Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử...

Tài liệu Skkn áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử

.PDF
61
48
76

Mô tả:

Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận SỞ GD&ĐT BÌNH DƢƠNG TRƢỜNG THPT DĨ AN TỔ SỬ-ĐỊA-GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐT : 0.650.733.521 – 0.650.730.554 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2008 - 2009  Người thực hiện : Nguyễn Chí Thuận Giáo viên Trường THPT Dĩ An ĐT : 0.913.141.152 1 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận LỜI CÁM ƠN Xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh, Phòng GD Trung học – GD Thường xuyên Sở GD&ĐT Bình Dương, Ban giám hiệu, Ban chấp hành Công đồn Trường THPT Dĩ An, Tổ Sử - Địa Giáo dục công dân, Tổ văn phòng, đặc biệt là quý thầy cô trong Lớp tập huấn “Chương trình Partners in Learning – Đổi mới phương pháp dạy và học” do Sở GD&ĐT Bình Dương kết hợp cùng Microsoft Việt Nam tổ chức trong Hè 2008. Những nội dung đã học tập và kinh nghiệm tích lũy được từ đề tài “Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” nầy sẽ là hành trang vô cùng quý báu cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học lịch sử của bản thân chúng tôi trong thời gian sắp tới. Dĩ An, ngày 29 tháng 3 năm 2009 Người thực hiện, 2 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận “ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ DẠY HỌC DỰ ÁN VÀO BÀI GIẢNG LỊCH SỬ” MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài........................................................................................... 5 2. Từ dƣ luận của báo chí về việc đổi mới kiểm tra đánh giá HS ............... 8 3. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu ....................................................... 10 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài................................................. 11 5. Mức độ nghiên cứu đề tài.......................................................................... 12 6. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ............................................. 13 7. Cơ sở lí luận thực tiễn và PP nghiên cứu ................................................ 13 8. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..................................................................... 17 9. Kết cấu của đề tài...................................................................................... 18 NỘI DUNG Phần I. Nêu thực trạng của vấn đề 1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài ................................................................... 19 2. Khó khăn khi thực hiện đề tài ................................................................... 20 Phần II. Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính 1. PP làm việc theo nhóm.......................................................................... 21 Ưu điểm Mục tiêu cần đạt Các bước tiến hành Có hai dạng nhóm làm việc 3 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Điều kiện để đạt hiệu quả Hướng dẫn HS đóng vai trò GV Bước chuyển tiếp nhanh Tìm sự hưởng ứng của HS Giáo án đề nghị cho tiết day học dự án 2. Vài nét về áp dụng công nghệ trong dạy học ..................................... 35 Các hình thức sử dụng CNTT trong dạy học Sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy Sử dụng internet trong tìm kiếm thông tin trực tuyến Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội 3. Một vài kinh nghiệm trong việc sử dụng Blog trong dạy học ........... 39 Thực chất vấn đề Mỗi GV có một cách thiết kế trang web cá nhân Sử dụng website cá nhân vào việc dạy học Hoạt động học tập của HS có chuyển biến tích cực 4. Khai thác và sử dụng internet vào bài giảng lịch sử .......................... 42 5. Quá trình cải tiến bài giảng .................................................................. 46 PP học tập mới Câu hỏi cải tiến bài giảng Cải tiến bài giảng và thực hành hướng dẫn Xây dựng bài giảng Phần III. Kết quả và kinh nghiệm rút ra đƣợc từ SKKN 1. Kết quả đạt đƣợc .................................................................................. 48 2. Bài học kinh nghiệm ............................................................................. 48 Phần IV. Khả năng ứng dụng và triển khai SKKN KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong năm học 2006-2007 tôi đã áp dụng đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở Trường THPT qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử”, năm học 2007-2008 tôi tiếp tục thực hiện đề tài “Ứng dụng CNTT&TT kết hợp sách bài tập để đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT” bước đầu đã đạt được một số kết quả và tích luỹ được một số kinh nghiệm trong quá trình tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bộ môn lịch sử (LS) của mình ở đơn vị trường THPT Dĩ An. Kết quả bước đầu đã làm thay đổi tồn bộ cách nghĩ và cách soạn giảng mà tôi đã được học ở trường ĐHSP trước đây. Sự thay đổi PPDH cũng đã tạo hứng thú trong HS nhiều hơn trong tiết học LS của tôi, bởi vì trong một tiết dạy tôi đã cung cấp cho các em nhiều hình ảnh, sơ đồ, biểu mẩu… và giới thiệu cho các em biết những điều mới lạ hơn trong SGK, cung cấp cho các em những kiến thức mới, tầm nhìn mới hơn về việc học lịch sử. Trong dịp hè 2008 tôi được tham dự lớp tập huấn giảng dạy theo phương pháp mới do Sở GD-ĐT Bình Dương phối hợp cùng sự tài trợ của Microsoft Việt Nam. Sau khi dự lớp tập huấn nầy tôi có thêm được thông tin bổ ích về việc đầu tư công nghệ ứng dụng vào dạy và học với tên gọi là “Dạy học theo dự án”. Cách dạy nầy giống như phương pháp thuyết trình mà tôi đã được học trước đây ở trường ĐHSP, tuy nhiên cái mới là cách dạy nầy được áp dụng ở 5 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Mĩ và các nước tiên tiến châu Âu. Trong một tiết dạy, HS được làm chủ lớp học, tự tìm tòi và khám phá theo nội dung bài học đã được GV hướng dẫn cho HS. Tiết học không quá máy móc bắt buộc HS phải ghi chép hết nội dung bài học có trong SGK như cách làm hiện nay của các trường phổ thông ở Việt Nam. Đầu năm học tôi được nghe phổ biến chủ đề của năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Theo Ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin Bộ Giáo dục và Đào tạo : “Năm 1998, ngay sau khi Internet được mở ra tại Việt Nam, Trung tâm CNTT của Bộ (nay là Cục CNTT) đã xây dựng đề án Mạng giáo dục EduNet, để nối mạng tồn ngành và phát triển dịch vụ thông tin giáo dục. Ý tưởng nội dung cơ bản của dự án Mạng giáo dục có thể tóm tắt như sau: Nối tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo vào Internet trên một xa lộ quốc gia (backbone), phát triển các dịch vụ thông tin và ứng dụng trên Internet, phát triển thông tin (số) về giáo dục; đưa công nghệ dạy học trực tuyến lên mạng EduNet để chia sẻ dùng chung, để mọi người có thể học mọi nơi, mọi lúc; mỗi trường đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) phải có website riêng, mỗi giáo viên và học sinh có email theo tên miền của trường. Năm học 2008-2009 sẽ là bước ngoặt lớn trong lịch sử Internet ở Việt Nam nói chung và trong giáo dục nói riêng. Ngày 4/1/2008, Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel đã ký văn bản hợp tác với Cục CNTT về triển khai mạng giáo dục. Theo đó, Viettel cung cấp dịch vụ kết nối Internet băng thông rộng, kết nối kênh thuê riêng (leased line) qua đường cáp quang… nhằm giải quyết tình trạng học sinh, sinh viên, giáo viên là những người cần dùng Internet nhất thì lại gặp khó khăn nhất do giá thành cao, do tốc độ kết nối quá chậm. Hiện nay tại Bộ đã kết nối đường cáp quang 34 Mbps trong nước và 2 Mbps đi quốc tế. Viettel cung cấp gói Net+ (gói chất lượng cao nhất) tới các cơ sở giáo dục. Kết nối cáp quang từ Bộ về các sở giáo dục và đào tạo với băng thông 4 Mbps. Ba bên (Cục CNTT, các Sở GDĐT và Viettel) sẽ phối hợp lên danh sách các cơ sở giáo dục khó khăn để có chính sách hỗ trợ kết nối. Các cơ sở giáo dục hưởng lợi từ dịch vụ ưu đãi này sẽ bao gồm cả các trường mầm non, mẫu giáo (các sở cung cấp PC), các trung tâm giáo dục cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường dạy nghề, các phòng giáo dục. 6 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Đối với các trường vùng sâu, vùng xa, không thể rải cáp Internet và nếu có điện, cần lên phương án kết nối khác (có thể là qua vệ tinh). Viettel cam kết hỗ trợ cung cấp miễn phí qua sóng điện thoại di động và cần thời gian thử nghiệm vì địa hình các vùng này rất khó khăn. Chúng tôi cũng đã đề nghị Viettel tài trợ miễn phí kết nối Internet cho một số điểm tỉnh như Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang… Năm học 2007-2008, Cục CNTT đã hướng dẫn và hỗ trợ miễn phí cho các trường ĐH, CĐ, các sở, các trường phổ thông tạo hệ thống email. Bước vào năm học mới này, mục tiêu đặt ra là đến ngày 31/10/2008, tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo hồn tất công việc này. Trong năm vừa qua, Cục CNTT đã xây dựng và cung cấp hệ thống email @moet.edu.vn đến tất cả các cơ sở giáo dục để giao dịch văn bản điện tử. Chúng tôi đề nghị lãnh đạo Sở GDĐT các tỉnh, thành phố hằng ngày khai thác hệ thống email này và đôn đốc các phòng ban sử dụng để nhận thông tin văn bản từ Bộ một cách nhanh chóng. Cho đến nay, giáo viên các trường đang chủ yếu soạn bài trình chiếu powerpoint và một số phần mềm dạy học. Vẫn còn có sự nhầm lẫn khá lớn giữa khái niệm về giáo án điện tử với bài trình chiếu, bài giảng điện tử, giữa thiết bị dạy học với phần mềm. Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-Learning. Trong những năm qua, Cục CNTT đã xây dựng website e-Learning http://el.edu.net.vn để tuyên truyền phổ cập công nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm e-Learning thích hợp, đã Việt hố phần mềm mã nguồn mở Moodle và đến nay đã có khoảng 70 trường ĐH, CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu Việt Nam cho các Sở. Bộ GDĐT (Cục CNTT chủ trì) sẽ tổ chức cuộc thi giáo viên làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-Learning, giáo viên dạy giỏi ứng dụng CNTT, nhằm mục đích khuyến khích động viên giáo viên tiếp cận công nghệ mới cũng như chia sẻ kinh nghiệm. Khẩu hiệu của chúng ta là: Nếu mỗi giáo viên góp mỗi năm 1 bài giảng e-Learning, chúng ta sẽ có 1 triệu bài giảng điện tử trong 1 năm và nếu bài giảng đó soạn thêm bằng tiếng Anh, chúng ta có thể chia sẻ với bạn bè giáo viên ở các nước khác về công nghệ làm bài giảng eLearning. Cục CNTT cũng sẽ tổ chức tuyển chọn các phần mềm dạy học khác để phổ biến trên tinh thần tiết kiệm, hợp chuẩn quốc tế, dễ sử dụng và khai thác. Tại sao lại phải là công nghệ e-Learning? Đó là vì e-Learning có chuẩn công nghệ SCORM, AICC được thế giới công nhận, nên có thể chia sẻ bài giảng giữa các nước với nhau, có nhiều công cụ xây dựng bài giảng hợp chuẩn, đáp ứng nhu cầu học tập mọi nơi, mọi lúc một cách mềm dẻo, có thể học trực 7 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận tuyến qua Internet, cũng có thể học ngoại tuyến qua đĩa CD. Đổi lại, chúng ta cũng có thể tận dụng các nguồn bài giảng của các nước khác.” (Theo Chinhphu.vn) Từ những lí do nêu trên nên tôi đã tiếp tục ứng dụng đề tài : “Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” 2. Từ dƣ luận của báo chí về việc Đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh Đổi mới cách ra đề kiểm tra bậc phổ thông (Dân trí) - Cục Khảo thí và Kiểm định chất lƣợng, Bộ GD-ĐT yêu cầu các đơn vị đổi mới ra đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kỳ, theo hƣớng kiểm tra kiến thức cơ bản, năng lực vận dụng kiến thức của ngƣời học, hạn chế lối học tủ, học vẹt, ghi nhớ máy móc. Theo đó, các trường tăng cường đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kỳ. Phối hợp có hiệu quả giữa các hình thức kiểm tra vấn đáp, tự luận và trắc nghiệm khách quan. Trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu đối với chương trình của từng cấp học. Đặc biệt, các trường phải có biện pháp quản lý tích cực, chủ động trong dạy và học, nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá để phản ánh đúng chất lượng dạy và học, thực hiện thành công nhiệm vụ năm học theo tinh thần cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc ngồi nhầm lớp”. Các trường có kế hoạch tổ chức việc ôn tập bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho người học, cần chú ý đối tượng có học lực yếu, đối tượng chưa tốt nghiệp ở các kỳ thi trước; khắc phục tình trạng học sinh “ngồi nhầm lớp”; kiên quyết không để học sinh chưa đủ trình độ lớp 12 dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Bộ yêu cầu các Sở GD-ĐT rà sốt, lựa chọn trong số cán bộ, giáo viên những người có năng lực chuyên môn để tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ biên soạn, biên tập đề thi để từng bước xây dựng ngân hàng câu hỏi thi phục vụ cho việc ra đề kiểm tra. (Hồng Hạnh) Đổi mới kiểm tra, đánh giá: Góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục Bấy lâu nay, học sinh thường “ngán” học các môn xã hội. Vậy, làm thế nào để các em yêu thích các môn học này? Đây là điều các nhà làm giáo dục luôn trăn trở. Ngày 3-3 vừa qua, Sở GDĐT Bình Dương đã có buổi hội thảo, nhằm mổ xẻ việc đổi mới kiểm tra đánh giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học các môn ngữ văn, lịch sử, địa lý, giáo dục công dân. 8 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Những hạn chế Từ trước đến nay, giáo viên thường thực hiện kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn học của học sinh qua kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết. Tuy nhiên, một số giáo viên chưa có sự sáng tạo trong việc thực hiện các hình thức kiểm tra này. Cụ thể như, kiểm tra miệng còn thực hiện máy móc, nội dung kiểm tra chủ yếu nhắc lại các kiến thức của bài cũ. Cũng chính vì điều này, học sinh có thói quen học bài thuộc lòng. Còn kiểm tra 15 phút thực tế giáo viên thường sử dụng với mục đích chính là thực hiện theo quy định của kế hoạch dạy học để lấy cho đủ số điểm quy định, nên tác dụng đích thực của loại bài này chưa phát huy đầy đủ. Ở dạng bài kiểm tra 1 tiết cũng vậy, tuy được thực hiện khá đầy đủ và có ý thức trách nhiệm, nhưng nội dung kiểm tra không bảo đảm được số lượng và chất lượng. Về nội dung, gần đây giáo viên đã quan tâm đánh giá kỹ năng, nhưng chưa thường xuyên. Giáo viên thường chỉ kiểm tra một vài nội dung cho là quan trọng, học sinh có thể đốn, sau đó học tủ, học vẹt... Ông Lý Văn Trung, Trưởng phòng Giáo dục phổ thông - thường xuyên, Sở Giáo dục - Đào tạo đánh giá: Trong nhà trường hiện nay, việc xếp loại đánh giá năng lực và báo cáo kết quả, thành tích học tập của học sinh, dạy học của giáo viên, kết quả thi đua của lớp... được căn cứ trên điểm số. Vì chạy theo điểm số, giáo viên chỉ chú trọng dạy, học sinh học những gì sẽ kiểm tra, thi, bỏ qua những những nội dung kiến thức kỹ năng không phục vụ cho thi cử. Hậu quả, kết quả kiểm tra khó đo lường và phản ánh đúng năng lực, trình độ học sinh. Nỗ lực đổi mới Đổi mới chương trình và sách giáo khoa trong đó có đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá. Cô Tuyết Lan, giáo viên dạy ngữ văn trường THPT chuyên Hùng Vương chia sẻ: Thời gian qua, tổ văn chúng tôi đã có nhiều cố gắng tiến hành từng bước việc áp dụng đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá học sinh, đồng thời góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học bộ môn. Đối với kiểm tra miệng, chúng tôi không nhất thiết phải kiểm tra đầu mỗi tiết học. Vì như thế vừa mất thời quan, vừa mang tính công thức thủ tục và đặt học sinh vào tình thế căng thẳng, bắt buộc học để đối phó. Thay vào đó, giáo viên có thể linh hoạt về thời gian và hình thức kiểm tra. Cụ thể như, trong quá trình giảng bài mới, khi cần liên hệ đến kiến thức của bài học các tiết trước, giáo viên nêu câu hỏi, sau đó gọi học sinh phát biểu, giáo viên nhận xét và cho điểm. Nội dung kiểm tra, không chỉ kiểm tra bài tiết học trước, mà giáo viên có thể kết hợp vừa kiểm tra bài cũ, vừa kiểm tra phần chuẩn bị bài mới. Trong quá trình dạy, có những câu hỏi cần học sinh tư duy trả lời, nếu các em trả lời đúng, giáo viên vẫn cho điểm. Trong khi đó, các giáo viên ở trường THCS Chu Văn An (TX.TDM) kiểm tra 15 phút, vừa kiểm tra nội dung vừa kết hợp thực hành, vận dụng vào viết 9 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận đoạn văn với vấn đề mang tính xã hội được mọi người quan tâm, như: vấn đề môi trường, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Giáo viên còn cho điểm học sinh tham gia trả lời những câu hỏi nâng cao để khuyến khích học sinh; cho điểm những bài sưu tầm, tranh ảnh phục vụ cho tiết học. Kiểm tra học kỳ có trắc nghiệm từ 3-4 điểm, tùy theo khối lớp, đề ra có ma trận nhưng mới chỉ ở mức ban đầu. Đổi mới phương pháp giáo dục cũng đang được các trường ở vùng sâu, vùng xa nỗ lực thực hiện. Thầy Đào Duy Nội, giáo viên dạy môn địa trường THPT Phan Bội Châu, Dầu Tiếng nói vui: Tình trạng học bài các môn xã hội nói chung là một “cực hình” với học sinh. Để tình trạng này không còn xảy ra, cần thiết phải đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá. Để tránh kiểu học tủ, học vẹt của học sinh, nội dung kiến thức kiểm tra trọng tâm cùng với khả năng liên hệ thực tế, làm, học sinh biết sử dụng mô hình, đọc bản đồ, lược đồ... Giáo viên dạy môn lịch sử của trường THPT Tây Sơn (Phú Giáo) có kinh nghiệm ra đề kiểm tra có sự phân bố tỷ lệ phù hợp giữa các câu hỏi ở mức độ nhận biết (55-60%), thông hiểu (25-30%), vận dụng (15-20%). (Theo Báo Bình Dương) 05/03/2009 3. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu “Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” là việc làm cấp bách và cần thiết. Hiện nay nền kinh tế tri thức đang đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất. Nhờ những phương tiện thông tin hiện đại mà khoảng cách về không gian được rút ngắn hơn. Xu thế tồn cầu hóa yêu cầu con người phải thay đổi nhịp sống của mình thì mới nắm bắt kịp những thay đổi nhanh chóng của nhân loại, mới thích ứng và phát triển theo nhịp sống đương đại. Khối lượng kiến thức của nhân loại ngày càng nhiều, thời gian và điều kiện tiếp thu lại có hạn mà yêu cầu của ngành GD về chất lượng đào tạo phải ngày càng cao. Chính vì thế việc đổi mới nội dung và PPDH LS có tầm quan trọng đặc biệt. Làm thế nào để HS không bị nhồi nhét kiến thức, lo học tủ, học vẹt để thi cử? Với chủ trương vận động của Bộ GD&ĐT, càng đòi hỏi người GV DHLS phải cải tiến PP soạn giảng, làm thế nào để HS có hứng thú, phát huy tư duy, óc phán đốn trong các vấn đề về các sự kiện LS để các em hiểu được nguyên nhân, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm LS trong quá trình dạy học LS. 10 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Qua ba năm giảng dạy SGK mới, về hình thức trình bày, cách thể hiện nguồn kiến thức trong mối quan hệ giữa kênh hình và kênh chữ đã tạo điều kiện cho GV có thể tiến hành đổi mới PPDH LS. Từ công tác bồi dưỡng thay sách lớp 10, 11, 12 việc đổi mới PPDH LS ở trường THPT đã trở thành một yêu cầu cấp bách của GV LS, vì không chỉ để đáp ứng mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn LS ở trường THPT mà còn góp phần làm thế nào để thay đổi nhận thức của xã hội về vị trí, tầm quan trọng của bộ môn LS đối với việc GD thế hệ trẻ. Việt Nam đang bước vào hội nhập quốc tế và khu vực cho nên càng đòi hỏi cấp bách việc GD phải đổi mới và nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu trên. Trước tiên và quan trọng hơn cả là việc DHLS phải phấn đấu vươn tới chuẩn chung về chương trình đào tạo, về mô hình quản lý, đặc biệt là phải đạt chuẩn về chất lượng và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Nhiều chuyên gia GD cho rằng tìm được lời giải cho vấn đề nầy cũng có nghĩa là tìm được hướng cải cách chương trình, thay SGK, cũng chính là mục đích tìm ra một hướng di cho phù hợp tình hình hiện nay của đơn vị. Đề tài “Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” nhằm giải quyết vấn đề cấp bách của GV bộ môn LS và của công tác DHLS mà xã hội đang quan tâm hiện nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Bộ môn LS ở trường THPT có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con người tồn diện vừa có tri thức khoa học, có tư tưởng đạo đức đúng đắn, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tự lập. linh hoạt, sáng tạo … trong cuộc sống. Song muốn phát huy được ưu thế nầy, trước hết, HS phải nắm vững kiến thức LS. Vậy làm thế nào để HS nắm vững kiến thức trong DHLS ở trường THPT? Căn cứ vào mục tiêu bộ môn LS ở trường THPT, đặc trưng của hiện thực LS, đặc điểm nhận thức của HS và yêu cầu đổi mới GD hiện nay theo chỉ đạo của Bộ GD – ĐT hiện nay, chúng ta thấy rằng, việc giúp HS nắm vững kiến thức là vấn đề hết sức cần thiết. Song trước hết cần thống nhất khái niệm 11 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận “nắm vững kiến thức” của HS. Xung quanh khái niệm nầy, các nhà GD, tâm lí và GDLS đã đề cập đến nhiều khía cạnh. Trong những tài liệu PP DHLS, các nhà GDLS cũng khẳng định rằng, nắm vững kiến thức trong DHLS là phải “biết”, “hiểu” LS và “ứng dụng”. Đây là con đường nhận thức biện chứng LS từ nắm sự kiện đến tạo biểu tượng, hình thành khái niệm để hiểu bản chất, rút ra bài học kinh nghiệm và quy luật LS. Trong đó, “biết” LS chưa phải là thước đo chất lượng của việc học tập, nghiên cứu LS, mà điều chủ yếu là hiểu LS, vận dụng tri thức LS vào tiếp thu kiến thức mới và hoạt động thực tiễn (Phan Ngọc Liên-Trịnh Đình TùngNguyễn Thị Côi. PP dạy học lịch sử. Tập II. NXB ĐHSP, Hà Nội 2002, tr.134-135). Các nhà tâm lí GD và GDLS về cơ bản đều thống nhất : nắm vững kiến thức trong học tập nói chung, LS nói riêng là đòi hỏi HS phải “biết”, “hiểu” và “vận dụng” được tri thức đã học. Với quan điểm như trên, việc giúp HS nắm vững kiến thức có vai trò rất quan trọng trong DHLS ở trường THPT. Nó là yếu tố cơ sở đầu tiên của mục đích học tập bộ môn. Chỉ có nắm vững kiến thức LS, HS mới nảy sinh tư tưởng tình cảm đúng đắn và phát triển tồn diện con người các em. Không giúp HS nắm vững kiến thức LS thì không thực hiện được mục tiêu môn học. Thành tựu của CNTT đã và đang được ứng dụng rộng khắp trong nhiều lĩnh vực, nhiều hoạt động, trong đó có HĐ DHLS. Đây là một trong các điều kiện quan trọng để đối mới PPDH; là nhân tố đảm bảo cho HĐ DHLS đạt hiệu quả; là cơ sở quan trọng để hình thành những phẩm chất và năng lực, hình thành nhân cách người GV trong thời đại mới - thời đại của khoa học kĩ thuật. 5. Mức độ nghiên cứu đề tài Năm học 2008-2009 là năm học thứ ba trường THPT áp dụng chương trình SGK mới cho HS THPT trong lộ trình cải cách GD. Vì thế đề tài “Áp dụng công nghệ dạy học dự án qua bài giảng lịch sử” là đề tài bản thân tôi tiếp tục nghiên cứu thực hiện nhân cơ hội được dự lớp tập huấn chương trình Dạy 12 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận học theo dự án do Sở GD&ĐT Bình Dương kết hợp Microsoft Việt Nam tổ chức trong hè 2008 vùa qua. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn trong vấn đề lớn : Áp dụng công nghệ dạy học dự ánqua bài giảng lịch sử ở trường THPT 6. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu : “Áp dụng công nghệ dạy học dự án qua bài giảng lịch sử”. + Khách thể nghiên cứu : Môn lịch sử ở trường THPT. + Phạm vi nghiên cứu : Áp dụng công nghệ dạy học dự án trong một tiết dạy lịch sử lớp 10 ban cơ bản. 7. Cơ sở lý luận thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu Công nghệ mới có một số đặc trưng phù hợp với các nguyên tắc của PP học tập mới. Các kết luận cơ sở : Do tính chất tương tác của công nghệ mới, hiện nay người ta có thể dễ dàng hơn trong việc tạo ra các môi trường cho HS có thể học tập thông qua thực hành, tiếp thu các ý kiến phản hồi, liên tục nâng cao vốn hiểu biết và tiếp nhận các tri thức mới. Các công nghệ có thể giúp mọi chúng ta hình dung được những khái niệm khó hiểu. HS có thể sử dụng các phần mềm mẫu như các công cụ trong môi trường học tập ngồi trường học để tăng cường vốn hiểu biết dựa trên các khái niệm và những vấn đề có thể xảy ra trong quá trình chuyển từ môi trường trong ra môi trường ngồi trường học. Các công nghệ mới cho phép chúng ta tiếp xúc với hàng loạt các thông tin qua các thư viện điện tử, tài liệu của thế giới thực để tiến hành phân tích và kết nối với những người sẽ cung cấp thông tin, ý kiến phản hồi và nguồn cảm hứng, tất cả những gì có thể tăng cường khả năng học tập của GV, cũng như quản lí HS. 13 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Có nhiều cách sử dụng công nghệ để tạo ra môi trường học tập như vậy, dành cho cả GV và HS. Tuy nhiên có nhiều vấn đề đặt ra nhằm xem xét để hướng dẫn GV áp dụng công nghệ vào giảng dạy thế nào sao cho hiệu quả. Đầu tư công nghệ tích hợp trong GD có thể đưa những người hoạch định chính sách vào thế khó. Phần lớn họ đều đồng ý rằng trong thế giới hiện đại ngày nay, công nghệ không phải là bộ phận trang trí, mà ngược lại, nó đóng vai trò quan trọng trong bất kì quy trình giảng dạy nào. Tuy nhiên, phí tổn cho nó cũng là một vấn đề quan trọng. Máy vi tính nói riêng là một mặt hàng đắc tiền, GV và HS ngày cần có nó nhiều hơn. Trong vòng một thập kỷ vừa qua, chi phí bỏ ra để trang bị cho các trường khối phổ thông tại Mĩ tăng gấp ba lần trước đó, cho đến nay, chi phí đó đã lên đến hơn 6 tỉ USD. Với thực tế này, những nhà hoạch định ở cấp quốc gia và địa phương đang đặt ra một câu hỏi có thể dự đốn trước : Liệu tiêu tốn một số tiền khổng lồ để đầu tư cho công nghệ như vậy có thể làm thay đổi quá trình và kết quả học tập của HS hay không ? Câu trả lời có được từ các công trình nghiên cứu cũng không mấy bất ngờ. Tuy nhiên nó cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các trường học hiện nay đang sử dụng hàng loạt công nghệ theo các cách khác nhau và cho các mục đích khác nhau. Giữa các GV trong ngành có sự chênh lệch lớn về vốn kiến thức và kĩ năng, cũng như khả năng tổ chức để lên kế hoạch và thực hiện áp dụng công nghệ một cách tồn diện và theo định hướng nhằm đạt được kết quả như đã định. Thông thường các trường đều có những phương pháp riêng để đánh giá về mức độ ảnh hưởng của công nghệ tới hiệu quả dạy và học cả trong trường hợp chúng được sử dụng đúng và sử dụng mục đich. (Nếu không đạt được hiệu quả như mong muốn thì đó là do công nghệ hay do HS tiếp xúc và sử dụng công nghệ còn ít). Tại những nơi công nghệ được sử dụng như một công cụ hỗ trợ phương pháp giảng dạy đạt tiêu chuẩn về cách tư duy phức tạp và giải quyết vấn đề, cùng với các phương pháp phù hợp để đánh giá sự tiến bộ của HS, thì hiệu quả thu được mới thực sự gây ấn tượng. 14 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Khi đó, người ta sẽ không còn đặt câu hỏi về việc công nghệ có thực sự làm thay đổi quy trình dạy và học hay không, mà thay vào đó sẽ là các thay đổi sẽ diễn ra như thế nào và trong trường hợp nào? Một số nghiên cứu điển hình đã cho rằng cần phải tập trung xây dựng các chính sách phát triển lớn để đạt được hiệu quả trong GD hơn là mất nhiều thời gian cho việc quyết định đầu tư về trang thiết bị. Vậy việc học “từ” máy vi tính khác với việc học “bằng” máy vi tính như thế nào? Sử dụng công nghệ theo kiểu nào và chúng sẽ ảnh hưởng đến việc giảng dạy của GV và học tập của HS như thế nào? Phần lớn các nghiên cứu hiện tại về ứng dụng công nghệ máy vi tính vào chương trình giảng dạy của khối phổ thông đều đưa đến một thông điệp : công nghệ chỉ là phương tiện chứ không phải là kết quả, chỉ là một công cụ hỗ trợ đạt được mục tiêu học tập chứ bản thân nó không phải là mục tiêu. Tuy thế vẫn có nhiều trường học và vùng miền thực hiện đầu tư về trang thiết bị trước cả khi xây dựng những kế hoạch rõ ràng về sử dụng công nghệ hỗ trợ giảng dạy. Một vấn đề chính trong việc thực thi kế hoạch sử dụng công nghệ là xác định rõ mục đích của nó, HS sẽ được học “từ” máy vi tính hay “bằng” máy vi tính? Nói theo cách khác, máy vi tính có nhất thiết phải thực hiện vai trò giảng dạy, nhằm tăng thêm tri thức và các kĩ năng sử dụng? Hay chính công nghệ sẽ là một phương tiện giúp HS phát triển các khả năng như tư duy trình độ cao, năng lực sáng tạo và kĩ năng nghiên cứu? Máy vi tính đóng vai trò giảng dạy : Những cách sử dụng máy vi tính thông thường để xây dựng các kĩ năng cơ bản bao gồm phương pháp giảng dạy sử dụng máy vi tính và được hỗ trợ bởi máy vi tính, sử dụng các phần mềm rèn luyện và thực hành, các hướng dẫn chung về máy vi tính. Kết quả của một nghiên cứu nổi tiếng đã cho rằng việc hồn tồn sử dụng máy vi tính trong rèn luyện và thực hành môn Tốn có ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập. Tuy nhiên 2 nghiên cứu quy mô lớn keo dài xuyên suốt những năm 1990 cùng với 15 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận những thành tựu đạt được từ một vài phép phân tích cao cấp trong khoảng thời gian từ năm 1895 đến 2000 lại cho thấy việc sử dụng phần mềm công nghệ vào rèn luyện và thực hành đem lại cho HS những tiến bộ vượt bậc. Và kết quả đó đã ủng hộ việc sử dụng máy vi tính hỗ trợ giảng dạy từ cấp trước tiểu học cho tới cấp GD cao hơn. Một vài nghiên cứu còn tranh luận rằng việc đào tạo các kĩ năng về sử dụng CNTT còn mang lại hiệu quả về kinh tế, bởi nó chỉ đòi hỏi đào tạo GV ở mức tối thiểu và thường vẫn có thể được thực hiện ở các công nghệ ở mức độ thấp. Máy vi tính là các công cụ giúp giải quyết vấn đề, phát triển về mặt nhận thức và tƣ duy : Tuy nhiên chỉ là thiển cận nếu chỉ sử dụng máy vi tính như là trợ giúp nâng cao các kĩ năng cơ bản. Sức mạnh của công nghệ được thể hiện rõ ràng nhất khi cả HS và GV có thể tận dụng được các chức năng tinh vi và đa dạng của nó để hỗ trợ tư duy nâng cao và khái niệm hố. Ví dụ như các ứng dụng đa dạng có thể thể hiện các chức năng thực tiễn của các khái niệm tốn học, hoặc cung cấp các công cụ phục vụ nghiên cứu, phân tích dữ liệu và viết báo cáo. Việc khai thác sử dụng công nghệ theo các cách này được minh hoạ sâu sắc và rõ nét nhất thông qua hình thức tổ chức lớp học trong quá trình thực hiện các dự án – đó là khi các nhóm HS phải tiếp xúc với thực tiễn, các vấn đề phức tạp như ảnh hưởng của mưa axit đối với nguồn nước hay tham gia bảo vệ các lồi vật bị đe doạ ở các khu vực. Trong quá trình này, HS phải học và áp dụng đa dạng các nguyên tắc, kiến thức thuộc nhiều môn học khác nhau từ tốn học, văn học cho tới các nghiên cứu xã hội, khoa học và nghệ thuật. Các nhóm thực hiện dự án phải biết sử dụng thư điện tử và internet để liên tục cập nhật các tri thức cần thiết, các bảng tính, các bảng biểu, bản đồ và các dụng cụ vẽ biểu đồ để tổ chức, phân tích dữ liệu và vạch ra phương hướng giải quyết, PowerPoint và máy quay phim để tạo ra dữ liệu phục vụ bài thuyết trình – Và chính các đề án đó sẽ tạo điều kiện cho HS thực hành các kĩ năng giao tiếp và tiếp thu ý kiến từ các bạn trong nhóm. 16 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Đánh giá sự tiến bộ về khả năng tư duy và giải quyết vấn đề từ các cách tiếp cận như vậy cũng đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù các nghiên cứu vẫn chưa đem lại kết quả cuốc cùng, song một vài nghiên cứu dài hạn – trong đó một số được thiết kế đặc biệt, đánh giá dựa trên quá trình thực hiện – đã cho thấy rằng dưới môi trường phù hợp, đối với các HS hàng ngày sử dụng các công cụ kĩ thuật tinh vi thì có thể thấy sự phát triển rõ rệt trong kĩ năng làm việc. Hơn thế nữa, những tiến bộ đó không hề gây ảnh hưởng xấu tới các kĩ năng cơ bản. Đồng thời các báo cáo nghiên cứu cho thấy HS ngày càng có nhiều động lực thúc đẩy học tập, cũng như ngày càng đi học đầy đủ hơn, ít trường hợp bỏ học nửa chừng hơn. 8. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài + Đối với cấp lãnh đạo quốc gia Bộ GD&ĐT đã có các công văn chỉ đạo hướng dẫn cho ngành GD triển khai thực hiện : “Bộ GD&ĐT lấy năm học 2008-2009 là “Năm học công nghệ thông tin”. Ảnh hƣởng của công nghệ đối với lớp học, trƣờng học và khu vực : Nếu được sử dụng đúng cách, công nghệ có thể có tầm ảnh hưởng làm biến đổi hệ thống GD bởi nó có xu hướng đánh giá lại vai trò của GV và HS và sự tín nhiệm đối với PPDH cũ. Mỗi GV trở thành người hướng dẫn và cộng tác viên (với HS và các GV khác) không còn đơn thuần là người truyền đạt kiến thức. Và HS dựa trên các đề án sẽ tự học, tự tìm hiểu, phải tự quản lí và có trách nhiệm đối với chất lượng học tập của mình. Như vậy HS sẽ tự xây dựng nên vốn tri thức của mình chứ không chỉ đơn thuần chỉ nghe và tiếp nhận. Những thay đổi cũng chính là mục tiêu mà cải cách GD hướng tới, trong đó nhằm chuyển đổi PP học tập truyền thống và mở rộng không gian học tập ra ngồi phạm vi lớp học. + Đối với cấp lãnh đạo cơ sở Năm học 2008-2009 Sở GD-ĐT Bình Dương tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng CSVC trường học , mua sắm TBDH trang bị cho các trường, tổ chức 17 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận cuộc thi giải thưởng “Võ Minh Đức” cho tất cả các trường tham dự, tổ chức các lớp bồi dưỡng tin học và thi tin học chứng chỉ A cho CBGV tồn ngành, tổ chức các buổi giới thiệu các phần mềm ứng dụng CNTT vào việc đổi mới PPDH để chuẩn bị bước vào năm học mới “Năm học công nghệ thông tin”. Cấp đơn vị trƣờng học : Kiến thức và trình độ của GV là yếu tố then chốt để đạt được thành công, vì vậy công tác đào tạo GV sẽ chiếm phần lớn trong ngân sách phát triển công nghệ (theo quy tắc 30/70). Trong công tác đào tạo GV, người ta đã nhận thấy một mô hình đạt hiệu quả cao đó là tạo lớp học mẫu trong đó GV sẽ trực tiếp tiếp thu sáng kiến và PPDH mới của những đồng nghiệp có kĩ năng tốt về công nghệ và thường xuyên áp dụng công nghệ vào bài giảng. BGH trường THPT Dĩ An thiết kế 3 phòng nghe nhìn (trong đó có một phòng sử dụng di động GV có thể dạy ngay tại lớp học), 2 phòng vi tính nối mạng internet, tổ chức các lớp bồi dưỡng tin học trình độ A cho CBGV của đơn vị, luôn động viên khuyến khích GV ứng dụng CNTT để đổi mới PPDH. Trong năm học 2008-2009 có 100% các tổ đều có GV sử dụng phòng nghe nhìn để giảng dạy bằng GAĐT. 9. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm Ngồi phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 phần : -Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề. -Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính. -Phần III : Kết quả và kinh nghiệm đạt được từ SKKN. -Phần IV : Khả năng ứng dụng và triển khai SKKN. NỘI DUNG 18 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề 1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài SKKN 1.1. Tình hình giảng dạy môn LS ở đơn vị Trong hè 2006, 2007, 2008 GVLS được bồi dưỡng chuyên đề thay sách cải cách môn LS lớp 10, 11 và 12. Trong tổ có 3 GV dạy LS, tôi được phân công dạy sử lớp 10 và lớp 11 (14 tiết/tuần) nên có thời gian đầu tư nghiên cứu áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử. 1.2. Tình hình trƣờng, lớp, học sinh Chất lượng học tập của HS khá đồng đều ở các bộ môn, kết quả tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng đạt tỉ lệ khá cao. Năm học 2008-2009 điểm tuyển sinh vào lớp 10 của trường THPT Dĩ An cao nhất huyện, các em được BGH quan tâm nhắc nhở động viên kịp thời về việc học tập nên tinh thần học tập và đạo đức của các em rất tốt, đa số HS chăm ngoan, lễ phép, vâng lời thầy cô, chấp hành nội quy nhà trường. Công tác GVCN, công tác giám thị được BGH có kế hoạch chỉ đạo thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh khi có vấn đề liên quan đến HS. Hàng tuần và cuối đợt thi đua BGH kết hợp các đồn thể đã sơ kết đánh giá khen thưởng, kịp thời động viên nêu gương tốt hoặc nhắc nhở kịp thời những HS vi phạm nội quy nhà trường. Đơn vị được Sở GD&ĐT Bình Dương trang bị đầy đủ các TBDH và phương tiện nghe nhìn có đầy đủ cán bộ chuyên trách sẵn sàng giúp đỡ GV trong các tiết giảng dạy khi cần sử dụng dụng cụ trực quan dạy học. 1.3. Ƣu điểm khi thực hiện đề tài SKKN GV có thể sử dụng các hình ảnh, tư liệu, sự kiện LS từ các nguồn phim ảnh đa dạng từ internet, băng ghi hình, tranh ảnh trong sách báo mà không phải mang theo đồ dùng DH cồng kềnh khi lên lớp. Các tư liệu LS được chuyển thể thành phim theo chủ đề bài học được các đài truyền hình trong cả nước đưa lên màn ảnh và phổ biến rộng rãi trên 19 Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận phương tiện thông tin đại chúng, GV có thể tìm từ trên mạng internet để phục vụ minh họa cho bài giảng sinh động hơn. GV có thể trình chiếu các sơ đồ, bài tập nhóm, các câu hỏi trắc nghiệm khách quan khi kiểm tra bài cũ hay kết thúc bài học để HS tiện theo dõi. Việc sơ đồ hóa, hệ thống hóa tồn bộ kiến thức bài học cũ theo từng chương, từng chủ đề cũng thuận lợi hơn khi giảng dạy. Khi soạn một GAĐT, GV có thể lưu lại để giảng dạy ở nhiều lớp khác nhau. GV có thể bổ sung hoặc sửa đổi giáo án sau phần rút kinh nghiệm ở các tiết dạy tiếp theo hoặc những năm học sau. 2. Khó khăn khi thực hiện đề tài SKKN GV phải thực sự yêu thích ứng dụng CNTT vào đổi mới PPDH, cần có thời gian và kinh phí để thực hiện. Sự chuẩn bị trước lúc đầu sẽ gặp nhiều khó khăn vì cần có sự đầu tư nhiều công sức của GV, nhưng bù lại tiết học sẽ thuận lợi hơn, giờ học sẽ trở nên sôi nổi hơn, hiệu quả hơn. HS sẽ thực sự chủ động quá trình DH, GV có thể hồn thành vai trò hướng dẫn HS tiếp thu kiến thức bền vững hơn. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất