SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRƯỜNG THPT SỐ 3 VĂN BÀN
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG:
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI KHÓA VĂN HỌC NHẰM TẠO
HỨNG THÚ VÀ NÂNG CAO KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN LỚP
11 TẠI TRƯỜNG THPT SỐ 3 VĂN BÀN.
Họ tên: Hoàng Thị Thu Hằng
Trường: THPT Số 3 Văn Bàn
1
MỤC LỤC
Trang
TÓM TẮT
3
GIỚI THIỆU
5
PHƢƠNG PHÁP
8
I.Khách thể nghiên cứu
8
II. Thiết kế nghiên cứu
9
III. Quy trình nghiên cứu
9
IV. Đo lƣờng và thu thập dữ liệu
10
PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ
1.Phân tích dữ liệu
11
2. Bàn luận
12
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I.Kết luận
13
II. Khuyến nghị
15
THAM KHẢO
16
PHỤ LỤC
17
2
TÓM TẮT
Văn học là nhân học, dạy văn hƣớng tới hoàn thiện nhân cách cho ngƣời học,
hƣớng tới hoàn thiện những kỹ năng cơ bản mà ngƣời học có thể ứng dụng đƣợc
trong cuộc sống. Đây là mục tiêu mà hoạt động dạy- học môn Ngữ Văn luôn đề
cao. Sẽ không có tác dụng gì nêu ngƣời học chỉ học theo, cảm thụ theo thầy cô
trƣớc một văn bản tác phẩm, trƣớc một kiến thức kĩ năng nào đó trong quá trình
học. Ngƣời học cần tự mình có thể khai thác, có thể đánh giá, có thể vận dụng và
quan trọng hơn có thể ứng dụng vào giải quyết các tình huống xảy ra trong cuộc
sống. Có nhƣ vậy cái đích giáo dục mới cập đƣợc.
Hiện nay theo định hƣớng đổi mới của giáo dục nói chung và bộ môn Ngữ
Văn nói riêng, việc dạy và học môn Ngữ Văn cần thay đổi: học Văn học sinh cần
đƣợc trải nghiệm, đƣợc suy tƣ,đƣợc trình bày quan điểm cá nhân trƣớc một vấn đề
đặt ra trong tác phẩm, trong bài học. Muốn nhƣ vậy học sinh phải đƣợc thực hành
để trải nghiệm. Từ trƣớc tới giờ chúng ta thƣờng chú ý trong giờ Ngữ Văn là học
sinh nắm bắt đƣợc những kiến thức nào, kĩ năng học đƣợc chủ yếu là kĩ năng làm
văn, thực hành văn bản theo sự hƣớng dẫn của thầy cô để còn kiểm tra và thi cử.
Nhiều khi học sinh lúng túng trƣớc một văn bản mới, lúng túng trƣớc một tình
huống xảy ra trong đời sống mà học sinh từng thấy tình huống đó trong văn bản tác
phẩm đƣợc học. Có khi học sinh khi đƣợc tham gia một chƣơng trình, đƣợc thể
hiện trƣớc đám đông lại ngại ngùng, hay khi đƣợc giao nhiệm vụ liên quan đến các
kĩ năng đƣợc hình thành từ bộ môn lại không biết xử lý nhƣ thế nào.
Bản thân ngƣời dạy đôi khi chƣa chú ý đến nhiều việc học sinh ứng dụng
môn học của mình nhƣ thế nào trong đời sống ( do nhiều lý do) nên khiến học sinh
thiếu hứng thú với môn học hơn. Khi ngƣời học thiếu hứng thú với môn học sẽ ảnh
tới chất lƣợng, kết quả giáo dục không cao.
Với đối tƣợng là học sinh trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn, nơi còn nhiều khó
khăn, hạn chế về kiến thức văn học, khả năng diễn đạt bằng lời hay văn bản đều
yếu, nếu giờ học chỉ nhằm mục đích học sinh phải biết đƣợc điều này, nắm đƣợc
kiến thức kia và áp dụng để viết dạng bài này hay dạng bài kia vô hình chung càng
làm cho học sinh thụ động. Hơn thế, học sinh càng ngày càng nản, càng thấy môn
học nặng nề, thiếu tính thiết thực. Thậm chí học sinh thấy môn Ngữ Văn đúng là “
nói phét”, thiếu thực tế càng khiến các em chán với môn học ngày một nhiều hơn.
Vấn đề đặt ra, làm thế nào để học sinh hứng thú hơn, yêu thích hơn với môn
Ngữ Văn, từ đó nâng cao chất lƣợng môn học về mọi phƣơng diện?
3
Trong nhiều phƣơng pháp, cách thức dạy học văn mà ngƣời dạy tiếp thu
đƣợc, tôi đã nghiên cứu và thử áp dụng với đối tƣợng học của mình để đối chiếu, so
sánh và rút ra một phƣơng pháp có hiệu quả nhất, lôi cuốn hứng thú của học sinh
nhất để từ đó tạo đƣợc niềm yêu thích đối với môn học, mà khi đã tạo đƣợc hứng
thú, sự yêu thích thì tất nhiên kết quả học tập đƣợc nâng lên. Tôi lựa chọn phƣơng
pháp để tiến hành nghiên cứu: ngoại khóa văn học .
Khi áp dụng phƣơng pháp này, học sinh hứng thú hơn hẳn với môn học, yêu
thích hơn và tự giác hơn với môn học mà các em từng cho rằng thiếu tính thực tế,
không có tính ứng dụng thực tiễn này.
Nhờ phƣơng pháp ngoại khóa, học sinh hiểu biết hơn về tác phẩm, biết cách
xử lý tình huống, biết áp dụng để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn,
nhận thức tốt hơn về thực tế cuộc sống, hình thành những kĩ năng cần thiết cho bản
thân mình trong cuộc sống hiện đại, đặc biệt các em hình thành tƣ duy sáng tạo hơn
trong quá trình học và tự học.
Nghiên cứu đƣợc tiến hành trên 2 nhóm tƣơng đƣơng là 2 lớp 11A3, 11A4
trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn. Lớp thực nghiệm là lớp 11A3 đƣợc thực hiện phƣơng
pháp ngoại khóa nhiều hơn. Lớp đối chứng 11A4 ít áp dụng phƣơng pháp, cách
hình thức ngoại khóa hơn mà chú trọng nhiều vào chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt.
Để đánh giá sự hứng thú của học sinh khi áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa,
tôi đƣa ra phiếu khảo sát sự hứng thú của học sinh.
Giải pháp sử dụng: Áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học nhằm tạo
hứng thú và nâng cao kết quả học tập môn Ngữ Văn tại trƣờng THPT Số 3 Văn
Bàn.
Khi giả thiết nghiên cứu đƣợc kiểm chứng thấy ảnh hƣởng sao tác động lên
lớp thực nghiệm là lớn ( giá trị SMD = 0,82). Khi kiểm chứng hứng thú với bộ môn
sau tác động thu đƣợc rất khả quan ( đƣợc hỏi- có thích học môn Ngữ Văn với hình
thức ngoại khóa không thì tới 96% học sinh đều thấy hứng thú). Điều đó chứng
minh khi sử dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học có tác dụng tạo hứng thú và
nâng cao chất lƣợng môn học.
4
GIỚI THIỆU
Văn học vốn là một bộ môn trừu tƣợng, là những sáng tạo tinh thần nên vừa
phong phú, vừa đa dạng, phức tạp. Tác phẩm văn học chứa đựng những quan điểm,
tƣ tƣởng đôi khi mang nặng chất triết lý, tính hàn lâm khiến ngƣời học khó hiểu,
khó tiếp nhận.
Học văn không đơn giản hoặc xem tác phẩm văn học ấy có gì, nói gì, học kĩ
năng phân tích ra sao, viết một bài văn nhƣ thế nào mà học văn đích cuối cùng là
hoàn thiện nhân cách, là phát huy khả năng sáng tạo, là ứng dụng đƣợc những điều
đã học vào cuộc sống. Trong những lần đổi mới, thay sách, các nhà nghiên cứu cải
cách đều chú trọng mục đích học Ngữ Văn và đều nhận thấy những tác động to lớn
của bộ môn tới ngƣời học. Chƣơng trình dù thay đổi thế nào thì đều hƣớng vào
ngƣời học, những tác phẩm thay đổi nhằm hƣớng cho học sinh có cái nhìn thực tế,
tích cực hơn, gần hơn về cuộc sống. Từ đó học sinh ứng dụng dễ dàng hơn vào thực
tiễn.
Giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn đều nhận thức đƣợc mục tiêu của môn
học nhƣng do còn nặng về thi cử, nặng về kết quả, do sự kì vọng của nhà trƣờng,
gia đình phụ huynh…nên nhiều khi giáo viên phải làm khác đi mục đích cuối cùng
của bộ môn: hoàn thiện nhân cách,học sinh biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
Cũng chính vì vậy hoạt động ngoại khóa dành cho môn học bị xem nhẹ, bởi mọi
ngƣời ( ngƣời dạy, lãnh đạo, phụ huynh học sinh) coi đó là hoạt động ngoài, hoạt
động để học sinh đƣợc thực hành, đƣợc vui chơi, đƣợc tự do thể hiện những điều
mà tự bản thân nhận thức đƣợc. Những điều đó lại không có tác nhiều cho thi cử,
không có tác dụng nhiều cho thành tích ( mặc dù hoạt động này đóng góp rất nhiều
cho những mục đích đó khi học sinh khơi dậy đƣợc hứng thú với bộ môn). Nhiều
giáo viên ngại tổ chức một hoạt động ngoại khóa vì dù tổ chức theo hình thức nào (
các hình thức ngoại khóa sẽ đề cập ở phần lý luận) đều cần sự đầu tƣ nhiều công
sức, tốn thời gian chuẩn bị, lạm vào thời gian học hoặc ôn tập theo chuẩn kiến thức
kĩ năng cần đạt. Một số giáo viên có ý thức tổ chức các hoạt động ngoại khóa
nhƣng chƣa tìm hiểu đa dạng các hình thức ngoại khóa dẫn đến chất lƣợng của
phƣơng pháp ngoại khóa hiệu quả chƣa cao, thiếu linh hoạt, thiếu sự phong phú để
thu hút học sinh.
Trong quá trình giảng dạy tại trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn ngƣời dạy thƣờng
chú trọng nhiều tới kiến thức và kĩ năng cơ bản mà học sinh cần đạt trong tiết học.
Trong khi đó theo đòi hỏi đổi mới dạy và học môn Ngữ Văn, học sinh phải
5
đƣợc làm việc thật sự, đƣợc tìm tòi, nghiên cứu, đƣợc thể hiện những điều mình
vận dụng sau bài học.
Tại trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn, ngƣời dạy và học vẫn thƣờng chú ý hƣớng
tới kiến thức kĩ năng cần đạt cơ bản để vận dụng nên đôi khi có phần áp đặt, khiến
học thấy môn học nặng nề hơn. Khi học sinh khả năng diễn đạt chƣa tốt, kĩ năng
làm bài còn nhiều hạn chế, tƣ liệu tham khảo hầu nhƣ không có, môn Ngữ Văn
thành một môn học chính căng thẳng, nhiều áp lực. Thực tế đã chứng minh, khi
căng thẳng và áp lực thì ngƣời học sẽ học chống đối, học lấy điểm số, học để thi
chứ những mục tiêu giáo dục hàng đầu khác- giáo dục con ngƣời không đƣợc quan
tâm. Vậy để môn học không căng thẳng, học sinh vừa học tốt vừa đƣợc thực hành,
vừa đƣợc sáng tạo,vừa nhƣ “chơi”, tôi thử đƣa ra một số nguyên nhân để tìm giải
pháp:
Ngƣời dạy chƣa thực sự đầu tƣ và có sự đổi mới
Văn học vốn là một bộ môn trừu tƣợng, là những sáng tạo tinh thần nên vừa
phong phú, vừa đa dạng, phức tạp.
Vốn sống, kinh nghiệm sống của học sinh hạn chế dẫn đến khó nắm bắt
những vấn đề tƣ tƣởng, đạo lý, triết lý mang tính trừu tƣợng trong tác phẩm.
Tâm lý học sinh thấy những tác phẩm văn học có dung lƣợng dài, ngại đọc.
Tâm lý học sinh thích những môn học mà các em thấy tính thiết thực ngay
trƣớc mắt, cho rằng môn Văn thiếu tính thực tế ( đặc biệt với những tác phẩm thời
dại cách xa với thời hiện tại)
……..
Khi tìm hiểu và nghiên cứu các phƣơng pháp đổi mới, tạo hứng thú cho học
sinh, tôi nhận thấy phƣơng pháp ngoại khóa có nhiều bài nghiên cứu, nhiều đề tài
khoa học chứng minh có ảnh hƣởng rất lớn tới việc dạy và học môn Ngữ Văn.
Từ những nguyên nhân tôi liệt kê, những thực trạng tôi phân tích, những tài
liệu tìm hiểu về phƣơng pháp ngoại khóa Ngữ Văn, tôi lựa chọn giải pháp để tạo
hứng thú nhằm nâng cao chất lƣợng môn học cho học sinh lớp 11 tại trƣờng THPT
Số 3 Văn Bàn trong đề tài nghiên cứu:
Giải pháp thay thế:
Áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học nhằm tạo hứng thú và nâng cao
kết quả học tập môn Ngữ Văn lớp 11 trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn.
Vấn đề áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học trong quá trình dạy – học
văn có nhiều bài viết, nhiều đề tài nghiên cứu:
6
+ Phương pháp dạy văn – trong đó có phương pháp ngoại khóa của giáo sư
Phan Trọng Luận.
+ Hoạt động ngoại khóa trong trường THPT của Đoàn Thụy Bảo Châu
Nhiều thầy cô ở các trƣờng cũng tổ chức các hoạt động ngoại khóa văn học:
ngoại khóa văn học dân gian, ngoại khóa về Truyện Kiều của Nguyễn Du….
Các đề tài nghiên cứu nói chung và các hoạt động ngoại khóa văn học đƣợc
tổ chức nói riêng đều cho thấy hiệu quả lớn của phƣơng pháp ngoại khóa văn học.
Tuy nhiên hình thức ngoại khóa văn học phong phú và đa dạng, hình thức này phù
hợp với đối tƣợng này có thể không thể áp dụng đƣợc với đối tƣợng kia.
Tôi muốn có một nghiên cứu cụ thể hơn với đối tƣợng học sinh của mình để
đánh giá đƣợc hiệu quả của phƣơng pháp ngoại khóa văn học với việc tạo hứng thú
và nâng cao kết quả học tập môn Ngữ văn.
Vấn đề nghiên cứu:
Việc sử dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học giúp tăng hứng thú và kết
quả học tập của học sinh lớp 11 trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn hay không?
Giả thuyết nghiên cứu:
Việc sử dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học làm tăng hứng thú và kết quả
học tập của học sinh lớp 11 trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn.
7
PHƯƠNG PHÁP
I.Khách thể nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 11A3 và 11A4 trƣờng THPT
Số 3 Văn Bàn. Bản thân ngƣời nghiên cứu đang trực tiếp giảng dạy các đối tƣợng
này nên có nhiều thuận lợi cho việc nghiên cứu cả về phía đối tƣợng và học sinh
Học sinh:
Chọn 2 lớp: 11A3, 11A4 là hai lớp có nhiều điểm tƣơng đồng: trình độ, số
lƣợng, giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc…
Cụ thể:
Lớp
Giới tính
Dân tộc
Nam Nữ
Tày
Kinh Dao Thái
H’Mông Giáy
11A3
( 18
10
19
0
2
1
4
2
28/28)
11A4
( 18
11
24
0
0
1
3
1
29/29)
Ý thức học tập học sinh:
Ƣu điểm: Đa số học sinh ngoan, có ý thức, biết nghe lời, chăm chỉ
Khi đƣợc giao nhiệm vụ, có tinh thần, trách nhiệm
Hạn chế: học sinh yếu kĩ năng diễn đạt, kiến thức cấp dƣới hổng nhiều
Học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp chỗ đông.
Học sinh ngại học môn Ngữ Văn- nên học yếu, hoặc học mang tính chất
“ học để mà học”.
Giáo viên: dạy cả 2 lớp 11A3, 11A4. Giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy,
nhiệt tình trong công tác, ý thức học hỏi cao.
II. Thiết kế nghiên cứu
Chọn hai lớp nguyên vẹn: 11A3, 11A4. Lớp 11A3 làm lớp thực nghiệm, lớp
11A4 làm lớp đối chứng. Dùng bài kiểm tra 15 phút cuối học kì II làm kết quả
kiểm tra tác động. Dùng phiếu thăm dò kiểm tra độ hứng thú của học sinh đối với
phƣơng pháp ngoại khóa đƣợc áp dụng. Kết quả cho thấy điểm trung bình của 2
nhóm có sự khác nhau, do đó tối dùng phéo kiểm chứng t-test để kiểm chứng sự
chênh lệch điểm chung bình giữa hai nhóm trƣớc tác động.
Kiểm chứng để xác định nhóm tƣơng đƣơng
8
Thực nghiệm
Đối chứng
TBC
4,7
4,52
p=
0,328
P= 0,328 > 0,05, từ đó rút ra sự chênh lệch điểm của 2 nhóm thực nghiệm và đối
chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm đƣợc coi là tƣơng đƣơng.
Kiểm tra sau tác động với nhóm tƣơng đƣơng
Nhóm
Kiểm tra trƣớc
Tác động
Kiểm tra sau tác
tác động
động
Thực nghiệm
Dạy học tích cực áp dụng
phƣơng pháp ngoại khóa
văn học trong và sau giờ
chính khóa.
Đối chứng
Dạy học hạn chế áp dụng
phƣơng pháp ngọa khóa văn
học trong và sau giờ chính
khóa.
Tôi sử dụng phép kiểm chứng t-test để kiểm chứng sự tác động.
III. Quy trình nghiên cứu
1.Chuẩn bị của giáo viên
Trƣớc khi thực hiện đề tài, bản thân ngƣời viết đã tìm hiểu, nghiên cứu về
phƣơng pháp ngoại khóa, tìm hiểu những mặt tích cực, cách thực hiện phƣơng pháp
này, hình thức ngoại khóa nào phù hợp với điều kiện, đối tƣợng học sinh lớp 11 của
trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn. trình bày ở phần phụ lục)
Khi thực hiện phƣơng pháp ngoại khóa cho nội dung hoặc phần học nào,
giáo viên phải chuẩn bị giao nhiệm vụ, hƣớng dẫn cụ thể cho học sinh.
Lớp thực nghiệm: áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học- hình thức sân
khấu hóa và ứng dụng công nghệ thông tin thƣờng xuyên.
Lớp đối chứng: Không sử dụng phƣơng pháp ngoại khóa thƣờng xuyên với
hình thức sân khấu hóa và ứng dụng công nghệ thông tin.
2. Tiến trình thực nghiệm
Phƣơng pháp ngoại khóa văn học đƣợc áp dụng trong hoặc sau các tiết học
chính khóa.
Cụ thể:
9
Hình thức sân khấu hóa có thể đƣợc thực hiện sau khi học xong phần văn
học sử, truyện ngắn, các tác phẩm hoặc đoạn trích kịch, khi tìm hiểu về thể loại văn
học.
Hình thức ngoại khóa bằng ứng dụng công nghệ thông tin: khả năng vận
dụng rộng rãi hơn. Có thể áp dụng trong giờ học chính khóa, sau giờ học chính
khóa. Có thể sử dụng hình ảnh, một thƣớc phim ngắn, một bộ phim tƣ liệu, tài liệu
bổ sung…
Với hình thức sân khấu hoa, tôi thƣờng sử dụng trong các giờ học tự chọn,
hoặc ngoại khóa ngoài giờ.
Ví dụ:
Tiết PPCT
39, 40, 41
Tên bài
Chữ ngƣời tử tù ( Nguyễn Tuân)
44, 45
Hạnh phúc của một tang gia ( trích Số
đỏ - Vũ Trọng Phụng)
Chí Phèo ( Nam Cao)
50,53,54
60, 61, 62
64, 65
102, 103
112,113
Vĩnh biệt Cử Trùng Đài ( trích Vũ Nhƣ
Tô – Nguyễn Huy Tƣởng)
Tình yêu và thù hận ( trích Ro-me-o và
Giulli-et)
Ngƣời cầm quyền khôi phục uy quyền (
trích Những ngƣời khốn khổ)
Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận
Hình thức ngoại khóa
Ứng dụng công nghệ
thông tin
Sân khấu hóa
Sân khấu hóa
Ứng dụng công nghệ
thông tin
Sân khấu hóa
Ứng dụng công nghệ
thông tin
Sân khấu hóa
IV. Đo lường và thu thập dữ liệu
Tôi sử dụng phiếu thăm dò để kiểm chứng mức độ hứng thú của học sinh cả
khối học sinh 11 ( 122 học sinh) đối với ngoại khóa văn học đƣợc áp dụng trong
quá trình dạy – học.
Sử dụng một bài kiểm tra 1 tiết, sử dụng kết quả cuối năm để kiểm chứng sự
thay đổi kết quả học tập sau tác động đối với hai nhóm lớp thực nghiệm và kiểm
chứng. Căn cứ vào kết quả học tập để xác định sự thay đổi chất lƣợng môn học.
Vì phiếu thăm dò đƣợc hỏi khách quan, còn kết quả học tập đƣợc thông qua các bài
kiểm tra chính thức, kết quả chính thức nên mức độ tin cậy và giá trị của dữ liệu là
rất cao.
10
PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ
1. Phân tích dữ liệu
Các kĩ thuật thống kê đƣợc sử dụng trong nghiên cứu: tính phần trăm ( %),
tính giá trị mode; trung vị; giá trị trung bình; độ lệch chuẩn; giá trị p của phép kiểm
chứng T-test; mức độ ảnh hƣởng, hệ số tƣơng quan.
Kết quả:
Kiểm chứng độ hứng thú của học sinhvới môn học khi áp dụng ngoại khóa
văn học
STT Nội dung câu hỏi điều tra
Trả lời
1
Em có hứng thú với các hoạt động Rất hứng Bình
Không
ngoại khóa về văn học đƣợc tổ chức thú
thƣờng
hứng thú
trong năm học vừa qua không?
96.7%
3.3%
0%
2
Khi đƣợc giao nhiệm vụ nội dung Tích cực
ngoại khóa, ý thức chuẩn bị của em
nhƣ thế nào?
86,1%
Bình
thƣờng
8,2%
không thực
hiện
5,7%
3
Khi tham gia các hoạt động ngoại
khóa văn học, việc học môn Ngữ Văn
của em thay đổi theo chiều hƣớng
nào?
Theo em nên tổ chức hoạt động ngoại
khóa văn học nhƣ thế nào?
Tích cự
Tiêu cực
83,6%
4,2%
Không ảnh
hƣởng gì?
12,2%
Thƣờng
xuyên
96,7%
Thỉnh
thoảng
3,3
Không
chức
0%
4
tổ
Trong khi đó các phiếu ở lớp thực nghiệm đạt kết quả cao nhất.
Kiểm chứng kết quả tác động của hoạt động ngoại khóa văn học tới chất
lƣợng môn học
Lớp thực nghiệm
Lớp đối chứng
Mode
5
5,5
3
3
Trung vị
5,00
6,00
4,50
4,25
Giá trị trung bình
4,00
6,05
4,52
4,63
Độ lệch chuẩn
1,44
1,29
1,54
1,73
11
Giá trị của phép kiêm chứng T-test
a. Nhóm thực nghiệm
Giá trị p
Kết luận
Kiểm tra trƣớc và sau tác động
0,00
Có ý nghĩa
Giá trị p
Kết luận
0,328
Không có ý nghĩa
b. Nhóm đối chứng
Kiểm tra trƣớc và sau tác động
Mức độ ảnh hƣởng ( ES) của nhóm thực nghiệm sau tác động với nhóm đối chứng
SMD = ( GTTB nhóm thực nghiệm – ES
Ảnh hƣởng
GTTB nhóm đối chứng)/ độ lệch chuẩn
nhóm đối chứng
Sau tác động
0,82
Có ý nghĩa lớn
Kết quả học tập của 2 nhóm lớp thực nghiệm và đối chứng
Lớp
Xếp loại học lực
Kém
Yếu
TB
Khá
Giỏi
Trƣớc
0
7
17
4
0
11A3
TĐ
%
35
60,7
14,3
0
Sau TĐ
0
3
15
9
1
10,7
53,6
32,1
3,6
2
10
12
5
0
6.9
34,5
41,4
17,2
0
8
14
6
1
27,6
48,3
20,7
3,4
%
11A4
Trƣớc
TĐ
%
Sau TĐ
%
0
0
Tổng
28
28
29
29
2. Bàn luận kết quả
12
Kết quả kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm: điểm trung bình là
6,05; kết quả kiểm tra tƣơng ứng của nhóm đối chứng có điểm trung bình là 4,63.
Độ chênh lệch điểm giữa hai nhóm là 1,42.
Qua phân tích dữ liệu cho thấy kết quả sau tác động có ý nghĩa, điểm 2 nhóm
đối chứng, nhóm thực nghiệm thay đổi, nhóm thực nghiệm kết quả học tập tăng, số
học sinh xếp loại học lực khá giỏi cao hơn so với khi chƣa tác động, điểm trung
bình, yếu giảm xuống. Trong đó nhóm đối chứng điểm yếu có giảm nhƣng chậm,
xếp loại học lực khá giỏi ít hơn.
Mức độ ảnh hƣởng là 0,82 chứng tỏ độ ảnh hƣởng sau tác động là lớn.
Phép kiểm chứng T- test điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động của hai
nhóm lớp p= 0.00 < 0,05. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch điểm trung bình
của hai nhóm lớp không phải là ngẫu nhiên mà là do tác động, nghiêng về nhóm
thực nghiệm.
Qua phiếu thăm dò học sinh, phần lớn học sinh rất hứng thú với hoạt động
ngoại khóa, thừa nhận ảnh hƣởng tích cực của hoạt động này tới kết qủa học tập
của mình và muốn đƣợc tham gia các hoạt động nhƣ vậy thƣờng xuyên trong quá
trình học tập.
Nhƣ vậy giả thuyết nghiên cứu: Áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học
nhằm tạo hứng thú và nâng cao kết quả học tập môn Ngữ Văn tại trƣờng THPT Số
3 Văn Bàn đã đƣợc kiểm chứng.
Việc áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học đã tạo hứng thú học tập và
nâng cao chất lƣợng môn Ngữ Văn tại trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn, góp phần đổi
mới giáo dục.
13
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận
Việc áp dụng phƣơng pháp ngoại khóa văn học vào quá trình dạy và học văn
tạo hứng thú và nâng cao kết quả học tập cho học sinh lớp 11 tại trƣờng THPT Số 3
Văn Bàn.
2. Hiệu quả áp dụng
Để tổ chức một hoạt động ngoại khóa đơn giản hay phức tạp đều cần có sự
chuẩn bị, đầu tƣ từ ngƣời dạy đến ngƣời học. Mới đầu sẽ khó khăn nhƣng chỉ sau
một hoạt động mọi việc sẽ trở nên đơn gian hơn khi học sinh có hứng thú, thích
đƣợc làm việc và hợp tác tích cực. Bản thân ngƣời viết đã áp dụng hoạt động ngoại
khóa: học sinh lớp dạy thi tìm hiểu về tác gia văn học, thi viết kịch bản, xem các tƣ
liệu về văn học sử, xem các trích đoạn tác phẩm, khi học sinh tự tin hơn, học sinh
tự tin diễn kịch trong giờ ngoại khóa của cả trƣờng. việc thực hiện ngoại khóa văn
học không nhất thiết phải nhiều thời gian, chúng ta có thể tổ chức trong giờ tự
chọn, giờ văn học sử, kết hợp với ngoại khóa của tổ, trƣờng hay hoạt động của
đoàn trƣờng.
Thông qua các hoạt đông ngoại khóa văn học khi tôi áp dụng tại trƣờng
THPT Số 3 Văn Bàn, tôi nhận thấy có nhứng kết quả nhất định:
Biến chuyển rõ nhất là học sinh hứng thú hơn nhiều với môn Ngữ Văn, giờ
học không còn một chiều, nặng nề về kiến thức khi cả hai phía ngƣời dạy và ngƣời
học đều đƣợc hứa hẹn những giờ ngoài giờ thú vị.
Học sinh nắm bắt tác phẩm, hình tƣợng trong tác phẩm sâu hơn. Ghi nhớ tốt
hơn những kiến thức văn học sử.
Học sinh độc lập hơn trong suy nghĩ, biết đƣa ra những nhìn nhận, đánh giá
của cá nhân sâu sắc hơn.
Học sinh biết kết hợp, phân công nhiệm vụ cho nhau trong hoạt động nhóm,
hoạt động tập thể.
Học sinh gắn kết, đoàn kết với nhau hơn khi nhận ra đƣợc sức mạnh tập thể.
Học sinh có điều kiện thể hiện khả năng sáng tạo, bồi đắp tƣ duy sáng tạo.
Ngƣời học tự tin hơn trong tất cả các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ.
Có kiến thức sâu, rộng hơn về các tác phẩm văn học, các vấn đề văn học.
Biết nhìn nhận các vấn đề trong cuộc sống và tìm cách khắc phục, giải quyết
những vấn đề nảy sinh.
Qua các hoạt động ngoại khóa, tất cả các đối tƣợng học sinh sẽ có cái nhìn
toàn diện hơn, từ đó hoàn thiện nhân cách.
14
3. Phạm vi ứng dụng
Đề tài nghiên cứu khoa học của tôi rút ra từ thực tiễn giảng dạy trong khi tôi
cùng các đồng nghiệp của mình nỗ lực tìm một cách thức để thu hút, tạo hứng thú
cho học sinh khi học môn Ngữ Văn và nhằm nâng cao chất lƣợng cho môn học. Đề
tài này đƣợc thực nghiệm trên đối tƣợng tôi trực tiếp giảng dạy và học sinh trong
trƣờng. Tôi nghĩ hoạt động ngoại khóa văn học có thể áp dụng cho bất cứ đối tƣợng
học sinh nào với các mức độ khác nhau. Bởi lứa tuổi học sinh THPT cơ bản có
nhiều nét tƣơng đồng đều thíc đƣợc thể hiện, khám phá và sáng tạo.
II. Khuyến nghị
Có lẽ ai cũng nhận ra, hoạt động ngoại khóa nói chung và ngoại khóa văn
học nói riêng có ảnh hƣởng lớn, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động chính khóa nhƣng do
nhiều lý do nên đôi khi chúng ta còn coi nhẹ nó. Chúng ta cần quan tâm hơn tới
hoạt động này để hoàn thành mục tiêu môn Ngữ Văn: dạy văn là dạy làm ngƣời,
dạy cách hoàn thiện nhân cách chứ không chỉ nhằm mục đích học sinh học đƣợc gì
sau giờ học.
Ngƣời viết hi vọng nội dung trên sẽ giúp cho cấp quản lý, ngƣời dạy, học
sinh có cái nhìn thông suốt hơn về hoạt động ngoại khóa trong môn Ngữ Văn, đừng
cho đó là hoạt động bên ngoài, hoạt động vui chơi ngoài chính khóa, không có tác
dụng gì cho giờ học chính khóa.
Bản thân không coi đây là phƣơng pháp cách thức tốt nhất để tạo hứng thú
và nâng cao đƣợc kết quả học tập môn Ngữ Văn, mà là một nghiên cứu khoa học
nhỏ đã thử nghiệm trên đối tƣơng dạy của chính mình. Sau khi kiểm nghiệm bằng
thực tế, thấy có tác dụng, mong đƣợc trao đổi, thảo luận cùng các bậc tiền bối, cùng
bạn bè đồng nghiệp.
Rất mong đƣợc nhận thêm các ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô!
Chân thành cảm ơn!
Ngƣời viết
Hoàng Thị Thu Hằng
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn
2. Các bài báo về ngoại khóa – Tài liệu Việt Nam
3. Đề tài: hoạt động ngoại khóa trong trƣờng THPT – Đoàn Thụy Bảo Châu
4. Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trƣờng – NXB Giáo dục
5. Ngoại khóa văn học dan gian- tài liệu Việt Nam
6. Phƣơng pháp dạy học môn Ngữ Văn – NXB Giáo dục
7. Phân tích Ngữ Văn 11 – NXB Giáo dục
8. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, 11, 12 – NXB Giáo dục
16
PHỤ LỤC
I.HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA VĂN HỌC
1. Ngoại khóa văn học
Hoạt động ngoại khóa là một mô hình hoạt động hữu ích, nằm ngoài chƣơng
trình chính khóa. Hoạt động ngoại khóa văn học là hoạt động thuộc phƣơng pháp
dạy học văn nhằm phát huy năng lực hoạt động độc lập, hoạt động nhóm.
Hoạt động ngoại khóa là hình thức dạy và học mang tính tích hợp cao, có tác động
phát triển kiến thức và rèn luyện kĩ năng toàn diện đáp ứng đƣợc đổi mới phƣơng
pháp dạy học.
Hoạt động ngoại khóa văn học theo quan niệm đổi mới phƣơng pháp dạy học
là một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối liền bục giảng với thực
tiến đời sống, mở rộng, kéo dài trƣờng suy tƣởng, thẩm định về bài học cho học
sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của ngƣời học, kiểm tra lại chất
lƣợng dạy học trong giờ chính khóa. Hoạt động ngoại khóa văn học, vì thế , vừa là
hoạt động giáo dục, vừa là hoạt động thẩm mỹ, “ góp phần tạo ra lối sống văn hóa
và khả năng hƣởng thụ văn hóa nghệ thuật cho học sinh. Qua hoạt động ngoại khóa
văn học, học sinh đƣợc phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và mĩ dục” (
Phan Trọng Luận, Phƣơng pháp dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia 1996, Tr.381)
Hoạt động ngoại khóa là một hoạt động vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý
nghĩa khoa học. Vậy khi chúng ta nỗ lực tìm kiếm và đôie mới phƣơng pháp nhằm
nâng cao chất lƣợng giảng dạy và khắc phục tình trạng học sinh thiếu hứng thú học
văn thì việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa văn học là một xu hƣớng khả dĩ đáp
ứng tốt những yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng lấy ngƣời học là
trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh.
Hoạt động ngoai khóa văn học không chỉ góp phần nâng cao khả năng tƣ duy đọc
lập, tằng cƣờng khả năng sáng tạo, kích thích lòng ham muốn tìm tòi, khám phá
những kiến thức mới của ngƣời học mà còn góp phần hoàn thiện khả năng chuyên
môn và kỹ năng sƣ phạm của ngƣời dạy trong quá trình chuẩn bị hay đồng hành
cùng ngƣời học khi khám phá kiến thức mới.
Thế nhƣng lâu nay trong nhà trƣờng phổ tjoong, hoạt động ngoại khóa văn
học đƣợc hiểu là một hoạt động phụ, nằm ngoài quản lý chuyên môn. Việc tổ chức
hoạt động ngoại khóa tùy thuộc vào quỹ thời gian eo hẹp, vào năng lực và lòng
nhiệt tình của thầy cô. Vô hình chung nó đƣợc coi là hoạt động giải trí đơn thuần,
nên có đƣợc thực hiện thì cũng chỉ sơ sài, qua loa một cách chƣa thỏa đáng.
17
Do đó khi thử nghiệm nghiên cứu này, tôi mong muốn chúng ta có cái nhìn
khác hơn với hoạt động ngoại khóa văn học, một hoạt động rất tích cực, ảnh hƣởng
khá lớn tới chất lƣợng và hứng thú với môn học.
2. Nguyên tắc hoạt động ngoại khóa văn học
Một số nhà nghiên cứu đề cập đến nguyên tắc hoạt động ngoại khóa văn học,
tôi lựa chọn những nguyên tắc áp dụng phù hợp với tâm lý lứa lứa tuổi và vùng
miền, phù hợp với trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn.
2.1. Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, tư cách cho học sinh.
Hoạt động ngoại khóa không phải là hoạt động văn chƣơng thuần túy mà là
hoạt động gắn bó với giáo dục chính trị, đạo đức, tƣ cách.
Khi coi hoạt động ngoại khóa không phải là hoạt động giải trí cho giờ học thì hoạt
động ngoại khóa có tác dụng rất lớn tới giáo dục tƣ tƣởng, đạo đức, chính trị và tƣ
cách cho học sinh. Qua mỗi giờ, mỗi cách thức ngoại khóa học học đƣợc những bài
học về tƣ tƣởng, nhận thức những vấn đề chính trị mà không hề thấy khô khan,
nặng nề hay áp đặt.
Chẳng hạn khi học Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, chúng ta muốn học
sinh nhận thức đƣợc những giá trị: tƣ tƣởng của nhà văn về cái đẹp – cái đẹp cứu
rỗi linh hồn, cái đẹp thuần hóa đƣợc cái xấu, cái ác, cái đẹp không thay đổi dù
trong hoàn cảnh nào….từ đó học sinh nhận ra giá trị cao đẹp của con ngƣời, vẻ đẹp
nhân cách. Ngoài ra chúng ta còn liên hệ tới kiến thức lịch sử- hình tƣợng Cao Bá
Quát qua hình tƣợng nhân vật Huấn Cao- sẽ ẩn trong đó những tƣ tƣởng chính trị.
Nếu đƣợc thực hành ngoại khóa cho tác phẩm này bằng hình thức sân khấu hóa:
cho học sinh chuyển thể văn bản tác phẩm thành kịch bản (chỉ một phần), hoặc
bằng hình thức: ứng dụng công nghệ thông tin- xem hình ảnh, trích đoạn hay một
bài thuyết minh về tác phẩm thì học sinh sẽ nhận biết những bài học đạo đức, chính
trị, lịch sử, tƣ tƣởng sâu sắc và có ý nghĩa hơn.
2.2. Nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với trình độ, tâm lý học sinh.
Ngoại khóa văn học là hoạt động bên ngoài chính khóa, bổ trợ cho chính
khóa nên cần tôn trọng nguyên tắc tự nguyện. Ngƣời dạy không thể ép buộc học
sinh phải tham gia ngoại khóa bằng mọi cách mà cần tìm cách lôi kéo và thu hút
hứng thú cho học sinh. Hoạt động ngoại khóa thúc đẩy khả năng hoạt động sáng
tạo, năng động cho học sinh nên hầu nhƣ không có học sinh nào từ chối tham gia.
Lúc đầu có thể học sinh còn e ngại, rụt rè, thiếu tự tin nhƣng dần dần đƣợc thâm gia
nhiều học sinh hứng thú hơn và tham gia nhiệt tình, thậm chí mong đợi, xung
phong đƣợc tham gia.
18
Học sinh lứa tuổi này học sinh giàu tình cảm, giàu nhiệt huyết, thích những
điều mới lạ, tò mò, sáng tạo, thích hoạt động độc lập, hay thích hoạt động tập thể,
thích đƣợc thể hiện nên hoạt động ngoại khóa văn học phù hợp với tâm lý lứa tuổi.
Những vấn đề học sinh tâm đắc, những vấn đề mới lạ sẽ khơi dậy hứng thú tìm
hiểu. Khi học sinh đã hứng thú tìm hiểu, học sinh sẽ tự lựa chọn cách thể hiện và sẽ
nhận thức đƣợc những bài học có giá trị từ hoạt động ngoại khóa.
Học sinh trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn so với các nơi khác có thể còn nhút
nhát, rụt rè, khả năng hạn chế hơn. Nhƣng theo đúng tâm lý lứa tuổi, học sinh ở đâu
trong lứa tuổi này đều rất thích khám phá, thích tìm tòi và khi đƣợc tham gia những
hoạt động mới, thích đƣợc thể hiện bản thân. Chính nhờ vậy mà hoạt động ngoại
khóa phù hợp với tâm lý, lứa tuổi góp phần giúp học sinh năng động, sáng tạo hơn,
loại bỏ những nhƣợc điểm không đáng có ở tuổi mà tất cả chúng ta đều công nhận
là đẹp nhất cuộc đời nay. Khi đƣợc tham gia các hoạt động ngoại khóa, học sinh
trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn cũng khắc phục đƣợc nhiều điểm yếu, nhất là học sinh
lớp thực nghiệm.
2.3. Nguyên tắc tích hợp
Khi xây dựng một chƣơng trình ngoại khoa văn học dù theo hình thức nào
cũng phải lƣu ý tới nguyên tắc tích hợp. Ngoại khóa văn học là một phƣơng pháp
dạy học tích hợp, tích hợp với các môn học khác: lịch sử, địa lý, giáo dục công dân,
thậm chí cả những môn khoa học tự nhiên. Ngoại khóa văn học, hơn cả là sự tích
hợp với đời sống, học sinh học đƣợc nhiều bài học về đời sống, thực hành trong đời
sống thông qua các hoạt động đƣợc tham gia.
Những câu truyện ngụ ngôn, truyện cƣời, những tác phẩm văn học khi đƣợc
dàn dựng lại theo cách nhìn của các em thật thú vị mà sâu sắc. Ngƣời viết cùng học
sinh đã cƣời nghiêng ngả trƣớc một vở kịch các em biên soạn lại từ tác phẩm Chí
Phèo của Nam Cao, sau khi vở kịch kết thúc cứ vấn vƣơng thƣơng cho số phận 2
con ngƣời nhỏ bé, côi cút, 2 kiếp ngƣời bơ vơ, lạc lõng Chí Phèo, Thị Nở. Đôi khi
cứ day dứt băn khoăn, phân vân trƣớc những giải pháp mà học sinh thử đặt ra chho
nhân vật: chọn một kết thúc khác cho tác phẩm Chí Phèo. Qua cách thể hiện, các ý
kiến, cách giải quyết mà học sinh đƣa ra, ngƣời dạy không chỉ rèn cho học sinh
cách tự giải quyết trƣớc những vấn đề nảy sinh trong đời sống mà còn hiểu đƣợc rõ
hơn những suy nghĩ của học sinh, những vấn đề nảy sinh trong tƣ tƣởng, tâm lý để
định hƣớng cho các em hoàn thiện bản thân mình. Do đó khi thực hiện ngoại khóa
cần thiết phải chú ý tới nguyên tắc tích hợp.
3. Mối quan hệ với chính khóa
19
Hoạt động ngoại khóa là một hoạt động bên cạnh hoạt động chính khóa cả về
quan niệm, thời gian và trong suy nghĩ của tất cả chúng ta. Hoạt động ngoại khóa là
hoạt động bên cạnh hoạt động chính khóa nhƣng là hoạt động bổ trợ tích cực, quan
trọng cho chính khóa. Trong khi tìm kiếm những phƣơng pháp đổi mới, cải thiện
cho bộ môn, cho
ngành giáo dục, ngƣời ta đã nhận ra vai trò quan trọng của hoạt động ngoại khóa.
Hoạt động này gớp phàn thúc đẩy hoạt động chính khóa, nâng cao chất lƣợng giảng
dạy, bổ sung phần học sinh thiếu khuyết mà lâu nay chúng ta nói: thực hành.
Hoạt động ngoại khóa văn học bổ trợ rất nhiều cho hoạt động dạy – học
chính khóa. Trong giờ học, để đảm bảo cho thi cử, kiểm tra, ngƣời dạy chƣa hoàn
toàn đổi mới thực sự, nhất là với những vùng miền, những đối tƣợng học sinh còn
yếu nhiều mặt nhƣ học sinh trƣờng THPT Số 3 Văn Bàn. Ngƣời học đƣợc chú
trọng nhƣng chú trong xem là sẽ tiếp thu đƣợc những kiến thức, kĩ năng cơ bản nào
để nắm bắt đƣợc nội dung bài học, để làm bài thi tốt nhất. Vô hình chung, sự đổi
mới phƣơng pháp chỉ chú tâm vào thay đổi cách tìm hiểu, thay đổi cách hƣớng dẫn
học sinh học bài còn nhiệm vụ nữa không kém phần quan trọng của môn Ngữ Văn:
dạy làm ngƣời, dạy cách hoàn thiện nhân cách bị xem nhẹ hơn. Học sinh vẫn đƣợc
coi là trung tâm nhƣng để phát huy đƣợc tính tích cực, sự sáng tạo, khả năng vận
dụng thực hành thì trong một giờ học chính khóa không đáp ứng đƣợc hết. Khi đó
ngoại khóa là giải pháp tối ƣu nhất, là hoạt động hiệu quả nhất để giáo dục học sinh
toàn diện các mặt trí – đức – thể - mĩ.
Hoạt động ngoại khóa dƣới sự quản lý và hƣớng dẫn của thầy cô sẽ là hoạt
động nối tiếp chính khóa, có mục tiêu, mục đích rõ ràng. Hoạt động ngoại khóa là
con đƣờng gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo sự thống nhất giữa nhận thức và hoạt
động, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện kĩ năng sống. Hoạt động ngoại khóa giúp
phát huy tối đa năng lực, sở thích từng cá nhân. Nhƣ vậy, ý nghĩa môn Ngữ Văn là
môn học thiếu thực tế không còn khi gắn với hoạt động ngoại khóa.
Hoạt động ngoại khóa gắn với nội dung chƣơng trình học chính khóa. Không
ngƣời dạy nào mất công tổ chức một hoạt động ngoại khóa không gắn kết gì với
chính khóa cả, nhƣ vậy chỉ tốn công mà không có tác dụng gì, và quản lý sẽ không
chấp nhận nhƣ vậy. Do đó, hoạt động ngoại khóa văn học gắn bó mật thiết với
chính khóa, thực hiện mục tiêu giáo dục. Hoạt động ngoại khóa văn học là một hoạt
động cần thiết khi muốn đổi mới phƣơng pháp, muốn phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh, và hơn cả muốn khơi dậy tình yêu với văn học, tình
yêu với bộ môn Ngữ Văn.
20
- Xem thêm -