Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo GDCD-GDNGLL Skkn biện pháp duy trì sĩ số cho giáo viên chủ nhiệm ở lớp có nhiều học sinh là ...

Tài liệu Skkn biện pháp duy trì sĩ số cho giáo viên chủ nhiệm ở lớp có nhiều học sinh là người dân tộc thiểu số

.DOC
27
1142
83

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI   Công việc của giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là một trong những “khâu” quan trọng góp phần vào sự nghiệp giáo dục toàn diện cho học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải đề ra được kế hoạch, phương pháp giáo dục thích hợp cho từng trường hợp đặc biệt bằng cả tấm lòng yêu thương, nhân ái của người Thầy. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, nếu không có kiến thức thì không có thể bình đẳng với các dân tộc khác được”. Trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời nhằm thực hiện chính sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”, xóa dần khoảng cách chênh lệch về giáo dục giữa “miền ngược và miền xuôi”, Đảng và Chính phủ rất quan tâm và chú trọng đến công tác giáo dục cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Để lấp dần khoảng cách trên thì khâu duy trì sĩ số là rất quan trọng. Công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, việc duy trì sĩ số học sinh là một trong những nhiệm vụ trọng yếu. Duy trì tốt sĩ số học sinh không những nâng cao được hiệu quả giáo dục mà đặc biệt hơn là tránh được tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng. Những học sinh thất học là một mối nguy hại lớn cho xã hội: Các em dễ dàng dính vào các tệ nạn xã hội, đặc biệt dễ bị kẻ xấu lôi kéo vào các tổ chức phản động. Bên cạnh đó duy trì tốt sĩ số học sinh còn gắn liền với chất lượng dạy học và hiệu quả giáo dục. Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp và của tập thể nhà trường. Đối với trường có nhiều con em dân tộc thiểu số muốn có được kết quả như vấn đề nêu trên đòi hỏi phải có rất nhiều yếu tố như: Năng lực của giáo viên trong thực hiện công tác phối kết hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Sự phối hợp nhịp nhàng và đồng thuận tốt là tiền đề giúp cho việc duy trì và phát triển sĩ số học sinh đạt kết quả tốt. Trường trung học phổ thông (THPT) Đinh Tiên Hoàng mà tôi đang công tác là một trường có đa số con em là đồng bào dân tộc thiểu số Trang 1 của huyện Krông Pa _ Gia Lai. Trường nằm tại xã IaHdreh, đa số gia đình của học sinh đều thuộc diện “xóa đói giảm nghèo”. Đời sống của con em đồng bào còn nhiều thiếu thốn về vật chất, tinh thần, văn hóa văn nghệ, các loại hình giải trí lành mạnh trong khi đó tệ nạn ngoài xã hội có nguy cơ len lỏi vào học đường, học sinh không hứng thú trong học tập làm gia tăng tỉ lệ học sinh bỏ học giữa chừng là điều không tránh khỏi. Là người giáo viên chủ nhiệm lớp ai cũng như tôi đều trăn trở, bức xúc trước thực trạng học sinh vắng học, bỏ học, không ham học; để lưu và giữ con em đồng bào dân tộc thiểu số đi học đều là việc vô cùng khó khăn. Vậy làm thế nào để công tác duy trì sĩ số lớp mình chủ nhiệm đạt kết quả tốt trong năm học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo của nhà trường nói riêng và góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung. Với những lý do đó tôi chọn đề tài: “Biện pháp duy trì sĩ số cho giáo viên chủ nhiệm ở lớp có nhiều học sinh là người dân tộc thiểu số” để các đồng nghiệp tham khảo thêm trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm lớp của mình. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tôi thực hiện đề tài này trên cơ sở những kinh nghiệm đã rút ra được trong quá trình công tác chủ nhiệm, trình bày ra nhằm giúp bản thân và đồng nghiệp làm tốt hơn trong công tác chủ nhiệm lớp. III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Trong đề tài này, tôi đã nguyên cứu nguyên nhân, tình trạng bỏ học của học sinh dân tộc thiểu số ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng và áp dụng các biện pháp duy trì sĩ số lớp để có kết quả cao trong việc đảm bảo sĩ số lớp. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trường trung học phổ thông, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng Trang 2 của giáo viên chủ nhiệm. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt động học tập của nhà trường. Bên cạnh đó khi giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm và có phương pháp tốt thì sẽ tạo điều kiện và có thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn của mình. Song song với việc đổi mới ấy, việc quản lí giáo dục học sinh cũng rất quan trọng, đặc biệt vai trò của GVCN trong công tác giáo dục học sinh. GVCN được coi như người mẹ, người cha thứ 2 của học sinh, người mà luôn được học sinh gửi gắm tâm tư nguyện vọng của mình khi mà cả cha và mẹ đều không biết đến việc học của con mình như ở địa bàn nơi tôi đang công tác. Đối với học sinh THPT, lứa tuổi mà ở đó đặc điểm tâm sinh lí khá phát triển, trí tuệ biến đổi cả về chất và lượng. Các em biết quan sát nhạy bén và cảm nhận tinh tế, tư duy trừu tượng ở mức cao. Nhưng lại rất dễ thay đổi tính nết, dễ sa ngã và bị lôi kéo, lứa tuổi đang và muốn tự khẳng định mình trước mọi người. Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải nắm rõ nhiệm vụ của GVCN trong điều lệ trường phổ thông. Vì GVCN có một vị trí quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, ý thức đạo đức học sinh, tạo điểm nhấn góp một phần trong phong trào xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Do đó, GVCN là một trong những nhân tố thúc đẩy sự hình thành nhân cách của học sinh, mang lại một phần kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của các em. Học sinh THPT không những cần được trau dồi tư tưởng vững vàng, có nghị lực vượt khó trong học tập và đời sống mà các em còn đóng vai trò quan trọng trong chất lượng, tỷ lệ thi tốt nghiệp THPT của nhà trường, tỷ lệ học sinh đỗ đại học, cao đẳng. Vì vậy việc quản lí giáo dục học sinh THPT không phải là dễ. Hơn nữa hầu hết GVCN là kiêm nhiệm chưa qua lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ làm GVCN, làm việc với những kinh nghiệm sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm. 1. Vị trí của giáo viên chủ nhiệm lớp: Trang 3 - Ở nhà trường THPT, trong mỗi lớp học đều có một giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp là người được Ban giám hiệu bổ nhiệm, chịu trách nhiệm quản lý công tác giáo dục và đào tạo học sinh ở lớp mình phụ trách là người chịu toàn bộ trách nhiệm trước Ban giám hiệu và nhà trường về mọi vấn đề thuộc lớp mình. - Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp về mọi phương diện: Tư tưởng, học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể. - Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường. - Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng học sinh trong tập thể lớp. - Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể học sinh - xã hội. Như vậy một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn. 2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp: - Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị vững mạnh. - Giáo viên chủ nhiệm tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. - Giáo viên chủ nhiệm luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh. 3. Những phẩm chất chủ yếu của giáo viên chủ nhiệm: Trang 4 - GVCN phải có nhân cách toàn vẹn thể hiện qua việc nhận thức, có thái độ và hành vi cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội và phát huy truyền thống đạo đức của dân tộc (hiếu học, trọng đạo, tôn sư). - Có lòng nhân ái, nhất là đối với học sinh, người già, trẻ em, người thiệt thòi bất hạnh,… - Yêu nghề, say sưa với công tác giáo dục. - Có tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng cao, có lương tâm nghề nghiệp vững vàng. - Khiêm tốn, cầu tiến, tích cực tự hoàn thiện không ngừng. - Mẫu mực, trung thực trong cuộc sống. 4. Những năng lực sư phạm cần thiết đối với giáo viên chủ nhiệm: - Có tầm hiểu biết rộng về văn hoá chung. - Có tri thức sâu sắc, hiện đại về môn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm. - Có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy học. - Có khả năng thu thập, tích luỹ tri thức, tự học để ngày càng nâng cao hoặc mở rộng tầm hiểu biết của mình. - Có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú và động cơ học tập và rèn luyện đạo đức ở học sinh. - GVCN cần tự trang bị cho mình nhiều thủ thuật lôi cuốn đa dạng để khi cần có thể tung ra trước học sinh nhằm tạo sự gần gũi, thân mật giữa cô và trò, giữa trò với trò. - Có sự thành thạo trong các kỹ năng sư phạm như: + Giao tiếp sư phạm trước đám đông hay đối xử cá biệt. + Biểu lộ và kiềm chế các cảm xúc, tình cảm khi cần thiết. + Diễn đạt, trình bày các vấn đề có logic, tính truyền cảm có thuyết phục của một nhà giáo, tri thức khoa học liên môn, tri thức xã hội. + Ứng xử các tình huống sư phạm. + Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo các hoạt động trong công tác chủ nhiệm. Trang 5 II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM 1. Thực trạng Năm học 2009 - 2010 đến năm học 2014 - 2015, tôi được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường làm công tác chủ nhiệm đa phần các lớp cơ bản ở khối 12, về học lực của các em lớp tôi chủ nhiệm không có học sinh giỏi, số học sinh có học lực trung bình, khá chỉ khoảng 30% lớp, còn lại là học lực yếu, 85% hoặc 100% là học sinh thuộc diện chính sách: hộ nghèo, cận nghèo, các em đều là con của gia đình nông dân, người dân tộc thiểu số gồm 3 xã trong huyện (IaHdreh, IaRmok, Krông Năng) còn một số em cha mẹ đi làm ăn xa hoặc cha, mẹ ly thân, ly dị ở với Ông bà, đa số cha mẹ không biết tiếng phổ thông, không quan tâm đến việc học của con em mình. Vì vậy, đối với học sinh còn thiếu sự quan tâm của các bậc phụ huynh. 2. Thuận lợi, khó khăn a. Thuận lợi Một bộ phận học sinh có ý thức kỷ luật cao, ngoan, lễ phép với thầy cô, biết vâng lời cha mẹ. Tích cực tham gia hoạt động phong trào do Đoàn trường, lớp tổ chức. Cơ sở vật chất được nhà trường và các cấp lãnh đạo ngày càng quan tâm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, đội ngũ giáo viên bộ môn có chuyên môn vững, nhiệt tình trong giảng dạy. Sự phối hợp chặt chẽ giữa một số bậc phụ huynh với giáo viên chủ nhiệm và đoàn thể. b. Khó khăn: IaHdreh là một xã vùng sâu, đời sống kinh tế đa số gia đình khó khăn, việc đầu tư cho con em trong quá trình học tập còn nhiều hạn chế. Đa số cha mẹ không biết tiếng phổ thông, không quan tâm đến con em của mình. Trang 6 Một phần học sinh cá biệt chưa có ý thức trong học tập và rèn luyện đạo đức chủ yếu do tác động từ hoàn cảnh gia đình hoặc xã hội, bạn bè. Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi, không ổn định, cha mẹ ly thân, ly dị, đi làm ăn xa lo kiếm sống không có thời gian chăm sóc con cái. Với những thực trạng trên, để duy trì sĩ số học sinh ở lớp chủ nhiệm, đặc biệt là học sinh ở khối THPT đang ở lứa tuổi tập làm người lớn, đòi hỏi người giáo viên phải có bản lĩnh, tính dứt khoát, sự quan tâm đồng đều đến lớp mình phụ trách, bên cạnh đó người giáo viên phải có tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu thương học sinh như con em của chính mình. Vì vậy việc đưa ra một số biện pháp nhằm duy trì sĩ số lớp chủ nhiệm là hết sức quan trọng. Từ những thuận lợi và khó khăn trên, sau khi nhận lớp chủ nhiệm tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp chủ nhiệm để định hướng kết quả tốt hơn. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DUY TRÌ SĨ SỐ LỚP CHỦ NHIỆM 1. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh Sau ngày tập trung học sinh, tôi cho học sinh làm lí lịch ghi rõ họ tên, nghề nghiệp cha mẹ, hoàn cảnh sinh sống, nơi ở của gia đình, số điện thoại (nếu có) của gia đình: Nắm xem bao nhiêu em có hoàn cảnh gia đình khá giả, bao nhiêu em hộ khó khăn, bao nhiêu em có sổ hộ nghèo, cận nghèo, bao nhiêu em con gia đình chính sách, con dân tộc, công việc thường ngày của học sinh ở nhà và là đứa con thứ mấy. Ngoài ra, tôi còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp năm trước để nắm rõ hơn về hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Sau đó, tôi tập hợp thành một quyển sổ theo dõi, phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học. Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp giáo dục thích hợp. 2. Nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm năm trước Trang 7 Trong tuần đầu ôn tập, tôi cho các em ôn lại những bài tập bám sát theo kiến thức cơ bản, đồng thời tôi còn xem lại học bạ của các em năm trước kết hợp trao đổi với giáo viên để nắm sức học của từng em. Việc làm này đã giúp tôi lựa chọn biện pháp kèm cặp, uốn nắn phù hợp không để cho các em chán nản, bỏ học vì học yếu, phân công cho học sinh khá và học sinh yếu kém ngồi chung bàn hoc để tạo điều kiện giúp đỡ nhau và thành lập Đôi bạn học tập, Nhóm học tập. 3. Liên lạc với Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp Ở lần họp Phụ huynh học sinh đầu năm, Phụ huynh lớp đã bầu ra Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp. Chi hội đã giúp tôi tạo điều kiện cho những em nghèo có đủ sách vở, quần áo, dụng cụ học tập,… Cùng tôi tìm đến nhà gia đình những học sinh vắng không phép, vận động các em trở lại lớp. Đây là cánh tay đắc lực, hỗ trợ cho tôi trong công tác chủ nhiệm. Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp phải có đủ thành phần của 3 xã để khi cần là có người ở địa phương giúp đỡ. 4. Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn Nắm được một số em có hoàn cảnh nghèo đặc biệt (cha mẹ đều đi làm thuê xa ở với ông bà nội (ngoại); mồ côi cha (mẹ)), tôi rà soát lại xem em nào còn khó khăn trong học tập như: sách vở, đồ dùng học tập,… tôi đăng kí cho các em được nhận dụng cụ do nhà trường hỗ trợ. Ngoài ra, tôi còn kêu gọi sự hỗ trợ từ một số phụ huynh có khả năng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em này để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo. Qua đây, tôi cũng thấy tình cảm giữa bạn nhà nghèo và bạn khá giả gần gũi nhau hơn. 5. Thành lập Đôi bạn học tập, Nhóm học tập Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến những em thuộc diện trung bình, yếu. Tôi phân công một em giỏi hoặc khá kèm một em trung bình hoặc yếu và sắp xếp cho 2 em ngồi cùng một bàn. Tôi phân công em học khá hơn làm bàn trưởng, chịu trách nhiệm của bàn mình. Tôi hướng dẫn cho em giỏi, khá cách kèm bạn học: Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận Trang 8 dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu,… Trong lớp, tôi phân công cho từng học sinh phụ trách mỗi bộ môn mà mình học tốt nhất (cán sự bộ môn) để giải đáp các vấn đề mà các bạn không hiểu mà có liên quan đến bộ môn đó, nếu học sinh phụ trách này vẫn chưa rõ thì đại diện lớp để hỏi giáo viên bộ môn. Khi học sinh về nhà thì tôi phân công một số học sinh ở gần nhà học theo nhóm, mỗi nhóm phải xây dựng kế hoạch học tập của nhóm mình một cách cụ thể và nộp lại cho GVCN xem, nhóm này cũng theo dõi và báo cáo lý do vắng học hoặc nguy cơ bỏ học của các bạn trong nhóm của mình. Bản thân GVCN thường xuyên lên lớp 10 phút đầu giờ, để kiểm tra tập vở, bài làm ở nhà của những học sinh trung bình, yếu; xem cách thực hiện của đôi bạn học tập như thế nào để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn. Qua việc làm trên, tôi thấy tình cảm giữa thầy trò đã gắn bó nhau hơn. Những em trung bình, yếu thường hay nhút nhát, rụt rè nay không còn nữa mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn, xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Từ đó các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với bạn bè, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn. 6. Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học Ở tuần đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội quy nhà trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép. Và ở lần họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi cũng thông báo cho phụ huynh biết về quy định này và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở. Ngoài ra, tôi còn cho từng học sinh viết bản cam kết thực hiện tốt “ Nội quy trường học” và “ An toàn giao thông”. Bên cạnh đó, tôi cũng đã xây dựng nội quy của lớp (Biên bản thi đua hàng tuần) như sau: BẢNG ĐIỂM THI ĐUA HÀNG TUẦN I. Điểm thưởng trong tuần - Tổ không có học sinh vắng không phép trong tuần được 50 điểm/tuần. Trang 9 - Tổ không có học sinh vi phạm về đồng phục (kể cả học trái buổi) được 50 điểm/tuần. - Tổ không có học sinh vi phạm tác phong, lời nói được 50 điểm/tuần. - Tổ ổn định tốt 15 phút ôn bài đầu giờ (như: không học sinh rời chỗ ngồi, không mất trật tự,…) được 50 điểm/tuần. - Học sinh có điểm kiểm tra miệng được 8; 9 điểm: +3đ/hs, được 10 điểm được cộng: +5 đ/hs. - Cá nhân phát biểu bài trong giờ học: +1đ/lần. II.Điểm phạt trong tuần: 1. Chuyên cần - Đi học trễ, vào lớp sau giáo viên, nói chuyện: - 5đ/lần. - Vắng học không phép (bố, mẹ không gặp GVCN): - 5đ/buổi/hs. - Trốn học (cúp tiết): -5đ/buổi/hs. - Vắng có phép: - 3đ/buổi/hs. 2. Học tập - Điểm kiểm tra miệng kém 0; 1; 2: - 10đ và điểm 3; 4: -5đ. - Quay cóp khi làm bài kiểm tra: -10đ/lần. - Không chép bài: -10đ. 3. Đạo đức, tác phong... - Học sinh làm lớp bị giờ: Khá: -5điểm/tiết, Trung bình: -10điểm/tiết. - Không áo đồng phục: -10điểm/1lần vi phạm. - Mất trật tự trong giờ học, ngoại khóa, giờ chào cờ, bị ghi tên trong sổ ghi đầu bài: -10điểm/1lần vi phạm. - Không tham gia lao động, trực nhật vệ sinh lớp học, các hoạt động tập thể của lớp: -20điểm/1lần vi phạm. - Vi phạm an toàn giao thông: -10đ/lần - Xả rác trong lớp, trường, mang đồ ăn nước uống vào lớp: -5đ/lần - Viết, vẽ bậy lên tường, bàn: -5đ/lần, - Ngồi lên bàn hoặc xô đổ bàn ghế: -5 điểm/1lần vi phạm - Nói tục, chửi thề: - 5 điểm/1lần vi phạm Trang 10 Giáo viên chủ nhiệm Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học (vì cha mẹ đi làm không có ở nhà), hết giờ dạy, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ huynh hay điện thoại trực tiếp gặp phụ huynh để tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi cách khắc phục, nếu không liên lạc được thì tôi cho HS có nhà ở gần nhà đó về thông báo lại với bố mẹ. Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chỉ nghỉ học 1 ngày không phép thì đến hôm sau đi học lại bình thường, suốt nhiều năm liền có rất ít hiện tượng học sinh bỏ học giữa chừng, ngoài ra nó còn là cơ sở để có biện pháp xử lý học sinh quy phạm, giúp các em sửa lỗi của mình để tiến bộ hơn thành con ngoan, trò giỏi, người công dân có ích cho xã hội. 7. Tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp Giáo viên chủ nhiệm giao cho tổ trưởng BẢNG ĐIỂM THI ĐUA HÀNG TUẦN để theo dõi và tính điểm của tổ viên, các tổ theo dõi chéo với nhau. Trong tiết sinh hoạt cuối tuần, sau khi nghe các tổ trưởng báo cáo, tôi cho lớp tuyên dương những tổ đạt duy trì sĩ số suốt cả tuần để làm gương cho lớp và khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy nhiệm vụ học tập của mình và “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, tôi nhắc nhở nhẹ nhàng kèm theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn, có thể phạt những em này những hình thức nhẹ nhàng như trực nhật ở tuần sau,… Ngoài ra tôi còn nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại khá, giỏi để củng cố lòng tin nơi các em, có thể cho cả lớp đọc báo hoặc xem phim nhưng gương mặt vượt khó học giỏi, gương hiếu học,… Tôi còn yêu cầu học sinh nào có ý kiến gì thì phát biểu để giáo viên giải thích hoặc điều chỉnh. 8. Biện pháp tinh thần Trang 11 Mỗi ngày bước vào lớp tôi đều quan sát cả lớp, thấy các em có mặt đầy đủ là lòng tôi rất vui. Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như: mưa, bão, … Những hôm ấy, tôi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo tay để động viên khích lệ tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn giảng phân hóa theo đối tượng học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi học sinh trong lớp - nhất là những em trung bình, yếu nhằm kích thích học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh hơn. Tôi cũng thật sự hòa nhập cùng các em trong giờ dạy bộ môn của mình hay trò chơi của lớp, của trường tổ chức, tôi luôn tìm cách đề các em luôn đoàn kết, tạo ra một thể thống nhất để giải quyết mọi vấn đề và kết quả là lớp đứng thứ ba của khối sáng ở học kỳ I, mặc dù lớp có học sinh có học lực yếu, kém quá nhiều. Đôi khi, tôi đóng vai là một người bạn, người anh, người chị để các em thoải mái hoạt động tốt không tạo áp lực. Tôi cũng thông báo trước lớp là tôi sẽ luôn luôn lắng nghe và tâm sự với những em có tâm sự, đặc biệt lớp tôi chủ nhiệm năm nay là lớp 12 nên tôi luôn hướng dẫn các em chọn môn thi, ngành thi, cách làm hồ sơ,… sao cho phù hợp nhất với từng em, luôn tìm mọi cách để các em tin tưởng mình và xem minh như người cha thứ hai của các em. Tôi đã xây dựng một hộp thư góp ý của lớp để học sinh nào có yêu cầu, thắc mắc gì,… thì viết thư cho vào thùng thư để GVCN xem thư và giải quyết, hoặc trong tương lai, khi nhà trường có mạng internet thì tôi sẽ lập một tài khoản facebook riêng của lớp để em nào cần tâm sự và chia xẻ nội dung gì thì lên face viết tâm sự đó, thông qua đó học sinh sẽ nhận được nhiều chia xẻ có ích, và lúc này GVCN cũng có bài học bổ ích, đoán được suy nghĩ của học sinh để có biện pháp xử lý thích hợp, tuy nhiên trang face đó thì GVCN yêu cầu học sinh không được đăng tải những nội dung quy phạm pháp luật. Thành lập “Hòm thư góp ý và tài khoản facebook riêng” để học sinh bày tỏ ý kiến là một sáng kiến mới cũng như ứng dụng công nghệ thông tin trong viêc quản lý học sinh, thông qua làm cho lớp học ngày càng phát triển và ngăn chặn được học sinh bỏ học (vì khi học sinh có tâm lý bỏ học thì chúng sẽ đăng những tâm sự liên quan đến bỏ học hoặc tâm sự với bạn bè và bạn bè sẽ đăng tin Trang 12 này lên face và GVCN xẽ biết được và có biện pháp giúp đỡ để học sinh không bỏ học). 9. Lập sơ đồ tổ chức lớp học a. Căn cứ để lập sơ đồ lớp Qua tìm hiểu sơ lược, giáo viên chủ nhiệm tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh (chú ý đến các học sinh có bệnh khuyết tật về mắt, tai, …). Sau đó chia thành 4 tổ. Lập sơ đồ chỗ ngồi thành 2 bản: tại lớp 1 bản, giáo viên lưu lại một bản để tiện lợi cho việc theo dõi học sinh. Căn cứ vào học lực của học sinh: học sinh yếu kém, chậm tiến ngồi gần giáo viên hơn; học sinh khá giỏi ngồi xa giáo viên hơn, nhưng trong một bàn nhất thiết phải có 2 loại học sinh khá/giỏi và yếu/kém. Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của học sinh: học sinh thấp trước, cao sau; học sinh mắt yếu ngồi gần bảng. Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp và ban chấp hành chi đoàn: tôi sắp xếp các em ở vị trí các góc của lớp và cuối lớp để tiện việc theo dõi. b. Thành lập sơ đồ tổ chức lớp học của lớp 12A1 BGH HỘI PHHS LỚP PHÓ HỌC TẬP Tổ trưởng. TỔ 1 ĐOÀN TN GVCN LỚP TRƯỞNG Tổ trưởng. TỔ 2 BT ĐOÀN LỚP Tổ trưởng. TỔ 3 Tổ trưởng. TỔ 4 Trang 13 Tổ 1: Lâm Tổ 2: Bảo Tổ 4: Thả o Sa o đỏ c: Thành lập sơ đồ cơ cấu ban cán sự lớp GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP TRƯỞNG LỚP PHÓ LAO ĐỘNG LỚP PHÓ VĂN THỂ TỔ TRƯỞNG TỔ 1 BÍ THƯ CHI ĐOÀN LỚP LỚP PHÓ HỌC TẬP TỔ TRƯỞNG TỔ 2 LỚP PHÓ TRẬT TỰ TỔ TRƯỞNG TỔ 3 THỦ QUỸ LỚP GIỮ SỔ ĐẦU BÀI THƯ KÝ LỚP PHÓ BÍ THƯ CHI ĐOÀN TỔ TRƯỞNG TỔ 4 d. Giao nhiệm vụ cụ thể - Lớp trưởng: quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp dưới sự chỉ đạo của GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp, sinh hoạt lớp cuối tuần, báo cáo mọi hoạt động trực tiếp GVCN. - Lớp phó học tập: lên danh sách học sinh học tốt nhất cho từng bộ môn phân công phụ trách giúp đỡ bạn học yếu hơn, phải là học sinh học Trang 14 ỦY VIÊN BAN CHẤP HÀNH tốt, báo cáo việc học tập của học sinh trong lớp, duy trì truy bài 10 phút đầu giờ. - Lớp phó lao động: đôn đốc vệ sinh lao động của lớp, trực ban, phân công đem ghế tiết chào cờ, phân công học sinh mang dụng cụ lao động và quản lý lớp trong giờ lao động. - Lớp phó phụ trách văn thể mĩ: phụ trách văn nghệ, giải trí của lớp, ... - Thủ quỹ: thu các khoản tiền quỹ, thăm hỏi. - Thư ký: ghi chép các phiên họp lớp, biên bản sinh hoạt lớp. - Học sinh giữ sổ đầu bài: quản lý, giữ gìn sổ đầu bài buổỉ sáng, buổi chiều, ghi các mục: ngày, học sinh vắng, bỏ tiết, đi trễ, không chuẩn bị bài, vi phạm khác. - Bốn tổ trưởng: theo dõi mọi hoạt động tổ mình hoặc theo dõi chéo tổ với nhau và tổng kết lại cho lớp trưởng ngày thứ sáu. Lớp trưởng tổng hợp vào tiết sinh hoạt lớp. - Bí thư chi đoàn: nắm bắt tiếp thu những thông báo, chỉ thị của đoàn trường kịp thời triển khai cho chi đoàn mình thực hiện đầy đủ. 10. Lập kế hoạch chủ nhiệm a. Kế hoạch năm - Căn cứ kế hoạch, nhiệm vụ năm học của trường THPT ĐINH TIÊN HOÀNG. - Căn cứ đặc điểm tình hình lớp (thuận lợi, khó khăn). - Căn cứ vào chủ đề các đợt thi đua của trường, đoàn thể. - Căn cứ các nhiệm vụ công tác chủ nhiệm năm học. Tôi đã xây dựng các chỉ tiêu về học lực, hạnh kiểm, duy trì sĩ số, biện pháp thực hiện cho cả năm. b. Kế hoạch hoạt động tuần, tháng - Nêu những công việc hoạt động trong tuần, tháng. - Có đối tượng tham gia. - Biện pháp thực hiện. - Kết quả đạt được. Trang 15 - Nhận xét, rút kinh nghiệm. 11. Liên hệ với già làng, người có uy tín trong địa phương, xin số điện thoại của đại diện phụ huynh, già làng, trưởng buôn, … Có những học sinh đặc biệt mà GVCN đã dùng tất cả các biện pháp trên mà không giải quyết được vấn đề thì GVCN có thể liên hệ với già làng, người có uy tín trong địa phương, xin số điện thoại của cha mẹ, đại diện phụ huynh, già làng, trưởng buôn, … để nhờ những người này giúp đỡ trao đổi với em đó, gia đình em đó hiểu hơn về việc mình đang làm. Đặc biệt là người dân tộc thiểu số, họ có lòng tự trọng rất cao và tin tưởng vào già làng, nên GVCN phải nhờ già làng giúp đỡ. Ngoài ra, GVCN có thể yêu cầu với trưởng buôn, trong các cuộc họp của buôn thì nêu ra vi phạm của những HS đặc biệt này để mọi người trong buôn tìm cách giúp đỡ (xin nhắc lại là biện pháp này nên áp dụng cuối cùng vì người dân tộc thiểu số thì có lòng tự trọng rất cao, nếu họ không hiểu thì học sinh đó vì tự ái mà bỏ học). 12. Kết hợp với Đoàn trường Bí thư Đoàn trường luôn là người sát cánh cùng giáo viên chủ nhiệm trong mọi hoạt động phong trào của lớp. Do vậy, trong công tác duy trì sĩ số giáo viên chủ nhiệm cần phải biết và phối hợp để theo dõi, nắm bắt, giáo dục kịp thời những hiện tượng tiêu cực trong học sinh, những tệ nạn ngoài xã hội xâm nhập vào trường học, lớp học như: mâu thuẫn dân tộc, bè phái, lớn bắt nạt bé, chơi game, hút thuốc, uống rượu, đầu tóc, ăn mặc không phù hợp,… Từ đó, cùng tìm ra các biện pháp ngăn chặn giúp các em đi học đều góp phần duy trì sĩ số từng ngày, từng tuần, từng tháng và cả năm học. 13. Kết hợp với giáo viên bộ môn Trang 16 Việc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng nhằm theo dõi học sinh qua đó có kế hoạch điều chỉnh cũng như động viên các em ngại học, giúp các em học tập tốt hơn. Mặt khác, có những em học sinh thích học môn này, lại không thích môn kia vì những lý do khác nhau do vậy tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân từ các giáo viên bộ môn để cùng với giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em để kết quả học tập tốt hơn. Các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn hơn. Hơn nữa thông qua các giáo viên bộ môn trong trường phát hiện về năng khiếu, sở thích cũng như những hạn chế của từng học sinh. Từ đó bồi dưỡng kịp thời giúp các em phát triển một cách hoàn thiện hơn. 14. Kết hợp với Ban giám hiệu Hàng tuần, hàng tháng, tôi đều báo cáo với Ban Giám Hiệu về tình hình học sinh của lớp mình về những biểu hiện chưa tốt, không tốt, những trường hợp có nguy cơ bỏ học cao, xin ý kiến để xử lí kịp thời. 15. Tìm hiểu phong tục, tập quán, ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số Người dân tộc thiểu số có rất nhiều lễ hội hay, lễ hội là nơi để toàn thể mọi người tập trung và chia sẽ về một vấn đề gì đó. Ví dụ: người Jrai (dân tộc thiểu số chiếm số đông nơi tôi đang công tác) có lễ hội bỏ mã, lễ hội lúa mới,… Nếu GVCN mà biết các lễ hội này mà đến dự chung với người Jrai thì họ rất quý trọng GVCN và qua đó GVCN có thể tuyên truyền cho tất cả mọi người về lợi ích của việc đi học, đồng thời cũng nhờ mọi người nên cho con cháu của mình nên đi học đầy đủ, không được bỏ học. Mặt khác, người dân tộc thiểu số lại có ngôn ngữ riêng của từng dân tộc đó. Nếu GVCN mà biết được thông thạo ngôn ngữ đó thì việc giao tiếp với họ rất thuận lợi trong việc tuyên truyền việc học, việc duy trì sĩ số Trang 17 vì đa số cha mẹ của học sinh là người không biết tiếng Việt. Bản thân tôi đã tự học tiếng Jrai bằng cách học qua từ điển, qua giao tiếp với học sinh, người dân địa phương. Do năng lực có hạn nên tôi chưa hiểu hết tiếng Jrai nên khi vận động học sinh bỏ học để đến trường lại tôi thường dẫn theo học sinh người dân tộc thiểu số, tôi sẽ cố gắng hơn nửa để tiếp thu tốt hơn tiếng Jrai. Đây cũng là điểm mới mà tôi chưa thấy sáng kiến kinh nghiệm nào đưa ra nên tôi đã tự suy nghĩ và áp dụng cho trường của tôi và kết quả rất khả quan. IV. BIỆN PHÁP THỰC HIÊN NHẰM GIÁO DỤC HỌC SINH ĐẶT BIỆT. TRÁNH TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ HỌC. 1. Thực trạng: Mặc dù đã áp dụng các biện pháp trên nhưng lớp do tôi chủ nhiệm vẫn có học sinh đặc biệt (là những học sinh chưa ngoan lắm hay bỏ tiết, nghỉ học không phép, vi phạm nội qui nhà trường hoặc có hoàn cảnh đặc biệt), ví dụ: Ksor Ngân, Nay H’ Tlí,... Tôi không muốn sử dụng từ học sinh cá biệt bởi ai cũng có những ưu khuyết điểm, biết cách loại bỏ nó thì tất yếu sẽ trở nên tốt hơn. Thực ra những học sinh chưa ngoan thường gây không ít khó khăn cho GVCN, ảnh hưởng lớn đến kết quả thi đua của lớp, nhiều khi khiến cho GVCN cảm thấy mệt mỏi thậm chí buông xuôi vì nói hoài mà các em không chuyển biến, càng phạt, càng lỳ, chống đối ngầm, cố tình quậy hơn, vi phạm nhiều hơn…thậm chí còn tìm cách trả thù GVCN. 2. Tìm hiểu nguyên nhân: Không phải tự nhiên bản chất sinh ra của các em có những hành vi, hành động thiếu đi tính văn hoá, thiếu đi cái chuẩn mực của đạo đức, hay có những hành động chưa đúng, lời nói chưa đẹp. Là một GVCN tôi cố tìm ra những nguyên nhân. Bởi đôi khi sự cá biệt đó lại do cha mẹ các em tạo nên, (cha mẹ không hoà thuận, chia tay, cha mẹ không quan tâm, chỉ biết cung cấp tiền bạc cho con hàng tháng một lần, vì bố mẹ chỉ mãi lo kiếm tiền làm ăn xa,...). Đó là kết quả của các vết Trang 18 thương tâm lí và sự vô tình của người lớn chúng ta đã gieo vào suy nghĩ lệch lạc dẫn đến các em mang theo nó đến trường, lớp. Khi GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng học sinh với mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục HS cho các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu, có phụ huynh bực tức la rầy, đánh con trước mặt giáo viên và đưa con về, điều đó cho thấy chính phụ huynh đã bất lực với con mình. Vì thế chính các em là nạn nhân của cách giáo dục gia đình. Có những trường hợp các em bị sa ngã khi không cưỡng lại được những ham muốn, cám dỗ của môi trường xã hội (mê chơi games, hát karaoke, uống rượu, bia, hút thuốc,...). Đôi khi các em có bạn khác giới nếu không được giáo dục đúng thì cũng dễ sa đà để lại hậu quả không tốt. Học sinh bỏ học, do em học kém, ham chơi cảm thấy chán, do hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mặc cảm với bạn bè. 3. Giải pháp: Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu, chưa ngoan tôi tìm hiểu nguyên nhân, đặt ra câu hỏi cho mình. Vì sao học sinh lại hành động như vậy? Gần gũi các em nhiều hơn. Phải biết lắng nghe, thấu hiểu điều các em nói bằng trái tim của mình, phải biết dang rộng cánh tay ôm tất cả những điều mà tôi không muốn vào lòng, rồi tìm cách tháo gỡ, gần gũi, thân thiện, bao dung, vị tha với các em hơn. Thuyết phục bằng lời nói rõ ràng, dứt khoát, có lý, bằng tình cảm và nguyên tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh như: giành thời gian trò chuyện nói về học tập, về cuộc sống, nêu gương người tốt việc tốt cụ thể trong nhà trường, bằng các câu chuyện giáo dục về đạo đức (với bản thân tôi phải là tấm gương để các em noi theo như qui định về đồng phục, lời nói phải đi đôi với việc làm và phải đối xử thật công bằng với mọi học sinh), thậm chí tới tận nhà tìm hiểu nguyên nhân. Trang 19 Đưa các em vào hoạt động tập thể trong và ngoài trường với những nhiệm vụ cụ thể. Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ, tế nhị và có hiệu quả. Kiên trì quan tâm, tạo sự tin tưởng của học sinh, tạo niềm tin để các em thoải mái, nói những tâm sự, trăn trở của mình cho GVCN biết, từ đó tôi sẽ nhận định được vì sao em đó có những hành động như vậy, để có biện pháp giáo dục hợp lý. Mỗi học sinh đều có đặc điểm về tâm sinh lý, về mức độ nhận thức, về vốn sống, cung cách cư xử với mọi người xung quanh. Vì thế khi giáo dục những học sinh chưa chuẩn mực không nên quá máy móc, rập khuôn một cách hình thức làm vậy sẽ không bền vững trong giáo dục đạo đức và nhân cách của học sinh. 4. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ ĐÃ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TRÊN Trường hợp 1 Trong lớp tôi chủ nhiệm năm học 2014-2015 có một em học sinh học rất kém, lại thường xuyên đi học muộn, trong giờ học lại thường ngủ gật, không chú ý nghe giảng. Khi bạn đến gặp phụ huynh của em ấy, nhà ở xã Krông Năng nhằm trao đổi về tình hình học tập của em và muốn phối hợp với gia đình để giúp đỡ em học tốt, thì mẹ của em lại xin cho con thôi học. Lý do là vì Cha đã bỏ đi theo người khác, em lại có năm em nhỏ, mẹ em muốn xin cho em thôi học, ở nhà trông em để mẹ đi làm kiếm tiền nuôi các con. Trước tình huống đó, tôi phải làm gì để giúp đỡ cho học sinh của mình? Giải pháp: Tôi bàn bạc với lớp, trao đổi thêm với phụ huynh học sinh, động viên gia đình tạo điều kiện cho em học tiếp. Phân tích lợi ích của việc đi học và tác hại của việc bỏ học một cách tỉ mỉ để phụ huynh thấy rõ tác hại của việc bỏ học. Phối hợp với hội phụ huynh của lớp, trường và địa phương để giúp đỡ gia đình em vượt qua khó khăn. GVCN hứa là sẽ nhờ sự giúp đỡ của các giáo viên bộ môn phụ đạo em này, nhờ học sinh của lớp Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan