lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch; kĩ năng tự nghiên cứu...Các kĩ năng tự học có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, bổ sung cho nhau và có ý nghĩa quyết định đến kết quả tự học. Vì vậy, để hình thành và phát triển kĩ năng tự học Vật lí cho học sinh đòi hỏi kết hợp nhiều biện pháp trong quá trình dạy học và rèn luyện trong một thời gian dài với sự nỗ lực cao của mỗi học sinh. Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức, tự học trong trường là tự học có hướng dẫn. Vì vậy, hoạt động tự học của học sinh có những dấu hiệu đặc trưng như: Học sinh phải tìm ra kiến thức bằng chính hoạt động của mình. Học sinh tự thể hiện mình, tự đặt mình vào tình huống, nghiên cứu cách xử lý, tự trình bày, tự bảo vệ sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình trước cách ứng xử của bạn, tập giao tiếp, tập hợp tác với mọi người trong quá trình tìm ra tri thức. Giáo viên là người hướng dẫn học sinh nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự thể hiện mình trong lớp học. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn lớp hoạt động, là trọng tài, cố vấn, kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh để khẳng định kiến thức do học sinh tự tìm ra và cũng là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học sinh; học sinh tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi hợp 5 tác với bạn và dựa vào kết luận của giáo viên, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lý tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình. Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, định hướng nhận thức và vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống. Nói đến năng lực tự học là nói đến tri thức của người học về phương pháp tự học, kinh nghiệm tự học và thái độ, ý chí, tinh thần tự học. Năng lực tự học được coi là một nguồn nội lực quý giá tìm ẩn trong bản thân mỗi con người, là năng lực hết sức quan trọng mà mỗi người cần phải có vì có năng lực tự học mới có thể tự học suốt đời được. Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh là con đường mà giáo viên đưa học sinh của mình đến với chân lý khoa học bằng chính hoạt động của họ. Do vậy, phát triển năng lực tự học cho học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp họ đào sâu, mở rộng kiến thức, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp và phát triển toàn diện, đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia vào quá trình học tập, xây dựng nội dung bài học, học sinh thực sự là chủ thể của hoạt động dạy học, tất cả đều được nhận sự quan tâm từ giáo viên đặc biệt là học sinh gặp khó khăn trong học tập. 3. Các kĩ năng đặc trưng, phù hợp với kĩ năng tự học vật lí: 3.1. Kĩ năng nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề: Đòi hỏi học sinh biết quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, suy luận, tổng quát hóa, khái quát hóa các kiến thức vật lí. Suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ sở những tri thức, kinh nghiệm cá nhân phát hiện ra những khó khăn, thách thức, mâu thuẩn cần giải quyết, các điểm chưa hoàn chỉnh cần bổ sung, các nghịch lí cần làm sáng tỏ… Bồi dưỡng năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề, tạo cho học sinh thói quen hoạt động trí tuệ, luôn tích cực khám phá, tìm tòi, tạo động cơ học tập cho học sinh. 3.2. Kĩ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng trình bày giả thuyết, xác định cách thức và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, khảo sát các khía cạnh, thu thập và xử lý thông tin, đề xuất các giải pháp, kết luận. Cần chú trọng bồi dưỡng cho 6 học sinh năng lực giải quyết vấn đề vì nó vừa là công cụ nhận thức đồng thời là mục tiêu của việc dạy cho học sinh phương pháp tự học. 3.3. Kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn: Quá trình học tập của học sinh là quá trình rèn luyện tư duy trong phát hiện vấn đề, vận dụng tư duy trong việc giải quyết vấn đề. Kết quả phải được thể hiện trong thực tiễn cuộc sống, hoặc là học sinh vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải tạo thực tiễn, hoặc trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có, học sinh nghiên cứu, khám phá, thu nhận thêm kiến thức mới. 3.4. Kĩ năng đánh giá và tự đánh giá: Trong dạy học tích cực đề cao vai trò tự chủ của học sinh, phải tạo điều kiện, khuyến khích và bắt buộc học sinh đánh giá và tự đánh giá. Đồng thời, kết quả tất yếu của việc rèn luyện các kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề đòi hỏi học sinh luôn phải đánh giá và tự đánh giá, biết chính xác năng lực của mình mới có thể tự tin trong việc phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và áp dụng kiến thức. 4. Vai trò quan trọng của quá trình tự học: 4.1. Tự học đóng vai trò cốt lõi của hoạt động học: Kết quả của tự học bao giờ cũng là sự chiếm lĩnh tri thức, biến kiến thức chung của nhân loại thành kiến thức riêng của mình. Người học sẽ không thể nhớ và cũng không thể vận dụng được những kiến thức đó vào thực tiễn nếu như họ không hiểu. Vì vậy, tự học là một hoạt động cốt lõi của việc học. 4.2. Tự học là con đường tự hoàn thiện cá nhân: Trong quá trình tự học, các thao tác tư duy được lặp đi, lặp lại nhiều lần, góp phần hình thành các kĩ năng, kĩ xảo cho người học. Trước một tình huống, một vấn đề thì khả năng tự lí giải sự vật, hiện tượng của học sinh sẽ đạt được ở các mức độ khác nhau. Trong hoạt động học, chất lượng, hiệu quả phụ thuộc vào mức độ tích cực tham gia và khả năng xử lí của người học. Như vậy, tự học là cách để con người tự đúc kết, rút kinh nghiệm, tri thức và dần dần hoàn thiện bản thân mình. 4.3. Tự học có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tư duy: Quá trình lĩnh hội tri thức, người học phải sử dụng các thao tác tư duy như: Tư duy logic ( phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…), tư duy sáng tạo để giải quyết vấn đề. 7 4.4. Tự học có vai trò to lớn trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Ngày nay, nguồn cung cấp thông tin rất đa dạng, phong phú, nếu người học có kĩ năng tự học tốt, sẽ tận dụng được nguồn thông tin trong việc thu nhận kiến thức cho bản thân. IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm. Kiến thức vật lí rất gần gũi với khoa học và đời sống nên nó được áp dụng rất nhiều. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước hiện nay, đồng thời để đáp ứng cho nhu cầu dạy học tích cực nói chung và dạy học môn Vật lí nói riêng. Hiện nay, ngoài những phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp đặt vấn đề, phương pháp thực nghiệm, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp bàn tay nặn bột… thì cách hướng dẫn học sinh học tập có hiệu quả đóng vai trò rất quan trọng. Trong đó có cách sử dụng sách giáo khoa và bài tập vật lí để rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh là rất cần thiết, vì qua thực tế dạy môn Vật lí nhiều năm, tôi thấy có một số khó khăn như: Đối với học sinh lớp 6, lớp 7 lần đầu tiên các em phải tiếp xúc với các hiện tượng vật lí một cách có hệ thống về các lĩnh vực rất quen thuộc thường gặp hằng ngày như cơ, nhiệt (lớp 6), quang, âm, điện (lớp 7). Các em gặp rất nhiều khái niệm mới như: Khối lượng riêng- Trọng lượng riêng, mối quan hệ giữa khối lượng và trọng lương, giữa khối lượng riêng và trọng lượng riêng… Vậy mà trong suốt chương trình vật lý 6 không có một tiết bài tập, nghĩa là các em không có thời gian để được giáo viên hướng dẫn các em làm bài tập tìm khối lượng riêng, trọng lượng riêng…Hơn thế nữa kiến thức này lại được áp dụng rất nhiều khi các em làm bài tập về lực đẩy Ac-si-mét, sự nổi ở Vật lí 8. Tương tự như vậy đối với Vật lí 7 các em làm quen với định luật phản xạ ánh sáng. Ở nội dung này, các em cũng phải làm bài tập nhiều nhưng trong chương trình vật lí 7 cũng không có tiết bài tập. Đặc biệt, đối với học sinh lớp 6, 7 trình độ tư duy còn thấp, vốn kiến thức toán học còn rất hạn chế, kinh nghiệm hoạt động nhận thức còn thiếu, vốn sống thực tế còn nghèo nên khả năng tiếp thu bài và vận dụng được kiến thức vào thực tế là rất khó khăn. 8 Khi các em lên lớp 8, lớp 9 thì chương trình Vật lí càng khó hơn vì ở hai lớp này, ngoài các bài tập định tính thì bài tập định lượng cũng rất nhiều nhưng trong chương trình Vật lí 8 chỉ có hai tiết bài tập, lên đến lớp 9 thì số tiết bài tập có phần nhiều hơn. Khó khăn hơn nữa là về phía học sinh, các em bị chi phối, ảnh hưởng nhiều bởi các tác động xấu ngoài môi trường, xã hội. Đa số các em là con nhà nông, cha mẹ thường xuyên đi làm ăn xa nên các em thiếu sự quan tâm, chăm sóc, quản lí giờ giấc học tập, phần lớn việc học của con em họ đều giao phó cho thầy cô, nhiều em thì có hoàn cảnh gia đình, kinh tế rất khó khăn…Đặc biệt về ý thức tự học của các em còn hạn chế, các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học, đa số các em chưa thực hiện được các kĩ năng tự học, chưa có hứng thú với học tập vật lí…Mặc dù, xung quanh các em có nhiều thuận lợi. Chẳng hạn như: - Sách giáo khoa Vật lí: đầy đủ, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, chứa đựng nhiều nội dung cần tìm hiểu. - Sách bài tập, sách tham khảo Vật lí phong phú, đa dạng. - Cơ sở vật chất ở trường tương đối đảm bảo, dụng cụ thí nghiệm vật lí được bổ sung thường xuyên, các em được tiếp cận với phương tiện học tập hiện đại… - Ban giám hiệu thường xuyên quan tâm, tạo mọi điều kiện có thể để các em học tập tốt. - Thầy, cô giáo thân thiện, nhiệt tình, tận tụy, giúp đỡ để các em học tập tiến bộ. Đối với tôi, là một giáo viên dạy Vật lí THCS, ngoài sự nỗ lực để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân thì tôi còn hướng dẫn học sinh cách sử dụng sách giáo khoa và bài tập vật lí để rèn luyện kĩ năng tự học cho các em. Kết hợp các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh với các phương pháp dạy học tích cực hiện nay sẽ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách có hệ thống, các em sẽ hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó sẽ áp dụng 9 kiến thức học được vào trong cuộc sống và đặc biệt là sẽ tự tin, tự giác, hứng thú tiếp tục học ở các lớp trên. Hơn nữa, học sinh trung học cơ sở có độ tuổi từ 11- 15, là thời kì quá độ từ trẻ con sang người lớn và giai đoạn này tạo nên sự phát triển đặc thù về mọi mặt: phát triển thể chất, trí lực, đạo đức, xã hội...Học sinh đã xác định động cơ học tập để nắm vững tri thức, sẵn sàng lao động, nhưng chưa bền vững. Học sinh đã thể hiện hứng thú với các môn học, yếu tố say mê tự học đã xuất hiện ở nhiều học sinh. Sự phát triển về nhận thức tạo điều kiện cho học sinh khả năng quan sát tinh tế, tư duy trừu tượng, phát triển ngôn ngữ và ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa tăng lên. Tư duy khái quát, độc lập của học sinh trung học cơ sở được phát triển mạnh, tư duy sáng tạo giúp học sinh thích tìm ra cách học, cách giải bài tập riêng của mình, phát minh ra cái mới...Từ những đặc điểm này, giáo viên dạy môn Vật lí chú ý nâng cao hứng thú của học sinh với môn học, phát huy tính tích cực, sáng tạo qua việc tổ chức các hoạt động học tập, rèn luyện kĩ năng tự học, đặc biệt tự học với sách giáo khoa và với bài tập vật lí. Nhằm xác định mức độ tự học của học sinh, tìm nguyên nhân của hiện trạng: động cơ, hứng thú tự học môn Vật lí, thời gian tự học bình quân ngoài giờ trên lớp/ngày,…để đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học môn Vật lí ở trường THCS, đầu năm học 2014-2015, tôi đã tiến hành khảo sát tại bốn lớp 81, 82, 91 và 92 ở Trường THCS Kim Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam bằng cách phát phiếu thăm dò với hình thức trắc nghiệm. Nội dung phiếu thăm dò: Em hãy đánh dấu nhân vào ô trống ở từng nội dung trong phiếu sau: TT 1 2 3 4 Mức độ tự học Thường xuyên tự học Có tự học nhưng chưa thường xuyên Chưa tự học Em có thích học môn Vật lý không? Ô trống 10 Kết quả khảo sát như sau: * Về mức độ tự học Lớp TSHS 91 92 81 82 Chưa tự học Có tự học nhưng Thường xuyên tự chưa thường học xuyên SL TL% SL TL% SL TL% 33 13 39,4 14 42,4 6 18,2 35 14 40,0 13 37,1 8 22,9 29 14 48,3 8 27,6 7 24,1 30 15 50,0 9 30,0 6 20,0 Trên cơ sở thu thập thông tin, xử lý số liệu, kết quả thu được như trên, tôi thấy phần lớn học sinh chưa tự học hoặc có tự học nhưng chưa thường xuyên, số ít thực hiện được ở mức thường xuyên. *Về hứng thú học tập Vật lí Lớp TSHS 91 92 81 82 33 35 29 30 Chưa hứng thú học Vật lí SL TL% 17 51,5 16 45,7 15 51,7 17 56,7 Có hứng thú học Vật lí SL TL% 16 48,5 19 54,3 14 48,3 13 43,3 Từ kết quả ở bảng trên, tôi thấy rằng số học sinh có hứng thú học tập môn Vật lí chưa nhiều, số học sinh chưa hứng thú với môn Vật lí còn khá cao. Nhận thức về vai trò của môn học và hứng thú học tập với môn học có quan hệ chặt chẽ với nhau nó ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả tự học và rèn luyện kĩ năng tự học. Nếu học sinh nhận thức đúng về môn học, có tình cảm với nó, sẽ tạo nên động cơ mạnh mẽ, từ đó có tinh thần, ý chí vượt qua những trở ngại trong học tập. Ngược lại, không có hứng thú học tập, sẽ không tập trung suy nghĩ, học chỉ là sự đối phó, hình thức. Ngoài ra để biết được mức độ nắm kiến thức của các em, tôi còn tiến hành khảo sát chất lượng ở 4 lớp trên và kết quả thu được như sau: * Bảng thống kê chất lượng khảo sát đầu năm môn Vật lí: Lớp TSHS 91 33 Giỏi SL TL% 2 6,1 Khá Trung bình Yếu TB trở lên SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 10 30,3 11 33,3 10 30,3 23 69,7 11 92 81 82 35 29 30 4 3 5 11,4 10,3 16,7 12 7 7 34,3 24,1 23,3 12 13 10 34,3 44,8 33,3 7 6 8 20,0 20,7 26,7 28 23 22 80,0 79,3 73,3 Vậy, nguyên nhân nào làm cho mức độ tự học của học sinh còn thấp, số học sinh chưa hứng thú học môn Vật lý còn khá cao và số học sinh có học lực yếu còn nhiều? Có phải là do phần lớn các em chưa có kĩ năng tự học? Chưa hứng thú học môn Vật lí? Để giải quyết vấn đề trên, tôi đã tìm và nghiên cứu các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Vật lí ở trường THCS. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Vật lí ở trường THCS: 1. Hướng dẫn HS tổ chức các hoạt động tự học: 1.1. Tự học ở trên lớp: Để hoạt động tự học ở trên lớp có hiệu quả, thì việc đầu tiên giáo viên cần làm là tạo niềm tin và hứng thú học tập cho học sinh. Bởi vì: Theo tâm lý học, các thành phần bên trong thái độ học tập của người học là nền tảng quan trọng nhất cho việc hình thành và phát triển năng lực tự học. Chỉ khi nào người học tự ý thức được tầm quan trọng của tự học, có niềm tin vào bản thân thì việc tự học, tự nghiên cứu mới trở thành sở thích, đam mê, tự giác mà không cần có sự thúc giục của yếu tố bên ngoài. Với học sinh THCS, ý thức tự giác trong tự học mới hình thành nên giáo viên là người biết nhen nhóm, thắp sáng niềm tin, tạo hứng thú và động cơ tự học cho học sinh. Để tạo niềm tin và hứng thú cho học sinh khi tự học, giáo viên có thể tổ chức hoạt động nhóm. Khi tham gia hoạt động nhóm, mỗi học sinh có một sở trường, một thế mạnh, họ sẽ hỗ trợ, học tập lẫn nhau. Giáo viên có thể giao những nhiệm vụ phù hợp, vừa sức với học sinh. Trong quá trình dạy trên lớp, giáo viên có thể sử dụng các phương pháp như dạy học nêu vấn đề, dạy học theo hướng giải quyết vấn đề, dạy học hợp tác…Chẳng hạn khi dạy về quán tính, giáo viên tổ chức cho học sinh giải thích 12 các hiện tượng gần gũi trong đời sống của họ như tại sao người ngồi trong xe ngã về phía trước hoặc phía sau khi xe thay đổi tốc độ đột ngột? hoặc hành động giũ áo cho sạch bụi…Hay khi dạy về lực đẩy Ac-si-met giáo viên có thể yêu cầu học sinh giải thích tại sao tàu, thuyền có thể đi lại trên sông, trên biển hay khinh khí cầu bay được trên bầu trời?…và giáo viên cũng cần rèn cho học sinh biết tự điều chỉnh khi nghe giảng để nắm vững kiến thức cơ bản; biết chọn lọc kiến thức để ghi chép theo ý hiểu của bản thân,… Như vậy, để phát triển năng lực tự học ở trên lớp, đòi hỏi cần có sự liên hệ chặt chẽ giữa việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh. Giáo viên phải từng bước hình thành, rèn luyện và phát triển các kĩ năng thành tố trong năng lực tự học cho học sinh. 1.2. Tự học ở nhà: Cùng với các biện pháp taọ niềm tin, hứng thú tự học ở trên lớp thì việc hướng dẫn HS biết cách tổ chức tự học ở nhà là nhân tố quan trọng đảm bảo sự thành công của tự học. Để tổ chức được tự học ở nhà thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh xây dựng kế hoạch tự học. Kế hoach tự học càng cụ thể, chi tiết, càng khoa học bao nhiêu thì sự thành công trong tự học càng cao. Kế hoạch có thể lập cho ngày, tuần…và trong đó cần xác định rõ phần kiến thức tự học, phân phối thời gian, hình thức tự học…Việc thực hiện kế hoạch tự học là khâu quyết định kết quả tự học của họ. Để thực hiện được kế hoạch tốt, HS phải tạo được những thói quen như: tự giác, tập trung tư tưởng khi tự học, có ý chí, quyết tâm vượt khó trong tự học. Hoạt động tự học vật lí ở nhà của học sinh rất phong phú và đa dạng, có tác dụng rất lớn trong việc củng cố, hiểu sâu, hoàn thiện kiến thức, rèn các kĩ năng, kĩ xảo học tập và giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Nếu tổ chức tốt hoạt động tự học ở nhà cho học sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học vật lí ở trường THCS. Để công việc này có hiệu quả cao, giáo viên cần chú ý: giúp học sinh có thái độ đúng đắn và ý thức được mục đích, nhiệm vụ của việc tự học ở nhà; nhiệm vụ giao về nhà phải tạo hứng thú đối với học sinh, vừa đảm bảo trình độ chung của cả lớp, vừa phải chú ý đến những học sinh yếu kém, học 13 sinh khá giỏi; tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tự học ở nhà; rèn luyện cho học sinh thói quen, phương pháp tự học, đồng thời thường xuyên kiểm tra bài làm ở nhà của học sinh để nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ; khối lượng nhiệm vụ mà giáo viên giao về nhà cho học sinh cần đảm bảo vừa đủ, vừa sức đối với họ. Sau đây là gợi ý một kế hoạch tự học trong tuần: Thứ Thứ Thứ tư Thứ Thứ Thứ Chủ Hóa Toán năm Địa sáu Nhạc bảy Anh nhật Làm bài (Học ở Văn Sinh Toán Anh Hóa Toán tập trường Văn C/dân Vật lí Anh Văn Toán Toán theo NGLL M/thuật c/nghệ Sinh Văn Địa TKB) Chiều Chào cờ C/nghệ S/hoạt P/đạo -Đọc lại -Đọc lại -Đọc lại P/đạo -Đọc lại Làm bài Vật lí, các bài các bài các bài Văn các bài tập Lí, Hóa, vừa học vừa học vừa học Anh (ở vừa học Hóa. Buổi Sáng hai Sử Thứ ba Toán (ở -Làm trường) Tối -Làm bài tập Bài tập -Làm trường) bài tập Hóa, Toán, Lí Anh, Sinh -Đọc lại -Học Sinh. -Học -Làm bài tập Anh, Toán. -Đọc lại -Hoàn -Chuẩn các bài với sgk với sgk với sgk các bài thành bị bài vừa học Toán, Sinh, Hóa, vừa học các bài sáng thứ -Chuẩn Anh. Văn. -Chuẩn hai -Chuẩn -Chuẩn -Học Vật lí, bị bài -Chuẩn sáng bị bài bị bài thứ ba sáng sáng thứ tư thứ năm thứ sáu tập bị bài Toán bị bài sáng sáng thứ bảy *Chú ý: - Tùy theo tình hình thực tế mà học sinh lập cho mình một kế hoạch tự học phù hợp với thời gian học trên lớp, ở nhà đảm bảo với khả năng của mình. 14 - Nên nghỉ giải lao 15 phút khi học được 2 giờ để đỡ mệt mỏi và tập trung hơn. 1.3. Tự học trong hoạt động ngoại khóa Bên cạnh hình thức tự học trên lớp, tự học ở nhà thì tự học trong hoạt động ngoại khóa ( nếu có điều kiện) có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh. Hoạt động ngoại khóa có tác dụng tích cực đối với việc giáo dục và phát triển toàn diện của học sinh. Thông qua hoạt động ngoại khóa, học sinh được rèn luyện khả năng làm việc với tài liệu tham khảo và các nguồn kiến thức khác nhau. Học sinh phải tự ôn luyện kiến thức, đọc sách, sưu tầm hình ảnh, video, tài liệu chuẩn bị cho ngoại khóa, tự vận dụng kiến thức đã học vào hoạt động thực tiễn. Học sinh có cơ hội trình bày những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó phù hợp với trình độ và yêu cầu học tập của bản thân. 2. Hướng dẫn học sinh sử dụng các phương tiện học tập: Phương tiện học tập là điều kiện không thể thiếu trong hoạt động dạy học cũng như tự học của học sinh. Trong học tập Vật lí, để việc sử dụng phương tiện hỗ trợ đạt hiệu quả cao, trong quá trình dạy học giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh sử dụng các loại phương tiện học tập khác nhau.Tự học với sách giáo khoa, tài liệu tham khảo; bài tập vật lí giúp học sinh tiếp cận với kiến thức khoa học cơ bản phong phú, sâu rộng. Tự học với các phương tiện hiện đại như máy vi tính, phần mềm với các thiết bị điện tử khác, internet,…giúp học sinh học tập đạt hiệu quả cao hơn; chúng giúp học sinh thu thập, lưu trữ thông tin, trình diễn thông tin…giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách sử dụng sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, các thiết bị thí nghiệm, sử dụng các phương tiện điện tử… để khai thác, xử lý các thông tin. Chẳng hạn, để học sinh làm việc với tài liệu tham khảo, giáo viên cần giới thiệu về tài liệu hoặc địa chỉ tin cậy để học sinh tiếp cận với tài liệu; cần hướng dẫn học sinh cách đọc, ghi chép, trình bày kết quả tìm đọc của mình. Hay trước khi học sinh học một chương nào đó trong môn Vật lí, tôi thường tổ chức (ngoại khóa) cho các em làm quen với các dụng cụ thí nghiệm của các bài học trong chương đó để khi tiến hành làm thí nghiệm trong 15 tiết học, các em không bị lúng túng và sẽ thực hiện nhanh hơn, tiết kiệm thời gian và hạn chế việc làm hỏng dụng cụ thí nghiệm. \ Cô giáo Trần Thị Thanh Nga đang hướng dẫn học sinh lớp 9 2 trường THCS Kim Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam tìm hiểu các dụng cụ thí nghiệm trong chương Điện học. 2.1. Hướng dẫn học sinh tự học với sách giáo khoa Vật lí: 16 Sách giáo khoa là tài liệu học tập chủ yếu, nguồn tri thức quan trọng với học sinh. Việc tự học với sách giáo khoa được tiến hành cả ở trên lớp cũng như ở nhà. Để hình thành kĩ năng tự học vật lí với sách giáo khoa một cách hiệu quả, học sinh cần thực hiện bền bỉ trong một quá trình, qua từng bài học cụ thể, có sự hướng dẫn của giáo viên. Căn cứ vào mục tiêu bộ môn Vật lí ở trường trung học cơ sở, giáo viên cần xác định những kĩ năng tự học vật lí với sách giáo khoa phù hợp với học sinh và tôi đã hướng dẫn học sinh rèn luyện một số kĩ năng cơ bản sau: 2.1.1. Kĩ năng đọc- hiểu nội dung bài ở SGK: Với học sinh trung học cơ sở, đọc được bài không có nghĩa là đã hiểu được nội dung bài. Việc rèn kĩ năng đọc- hiểu nội dung bài học sẽ giúp học sinh xác định được nội dung chủ yếu của toàn bài, nội dung cụ thể của từng mục và xác định được kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó, học sinh có thể trả lời được những câu hỏi: Bài học này hay mục này đề cập đến vấn đề gì? Nội dung nào cơ bản, quan trọng? Đây là kĩ năng cần thiết để rèn luyện các kĩ năng khác khi tự học vật lí với sách giáo khoa, tài liệu. 2.1.2. Kĩ năng quan sát và khai thác kênh hình trong SGK: Kênh hình trong sách giáo khoa môn Vật lí chứa đựng những nội dung vật lí không chỉ minh họa cho nội dung bài học mà còn là nguồn tri thức, có khả năng cung cấp kiến thức, tăng hứng thú học tập cho học sinh. Khi làm việc với kênh hình, học sinh không chỉ quan sát mà còn tìm kiếm được các thông tin ẩn trong đó. Rèn luyện kĩ năng quan sát và khai thác kênh hình sẽ giúp học sinh quan sát tinh tế, sâu sắc hơn cũng như tăng khả năng biểu đạt ngôn ngữ kiến thức của mình. 2.1.3. Kĩ năng diễn đạt nội dung bài học trong SGK: Học sinh trung học cơ sở có khả năng ghi nhớ lôgic, cùng với sự phát triển ngôn ngữ, học sinh thích biểu đạt theo cách hiểu của mình. Vì vậy, kĩ năng diễn đạt có thể bằng lời nói, chữ viết, sơ đồ...Từ một nội dung vật lí nhưng với nhiều cách diễn đạt phong phú thể hiện sự sáng tạo của học sinh, kĩ năng này rất cần được khuyến khích. 2.1.4. Kĩ năng tóm tắt và hệ thống kiến thức trong sách giáo khoa: Kĩ năng này giúp học sinh hiểu bài sâu sắc và rèn luyện được kĩ năng khái quát, tổng hợp kiến thức. Học sinh có thể tóm tắt và hệ thống kiến thức bằng bảng 17 biểu, sơ đồ tư duy...Yêu cầu của kĩ năng tóm tắt và hệ thống kiến thức là ngôn ngữ ngắn gọn, cơ bản. Vì vậy, từ ngữ phải hết sức cô đọng, súc tích, có thể sử dụng các từ khóa đã xác định khi đọc – hiểu, coi đó như những “điểm tựa” cho tư duy và ghi nhớ. 2.1.5. Kĩ năng theo dõi sách giáo khoa kết hợp ghi chép trong giờ học: Kĩ năng đọc- hiểu, tóm tắt và hệ thống hóa kiến thức là tiền đề để học sỉnh rèn kĩ năng ghi chép nội dung bài học. Quá trình ghi chép của học sinh trong giờ học không chỉ thể hiện mức độ hiểu nội dung kiến thức qua bài giảng mà còn là biểu hiện của kĩ năng ghi chép. Học sinh theo dõi sách giáo khoa kết hợp nghe giảng và diễn đạt lại theo ngôn ngữ của mình sẽ giúp học sinh nhớ lâu, khắc sâu nội dung bài học, đồng thời phát huy khả năng tư duy độc lập khi kết hợp các kĩ năng đọc sách giáo khoa- nghe giảng- viết bài. 2.1.6. Kĩ năng làm bài tập: Bài tập vật lí có trong sách giáo khoa hoặc giáo viên giao, đều có tác dụng giúp học sinh dùng kiến thức và kĩ năng của mình chiếm lĩnh kiến thức bài học và thể hiện thái độ trong học tập. Kĩ năng làm bài tập vật lí phản ảnh mức độ nhận thức và khả năng vận dụng kiến thức, tư duy của học sinh trước nhiệm vụ học tập cụ thể. 2.1.7. Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá: Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá được thực hiện ở mức đơn giản là học sinh tự trả lời các câu hỏi hay bài tập có sau mỗi mục, mỗi bài trong sách giáo khoa, sau đó đối chiếu với bài học để đánh giá đúng /sai. Ở mức độ cao hơn, có thể kết hợp sách giáo khoa với phiếu bài tập được giao hoặc căn cứ nội dung sách giáo khoa, học sinh tự đặt ra bài tập để thực hiện. Hoạt động tự kiểm tra, đánh giá kết quả tự học cần tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau và cần phối hợp giữa các hình thức đó với nhau. Chẳng hạn, trong dạy học môn Vật lí ở trường THCS, sau mỗi bài học, học sinh cần trả lời hệ thống câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa hoặc do giáo viên giao thêm ứng với phần kiến thức tự học tương ứng; hoặc yêu cầu học sinh tái hiện lại các nội dung kiến thức đã biết bằng nhiều cách như tái hiện bằng sơ đồ tư duy, bằng 18 hệ thống các công thức vật lí…Ngoài ra, qua nhiều lần thực hiện như thế này, kĩ năng tự kiểm tra của học sinh ngày càng được củng cố và phát triển. Để quá trình tự học của học sinh có hiệu quả, giáo viên nên chọn những bài tập tiêu biểu từ đơn giản đến phức tạp, yêu cầu học sinh tự giải và tự đánh giá bài làm của mình sau khi đã đối chiếu với các bạn trong lớp, với bài giảng của giáo viên. Khi giải các bài tập, các em phải nỗ lực tiến hành các hoạt động trí tuệ nhằm tái hiện, chính xác hóa, hoàn thiện kiến thức, phát hiện tri thức mới. Qua đó, học sinh sẽ biết được mức độ nắm vững kiến thức của mình, những phần nào chưa nắm vững, chưa hoàn chỉnh, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện tri thức. Khi học sinh tự học vật lí với sách giáo khoa, các kĩ năng trên không tồn tại độc lập, riêng lẻ mà gắn bó mật thiết và bổ sung cho nhau. Để rèn các kĩ năng tự học với sách giáo khoa, học sinh trung học cơ sở cần được hướng dẫn từng bước, rèn luyện theo từng bài, dần dần trở nên thành thục, chủ động và tự giác thành các kĩ năng. Sau đây là quy trình cụ thể mà tôi đã hướng dẫn các em tự học vật lí với sách giáo khoa: Bước 1: Xác định chủ đề và khái quát nội dung bài học: Đọc tên bài, phần giới thiệu dưới tên bài, đọc các đề mục để phát hiện và khái quát nội dung bài học. Bước 2: Tìm hiểu nội dung và xác định kiến thức cơ bản trong từng mục: a. Đối với kênh chữ: Đọc kĩ từng mục nhỏ, tóm tắt ý chính và trả lời câu hỏi đề mục đưa ra. Lưu ý: trong quá trình đọc, gạch chân những từ quan trọng, đánh dấu hỏi vào những từ chưa hiểu. b. Đối với kênh hình: Quan sát, tìm kiếm các thông tin có trong đó, như: Hình này gồm những dụng cụ thí nghiệm gì? Hình đó cho em biết việc bố trí thí nghiệm như thế nào?... Bước 3: Tóm tắt ý chính và hệ thống kiến thức bài học, Bước 4: Làm bài tập, Bước 5: Tự kiểm tra, đánh giá với sách giáo khoa. 19 3.2. Hướng dẫn học sinh tự học với bài tập vật lí: * Các dạng bài tập vật lí: Để giờ dạy vật lí đạt hiệu quả, bản thân tôi phải vận dụng tốt các bước theo tiến trình dạy học, một trong những bước quan trọng đó là việc đặt vấn đề thông qua các sự kiện mở đầu. Nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học Vật lí đều thống nhất cho rằng, sử dụng một cách thích hợp các bài tập làm sự kiện mở đầu để đặt vấn đề là một hướng đi đúng và có thể đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, do bài tập vật lí có thể được sử dụng ở các khâu khác nhau trên tiến trình dạy học nên thông qua đó giáo viên thường xuyên thu được những tín hiệu ngược từ phía học sinh về mức độ lĩnh hội của học sinh đối với vấn đề nghiên cứu, về sự phát triển tư duy, về năng lực sáng tạo…Sử dụng bài tập ở mức nào, hình thức cho học sinh tiếp cận ra sao và sử dụng vào lúc nào là tùy theo mục đích, nội dung của vấn đề cần nghiên cứu, tùy theo yêu cầu về mức độ lĩnh hội tri thức của học sinh. Trong quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh khi giải các bài tập vật lí, mỗi hình thức có những tác dụng khác nhau trong việc hỗ trợ và gây hứng thú học tập cho học sinh. Nếu căn cứ vào hình thức thể hiện, tôi chia bài tập vật lí thành 6 dạng: 3.2.1. Bài tập vật lí thể hiện bằng lời: Bài tập vật lí biểu thị câu hỏi bằng lời là loại bài tập mà thông tin dữ liệu và yêu cầu được đặt ra một cách ngắn gọn, súc tích. Khi nghe hoặc đọc xong nội dung của bài tập, Học sinh có thể hiểu và thu nhận chính xác những thông tin về hiện tượng hay các nhu cầu của bài tập. Sử dụng bài tập vật lí trong khâu đặt vấn đề và nghiên cứu kiến thức mới, nghĩa là thông qua bài tập vật lí, giáo viên đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề, gây mâu thuẩn nhận thức, từ đó nêu được vấn đề cần giải quyết. Trong giai đoạn này, có tác dụng trong việc tạo hứng thú, say mê học tập cho học sinh. 3.2.2. Bài tập vật lí thể hiện thông qua hình ảnh: 20 Bài tập vật lí thể hiện qua các hình ảnh là loại bài tập mà lượng thông tin học sinh cần khai thác được thể hiện một cách trực quan ngay trên hình ảnh, nếu dùng lời thì không truyền tải hết được nội dung của thông tin. 3.2.3. Bài tập vật lí thể hiện thông qua các thí nghiệm đơn giản: Bài tập vật lí thể hiện qua các thí nghiệm đơn giản là bài tập có yêu cầu gắn liền với kết quả của một thí nghiệm đơn giản, dễ thực hiện và có thể thành công ngay. Nội dung các bài tập được học sinh thu nhận từ việc quan sát các dụng cụ, bố trí và tiến hành thí nghiệm, đôi khi có thể thể hiện dưới dạng mô tả thí nghiệm đó bằng lời, cho trước kết quả thí nghiệm, yêu cầu giải thích kết quả đó. 3.2.4. Bài tập vật lí thể hiện thông qua các lời giải, phép tính: Bài tập vật lí thể hiện thông qua các lời giải, phép tính là loại bài tập định lượng yêu cầu học sinh vận dụng những kiến thức từ các định luật, kết luận ,công thức vật lí để giải. 3.2.5. Bài tập thực hành: Vật lí là môn học có kiến thức liên quan chặt chẽ với kĩ thuật và đời sống. Nếu học sinh chỉ giành thời gian học lí thuyết sẽ không đủ để nắm vững kiến thức, không vận dụng được để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Vì vậy, giáo viên nên giao bài tập thực hành cho học sinh trong quá trình tự học, giáo viên nên chọn những bài tập phù hợp với học sinh cả về mức độ lẫn số lượng, giúp các em ôn tập, củng cố kiến thức đã lĩnh hội trên lớp. Ví dụ: Sau khi học xong bài: Sự nhiễm từ của sắt và thép- Nam châm điện (Vật lý 9), để khắc sâu kiến thức cho học sinh, giáo viên có thể giao cho các em về nhà mỗi nhóm làm một nam châm điện, dụng cụ gồm: một lõi sắt non, đoạn dây dẫn dài 1 mét, hai viên pin, một số đinh ghim và củng cố lại các cách làm tăng lực từ của nam châm điện. Hay muốn học sinh nắm vững công thức tính điện trở R của dây dẫn, giáo viên giao cho mỗi nhóm học sinh một đoạn dây dẫn bằng các vật liệu, chiều dài, tiết diện khác nhau, yêu cầu mỗi nhóm về tính điện trở đoạn dây dẫn của nhóm mình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng