Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp ...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp 10 thpt

.PDF
85
54
137

Mô tả:

1. Tên sáng kiến: Phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn lịch sử lớp 10 THPT. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 20 14-2015 4. Tác giả Họ và tên: Mai Thị Thùy Dương Năm sinh: 1984 Nơi thường trú: Yên Nghĩa – Ý Yên – Nam Định. Trình độ chuyên môn: Đại học Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THPT Mỹ Tho – Ý Yên – Nam Định Điện thoại: 01649.86.86.68 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 5. Đồng tác giả: Không có. 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến Tên đơn vị: Trường THPT Mỹ Tho Địa chỉ: Ý Yên – Nam Định Điện thoại: 1 CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN 3 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 6 1. Thực trạng của việc dạy học lịch sử bằng sơ đồ hiện nay 6 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 9 3. Các giải pháp thực hiện 9 3.1. Cơ sở lí luận về phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử THPT 9 3.1.1. Khái niệm sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử 9 3.1.1.1. Quan niệm về sơ đồ và sơ đồ hóa 9 3.1.1.2. Các loại sơ đồ cơ bản trong dạy học lịch sử 13 3.2. Phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT 17 3.2.1. Vị trí, nội dung cơ bản và đặc điểm kiến thức lịch sử chương trình lớp 10 THPT 17 3.2.1.1. Vị trí, ý nghĩa của chương trình lịch sử chương trình lớp 3.2.1.2. Nội dung cơ bản của chương trình lịch sử lớp 10 THPT. 3.2.1.3. Đặc điểm kiến thức lịch sử chương trình lớp 10 THPT 17 18 22 3.2.2. Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT 23 3.2.2.1. Các bước sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử. 23 3.2.2.1. Những điều cần lưu ý 26 3.2.2.2. Phương pháp sử dụng 28 3.3. Thực nghiệm sư phạm 42 III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại 48 KẾT LUẬN 52 PHỤ LỤC 54 2 BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Bất cứ một nền giáo dục nào, theo nghĩa rộng nhất của nó, không chỉ dừng lại ở chỗ trang bị cho người học những tri thức, kinh nghiệm thuần túy mà quan trọng hơn là rèn luyện cho người học cách thức tiếp cận tri thức, kinh nghiệm, làm cho họ phát huy cao nhất trí lực và có khả năng tự lực giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, tri thức ngày càng phong phú, đa dạng trong khi quỹ thời gian hoạt động nói chung và thời gian học tập của con người là hữu hạn; cho nên, trong dạy học, cần thiết phải tìm ra những phương pháp tạo thuận lợi cho người học chiếm lĩnh tri thức tốt nhất trong thời gian ngắn nhất và quan trọng hơn là dạy cho người học phương pháp xử lí thông tin hiện đại có khả năng ứng dụng rộng rãi. Ở nước ta, nếu giải quyết được yêu cầu trên sẽ là động lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội vì công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay rất cần có nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, có năng lực sáng tạo và khả năng thích nghi cao mà nền giáo dục nước nhà lại chưa thể đáp ứng được. Giáo dục nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập: nội dung sáo mòn, thiếu thực tế, chậm đổi mới về phương pháp, vẫn giữ lối giáo dục nhồi nhét, công thức, giáo điều, không khai thác được tiềm năng sáng tạo, tự học của học sinh, biến các em trở thành những con người thụ động, ỷ lại, không có khả năng tự khẳng định mình. Tìm kiếm và ứng dụng các phương pháp dạy học mới, có khả năng khác phục những hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống, làm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, phát huy năng lực sáng tạo của học sinh chính là việc cần làm thường xuyên, là lương tâm trách nhiệm của mọi nhà giáo dục. Trong những thập kỉ gần đây, các nhà giáo dục và các nhà tâm lí học trên thế giới và ở nước ta đã và đang cố gắng tìm kiếm những phương pháp dạy học mới hoặc thay đổi cách thức thực hiện của các phương pháp dạy học truyền thống 3 theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, mà xu thế chủ yếu là tiếp cận và chuyển hóa các phương pháp nghiên cứu khoa học kĩ thuật hiện đại thành các phương pháp dạy học trong nhà trường thông qua xử lí sư phạm. Kết quả là đã tạo ra được một hệ thống các phương pháp dạy học hiện đại bao gồm dạy học bằng máy tính và các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, dạy học nêu vấn đề, dạy học chương trình hóa, phương pháp Graph dạy học...Phương pháp sơ đồ hóa kiến thức – một bộ phận của phương pháp Graph dạy học mà tôi sẽ đề cập trong báo cáo này là một phương pháp dạy học có giá trị thực tiễn nhất định trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, phát huy năng lực sáng tạo và khả năng tự học của học sinh. Thực tế dạy học ở phương Tây, trong đó có dạy học lịch sử, việc sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức đã phổ biến từ lâu và trở thành một phương pháp không thể thiếu, giúp ích đắc lực trong quá trình dạy học của giáo viên và quá trình tự học của học sinh. Phương pháp sơ đồ hóa đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển tư duy của học sinh đồng thời trang bị cho các em phương pháp tiếp cận và xử lí thông tin, vì để thiết lập được một sơ đồ, tức là sơ đồ hóa một nội dung kiến thức, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức, hiểu được mối liên hệ bản chất giữa các kiến thức đó và có khả năng tư duy khái quát, mô hình cao. Sử dụng thường xuyên phương pháp này sẽ giúp học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức, rèn luyện kĩ năng, các thao tác tư duy và hình thành những phẩm chất cần thiết cho học tập và công việc. Phương pháp này tiến hành không khó, không tốn kém, bất kì giáo viên nào nếu có sự đầu tư trí óc và công sức tìm tòi đều có thể thiết kế được những dạng sơ đồ và những cách thức sử dụng hữu ích trong dạy học. Còn học sinh, nếu được thường xuyên hướng dẫn xây dựng và sử dụng các dạng sơ đồ sẽ tự trang bị được cho mình một phương pháp tự học hiệu quả, các kĩ năng thao tác tư duy được bồi dưỡng liên tục, không bị gián đoạn. 4 Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử là phù hợp và cần thiết vì nền tảng của học tập lịch sử là nắm vững kiến thức; kiến thức lịch sử lại phức tạp với những mối liên hệ chằng chịt và nhiều vấn đề trừu tượng mà nếu giáo viên không sử dụng những phương pháp thích hợp sẽ dẫn đến việc học sinh không nhớ được các kiến thức cơ bản, không có biểu tượng chính xác về sự kiện, không nắm được bản chất và mối liên hệ giữa các kiến thức đó, ngay cả khi dùng đồ dùng trực quan mô tả hiện vật cũng không thể có một hiệu quả như ý muốn. Dạy học lịch sử cần thiết phải tạo ra hình ảnh sinh động và xúc cảm lịch sử cho học sinh. Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa có ưu thế trong việc hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức nhưng lại thiếu hình ảnh cụ thể về sự kiện, hiện tượng. Vậy liệu sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử có mâu thuẫn với nhiệm vụ trên không? Biện pháp nào để vừa cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng có hiệu quả cho học sinh, vừa giúp cho học sinh có những hình ảnh lich sử cụ thể, sinh động và giàu xúc cảm khi sử dụng phương pháp sơ đồ hóa? Trong dạy học lịch sử hiện nay, việc sử dụng sơ đồ hóa đã có nhưng không nhiều và nhất là chỉ dừng lại ở việc sử dụng sơ đồ như một phương tiện dạy học chứ chưa sử dụng như một phương pháp dạy học thực thụ, có khả năng củng cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh trên đây, tôi quyết định chọn đề tài phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT để nghiên cứu và thực nghiệm với hy vọng sẽ đóng góp thêm một phương pháp hữu ích trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đề tài nghiên cứu của tôi không thể tránh khỏi những hạn chế, và nhất là trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm, tôi không thể đề cập tới toàn bộ những vấn đề có liên quan đến phương pháp sơ đồ hóa mà chỉ đề cập đến một số mặt cơ bản, cần thiết trước hết trong dạy học lịch sử. Phạm vi của phương pháp sơ đồ 5 hóa rất rộng, mà hiện nay các bộ môn tự nhiên đã sử dụng để soạn giáo án và thực hiện các khâu dạy học trên lớp. Trong báo cáo này, tôi sẽ chỉ đề cập tới cơ sở lí luận, cách thức sơ đồ hóa và phương pháp sử dụng các sơ đồ kiến thức lịch sử chứ không mở rộng đến việc nghiên cứu phương pháp sơ đồ hóa bài giảng. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Thực trạng của việc dạy học lịch sử bằng sơ đồ hiện nay Thực tiễn này được đúc kết bằng phương pháp quan sát, điều tra thực tiễn thông qua trò chuyện với giáo viên bộ môn và tập thể học sinh, và nhất là trong quá trình học tập môn lịch sử của bản thân trong nhiều năm qua, kể cả thời gian học tập trong môi trường đại học. Trước hết, về quan niệm sử dụng phương pháp sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử: Từ trước đến nay, trong dạy học lịch sử, đã sử dụng không ít các loại sơ đồ dạy học, phổ biến là sơ đồ cấu trúc xã hội, cơ cấu, tổ chức chính quyền… Trong chương trình lớp 10 sách giáo viên cũng đưa ra 9 sơ đồ, yêu cầu giáo viên tham khảo, có thể phóng to để sử dụng trong dạy học. Lí luận phương pháp dạy học lịch sử xem sơ đồ là một phương tiện trực quan quy ước, khẳng định sơ đồ không tạo được biểu tượng rõ ràng về sự kiện lịch sử nhưng lại có ưu thế lớn trong việc phân tích các đặc trưng, thể hiện mối quan hệ nhân quả của các sự kiện, hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm cho học sinh. Trong thực tiễn dạy học, sơ đồ cũng được các giáo viên sử dụng khá thường xuyên vì nhiều khi các nội dung kiến thức kế tiếp nhau đều cần có một sơ đồ để thể hiện. Ví dụ trong khóa trình lịch sử thế giới cổ trung đại, qua các bài Xã hội nguyên thủy (2 tiết), Xã hội cổ đại (4 tiết)… giáo viên phải liên tục sử dụng sơ đồ về quá trình phát triển của con người trong xã hội nguyên thủy qua các thời kì, sơ đồ về cấu trúc xã hội cổ đại phương Đông, xã hội chiếm nô phương Tây, sơ đồ so sánh các quốc gia cổ đại phương Đông với các quốc gia chiếm nô Địa Trung Hải, sơ đồ các thành tựu văn hóa cổ đại… 6 Về phía học sinh, việc sử dụng sơ đồ không hoàn toàn mới lạ vì thường xuyên phải làm dàn ý đại cương để ôn thi, dẫn đến cần thiết lập một số sơ đồ khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức. Đây là một cách học khoa học và có hiệu quả cao, song về cơ bản vẫn là những kinh nghiệm cá nhân, không phổ biến. Tôi cho rằng thực tiễn sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử như trên chưa khai thác được đúng chức năng và tác dụng to lớn của sơ đồ, nhất là trong việc phát triển tư duy và năng lực tự học của học sinh. Theo tôi, thực tiễn này tồn tại hai khuyết điểm sau đây: Thứ nhất về nội dung: hệ thống sơ đồ sử dụng trong dạy học lịch sử hiện nay nghèo nàn về nội dung, thiếu hấp dẫn về hình thức và kém phong phú về loại hình, chưa kể đến một số sơ đồ chưa diễn đạt được đầy đủ, rõ ràng nội dung kiến thức. 9 sơ đồ mà sách giáo viên đề cập tới trong tổng số 52 tiết học của chương trình lớp 10 là ít. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự áp dụng máy móc những chỉ dẫn của sách giáo viên. Sách giáo viên đưa ra một số dạng sơ đồ mang tính gợi mở để giáo viên tham khảo sử dụng, nhưng nhiều giáo viên lại sử dụng lại hoàn toàn hệ thống sơ đồ đó như là một khuôn mẫu mà không có sự gia công hay cố gắng tìm tòi, sáng tạo ra những dạng sơ đồ mới. Điều này thể hiện nhận thức của đa số giáo viên về vai trò, tác dụng của việc sử dụng phương pháp sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử còn chưa cao. Ví dụ: Khi tái hiện lại tình hình nước Pháp trước năm 1789, tất cả các giáo viên thường đưa ra sơ đồ vẽ sẵn trên giấy hoặc vẽ trực tiếp lên bảng để giảng giải hoặc minh họa cho học sinh về chế độ ba đẳng cấp tồn tại dai dẳng trong lòng xã hội Pháp. Việc làm này năm nào cũng lặp lại như thế, ở giáo viên nào cũng sử dụng như thế. Thứ hai về phương pháp: Phần lớn sơ đồ đều được sự dụng như một phương tiện minh họa cho nội dung kiến thức. Cách sử dụng này thuộc mức độ sử dụng thấp nhất trong hệ thống phương pháp sử dụng sơ đồ hóa mà tôi đề cập 7 tới trong báo cáo này. Nó chỉ có tác dụng về mặt hệ thống hóa kiến thức mà không có tác dụng kích thích tinh thần học tập của học sinh, không phát triển được tư duy và năng lực tự học của học sinh. Bởi vì, với cách sử dụng này, giáo viên đưa ra những sơ đồ đã được dựng sẵn, rồi tự mình giảng giải cấu trúc và nội dung của sơ đồ, học sinh lắng nghe rồi vẽ lại sơ đồ vào trong vở, có thể ghi hoặc không ghi lời giảng của giáo viên. Hậu quả của cách sử dụng này là học sinh (kể cả các em chú ý nhất) không thể nắm vững bản chất vấn đề, lại không tạo ra một sự hứng thú nào, một tác động kích thích nào cho không khí lớp học trở nên sôi nổi. Học sinh không được làm việc như một chủ thể trung tâm, các em mất đi nhiều cơ hội tự học và tự khẳng định mình. Rõ ràng là hiệu quả giáo dục và phát triển đạt được không lớn. Ví dụ: Khi giảng về Nhà nước Mĩ theo Hiến pháp năm 1787, giáo viên thường sử dụng sơ đồ đã chuẩn bị sẵn hoặc tự vạch ra trong khi giảng, cách làm này chỉ có thể giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức mà không có tác dụng phát triển tư duy và các hoạt động tự lực của học sinh. Qua thực tiễn đó, chúng ta thấy sơ đồ đã được sử dụng trong dạy học lịch sử song còn ít và thiếu một phương pháp sử dụng đúng đắn. Nguyên nhân của tình trạng này là do các giáo viên chưa ý thức được tầm quan trọng của phương pháp, chưa có tinh thần tìm kiếm, đổi mới phương pháp dạy học. Trong báo cáo này tôi sẽ đề cập tới vấn đề này và vận dụng vào chương trình lịch sử lớp 10 THPT 8 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích - Nghiên cứu, hoàn thiện lí luận về phương pháp sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử. - Đề xuất cách xây dựng và sử dụng hiệu quả phương pháp đó trong dạy học của giáo viên và tự học của học sinh (thông qua việc vận dụng vào chương trình lịch sử lớp 10 THPT) - Có cơ sở lý luận để tiến hành thực nghiệm và ứng dụng trong thực tiễn đem lại hiệu quả giáo dục cao, giúp giáo viên và học sinh có phương pháp dạy – học tốt. 2.2. Nhiệm vụ - Điều tra thực tế phương pháp sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử hiện nay. - Nghiên cứu lý luận về phương pháp sơ đồ hóa trong dạy học trong trường phổ thông, phân tích và chứng minh khả năng vận dụng vào dạy học lịch sử. - Nghiên cứu, xây dựng lí luận về phương pháp sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử. - Thống kê và thiết lập mới các dạng sơ đồ, đề xuất lý thuyết sơ đồ hóa và phương pháp sử dụng sơ đồ trong những tình huống cụ thể. 3. Các giải pháp thực hiện 3.1. Cơ sở lí luận về phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử THPT 3.1.1. Khái niệm sơ đồ hóa trong dạy học lịch sử 3.1.1.1. Quan niệm về sơ đồ và sơ đồ hóa a. Sơ đồ Sử dụng thuật ngữ sơ đồ và vẽ sơ đồ diễn ra thường xuyên trong thực tế cuộc sống như: sơ đồ chỉ đường, sơ đồ một lớp học, sơ đồ công viên... Trong dạy học cũng sử dụng nhiều dạng sơ đồ như: sơ đồ mạch điện, sơ đồ giải toán, sơ đồ vòng tuần hoàn của nước, sơ đồ tiến hóa của loài người, sơ đồ tổ chức Liên hợp quốc, sơ đồ chuyển hóa chất, sơ đồ cấu trúc phân tử... Vậy chúng ta hiểu sơ đồ là gì? 9 Từ đồ theo nghĩa Hán – Việt nghĩa là bản vẽ, hình vẽ, sơ hiểu theo nghĩa là sơ lược, có nghĩa là chỉ trên những nét chính, nét lớn, bỏ qua những nét chi tiết. Như vậy sơ đồ hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là hình vẽ thể hiện những nét chính của đối tượng nào đó. “Từ điển tiếng Việt” - 2004 (Viện ngôn ngữ học) định nghĩa: “Sơ đồ là hình vẽ quy ước, sơ lược nhằm mô tả một đặc trưng nào đó của sự vật hay một quá trình nào đó”. Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt – tường giải và liên tưởng”- tác giả Nguyễn Văn Đạm khẳng định: “Sơ đồ là hình vẽ đơn giản của từng phần thuộc một tổng thể, trong mối tương quan các phần với nhau”. Các cách định nghĩa trên đây đều có những điểm chung: khẳng định sơ đồ là hình vẽ nhưng đơn giản, sơ lược, chỉ vẽ những nét chính, nét chủ yếu; mang tính quy ước, mô tả đặc trưng của sự vật hay quá trình, hoặc biểu diễn từng phần của một tổng thể trong mối tương quan giữa các phần với nhau. Như vậy, ngoài yếu tố đối tượng phản ánh của sơ đồ, thì điểm đặc trưng lớn nhất của một sơ đồ là các quan hệ - có thể là quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nên một hệ thống (quan hệ thành phần, quan hệ tương đương) như sơ đồ tổ chức một chính quyền, hay có thể là quan hệ nhân quả, chuyển tiếp giữa các sự kiện như sơ đồ đi lên của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 (Xem phụ lục – Sơ đồ 30) Ngành toán học – nơi khởi điểm của lí thuyết sơ đồ định nghĩa : sơ đồ là một tập hợp rỗng các điểm và tập các đoạn mà các đầu mút của chúng thuộc tập các điểm đã cho (điểm còn gọi là đỉnh, đoạn còn gọi là cung hay cạnh). Định nghĩa này đã xác định chính xác cấu trúc cơ bản của một sơ đồ gồm hai thành tố: đỉnh và cạnh. Trong dạy học lịch sử, sơ đồ được coi là đồ dùng trực quan quy ước nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện lịch sử bằng những mô hình hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện 10 lịch sử... như sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước Mĩ theo hiến pháp năm 1787 (sơ đồ 26) Theo định hướng nghiên cứu của báo cáo, chúng tôi quan niệm sơ đồ dạy học là hình thức thể hiện, diễn giải quy ước các kiến thức dựa trên mối liên hệ giữa các kiến thức hoặc giữa các thành phần của kiến thức một cách khái quát , hệ thống và trực quan. Quan niệm này cho biết cấu trúc của một sơ đồ gồm hai thành tố: 1. Các kiến thức: gồm kiến thức cơ bản (biểu diễn trong các đỉnh) và kiến thức phụ chú (diễn giải kiến thức cơ bản hoặc mối liên hệ giữa các kiến thức) 2. Mối liên hệ giữa các kiến thức hoặc giữa các thành phần của kiến thức được biểu diễn quy ước bằng các cạnh, mũi tên hoặc đường kẻ. Giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại những mối liên hệ phổ biến (trực tiếp hoặc gián tiếp) cho nên bất kì nội dung kiến thức nào cũng có thể sơ đồ hóa. Đó chính là ưu thế của phương pháp này. Ví dụ: Trong sơ đồ Nhà nước Mĩ theo hiến pháp năm 1787 (xem phụ lục – sơ đồ 26) thì kiến thức là chức vụ, cơ quan trong bộ máy chính quyền như Tổng thống, Thượng viện, Hạ viện, Tòa án tối cao...còn mối liên hệ giữa các kiến thức thể hiện ở chỗ cử tri bầu ra Hạ viện, Thượng viện và Đại cử tri; Đại cử tri sẽ bầu ra Tổng thống, còn Tổng thống chỉ định các chức Bộ trưởng trong chính quyền và các quan tòa của Tòa án tối cao... Quan niệm trên đây còn thể hiện đầy đủ những đặc trưng của một sơ đồ: (1) Tính quy ước Sơ đồ không phản ánh chính xác về đối tượng đúng như nó tồn tại, mà chỉ biểu diễn một cách tượng trưng những mối liên hệ bên trong, bản chất của các đối tượng đó. Trong dạy học lịch sử, tính quy ước này khiến cho sơ đồ thiếu khả năng hình thành biểu tượng đầy đủ nhưng lại có khả năng cụ thể hóa sự kiện và là cơ sở để hình thành khái niệm cho học sinh. 11 (2) Tính khái quát Sơ đồ thể hiện những dấu hiệu bản chất nhất của kiến thức bằng hệ thống các kí hiệu, kí tự đã được mã hóa hết sức ngắn gọn, súc tích nhưng lại chuyển tải được lượng kiến thức rất lớn. Có thể khẳng định sơ đồ như là một thứ ngôn ngữ lời ít, ý nhiều. Có điều là kiến thức mà sơ đồ đem lại cũng rất cụ thể và trực quan. (3) Tính hệ thống Cấu trúc của sơ đồ là một chuỗi các đỉnh kiến thức nối tiếp nhau theo một trình tự hợp lí, phản ánh logic phát triển và sự gắn bó chặt chẽ giữa các kiến thức đơn vị. Việc thiết lập một sơ đồ yêu cầu người lập phải rất chú ý đến các tầng bậc, thứ tự trên dưới, trái phải, trước sau của các đỉnh kiến thức. Vì một sự sắp xếp thứ tự thiếu chính xác rất có thể dẫn đến việc phản ánh sai bản chất của kiến thức. (4) Tính trực quan Sơ đồ phản ánh trực quan, cụ thể hóa cùng lúc mặt tĩnh và mặt động của đối tượng bằng các mô hình, hình vẽ khái quát, quy ước được sắp xếp theo hệ thống chặt chẽ, có tác động mạnh đến nhận thức cảm tính, kích thích hứng thú tri giác của người học. Vì lẽ đó, trong dạy học lịch sử, sơ đồ được xếp vào nhóm đồ dùng trực quan quy ước. b. Sơ đồ hóa kiến thức Nếu ở trên chúng ta quan niệm sơ đồ là một hình thức, tức là một danh từ thì sơ đồ hóa là một động từ, hiểu theo nghĩa là một hành động, một việc làm, một cách thức; Sơ đồ hóa kiến thức là việc làm cho những kiến thức ấy có những tính chất của một sơ đồ hay là được thể hiện dưới dạng một sơ đồ. Theo tôi, sơ đồ hóa kiến thức là cách thức cấu trúc hóa, mô hình hóa một cách trực quan, khái quát và hệ thống các kiến thức theo những mối liên hệ đặc trưng của các kiến thức đó. Ví dụ: Với sơ đồ Các mũi tấn công của ta và hướng điều động của địch trong Đông – Xuân 1953-1954 (Xem phụ lục – sơ đồ 34), học sinh có thể dễ dàng 12 nắm nhanh, nắm chắc các hướng tiến công chiến lược của ta và các hoạt động quân sự bị động của địch. Ngay lúc đó, các em sẽ nhận ra sự phá sản của kế hoạch Nava, khi chúng buộc phải phân tán lực lượng trên toàn chiến trường Đông Dương. Từ đó, học sinh sẽ cảm nhận được sự tài tình về chiến lược quân sự của Đảng, sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam, có thể chiến đấu trên một địa bàn rất rộng (toàn chiến trường Đông Dương) và tình đoàn kết hữu nghị Việt – Lào trong chiến đấu. Sơ đồ hóa kiến thức rất đa dạng: toàn bài giảng có thể là một sơ đồ, một đoạn ngắn kiến thức cũng có thể tạo ra một hoặc hai sơ đồ, thậm chí một chương cũng có thể khái quát thành một chuỗi sơ đồ với những mối liên hệ chặt chẽ. Điều này tùy thuộc vào khả năng sáng tạo, vận dụng của thầy, và nhận thức, tinh thần ham học của trò. Nhiều người nghĩ rằng sơ đồ hóa đơn giản chỉ là cách thiết lập một sơ đồ để sử dụng trong dạy học như một đồ dùng tực quan, một phương tiện dạy học. Trong báo cáo này, tôi sẽ chứng minh sơ đồ hóa không chỉ là một phương tiện dạy học mà còn là một phương pháp dạy học – phương pháp sơ đồ hóa, vì nó “thể hiện cách thức, chỉ ra con đường tiếp cận đối tượng, là tổ hợp bước đi mà trí tuệ phải theo để tìm ra chân lý, để nhận thức hiện thực khách quan”. Và chỉ khi nào sử dụng sơ đồ hóa như một phương pháp dạy – học thực thụ mới có thể khai thác, phát huy được hết những thế mạnh của nó trong việc phát triển tư duy của học sinh và nâng cao chất lượng dạy – học. 3.1.1.2. Các loại sơ đồ cơ bản trong dạy học lịch sử a. Căn cứ vào quan hệ được phản ánh trong sơ đồ Có 3 loại sơ đồ: Sơ đồ định hướng, sơ đồ vô hướng và sơ đồ hỗn hợp. Sơ đồ định hướng: Là sơ đồ có sự xác định rõ chiều liên hệ, chiều vận động của các đối tượng (thể hiện bằng những mũi tên) để biểu thị mối quan hệ động, quan hệ trong sự phát triển của các đối tượng. Ví dụ: Sơ đồ về sự xuất hiện 13 xã hội có giai cấp (Xem phụ lục – Sơ đồ 3), Sơ đồ về cơ sở hình thành các quốc gia cổ đại phương Đông (Xem phụ lục – Sơ đồ 5) Sơ đồ vô hướng: là sơ đồ không chỉ rõ chiều liên hệ, chiều vận động của các đối tượng (thể hiện bằng những đoạn thẳng) để biểu thị mối quan hệ tĩnh, quan hệ cấu trúc giữa các đối tượng. Ví dụ: Sơ đồ những hình thức đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến (Xem phụ lục – Sơ đồ 12) Sơ đồ hỗn hợp: Là sơ đồ chứa tất cả hai đặc tính có hướng và vô hướng để biểu thị đồng thời quan hệ tĩnh và động của các đối tượng. Ví dụ: Sơ đồ xã hội nguyên thủy, cổ đại, trung đại (Xem phụ lục – Sơ đồ 13) b. Căn cứ vào cách thức phản ánh của sơ đồ Có hai loại: Hình vẽ lược đồ và sơ đồ nội dung. Hình vẽ lược đồ: là sơ đồ phản ánh đối tượng dưới dạng mô hình khái quát hoặc hình ảnh tượng trưng của chính đối tượng, nhằm cụ thể hóa hình dạng, hiện trạng, cấu trúc của đối tượng. Ví dụ: Sơ đồ cấu trúc kim tự tháp (Xem phụ lục – Sơ đồ 6) Sơ đồ nội dung: là sơ đồ phản ánh đối tượng bằng những kí tự, kí hiệu đã được mã hóa nhằm thể hiện dung lượng tri thức, bản chất và các mối liên hệ đặc trưng của đối tượng. Phần lớn sơ đồ được sử dụng là sơ đồ nội dung. Sơ đồ nội dung bao gồm sơ đồ, đồ thị, biểu đồ, bảng biểu... c. Căn cứ vào cấu trúc của sơ đồ Có 3 loại sơ đồ: Sơ đồ xích, sơ đồ lưới, sơ đồ cây. Sơ đồ xích: là sơ đồ trong đó mọi cặp đỉnh đều có quan hệ liên thông với nhau và đỉnh đầu trùng với đỉnh cuối (còn gọi là sơ đồ vòng), dùng để biểu diễn mối quan hệ giữa các yếu tố trong sự chuyển đổi, tuần hoàn, tạo ra một chu trình khép kín. Ví dụ: Sơ đồ về những mâu thuẫn dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) (Xem phụ lục – Sơ đồ 33) Sơ đồ cây: (còn gọi là sơ đồ phân nhánh cành cây) là sơ đồ trong đó không phải tất cả các đỉnh đều có quan hệ liên thông với nhau, có ít nhất hai đỉnh treo, 14 dùng để biểu diễn mối quan hệ bao hàm, quan hệ phân chia hoặc quan hệ mang tính chất tầng bậc. Ví dụ: Sơ đồ thủ công nghiệp Đại Việt thế kỉ XVI-XVIII (Xem phụ lục – Sơ đồ 21) Sơ đồ lưới là sự kết hợp sơ đồ cây và sơ đồ xích d. Căn cứ vào mức độ hoàn thiện của sơ đồ Có 4 loại sơ đồ: sơ đồ đầy đủ, sơ đồ khuyết thiếu, sơ đồ câm và sơ đồ bất hợp lý. Sơ đồ đầy đủ: là sơ đồ mà tất cả các đỉnh của nó đều được lấp đầy bởi nội dung kiến thức, không thiếu một đỉnh nào, thường dùng như một phương tiện giảng giải, minh họa hay hệ thống hóa, củng cố nội dung kiến thức. Sơ đồ khuyết thiếu: là sơ đồ trong đó có một hoặc một số đỉnh rỗng, không có kiến thức, thường dùng để giao bài tập và kiểm tra trình độ lĩnh hội kiến thức của học sinh. Sơ đồ câm: là sơ đồ mà tất cả các đỉnh của nó đều rỗng, không có bất kỳ một sự lấp đầy nào bằng ngôn ngữ hay kí hiệu, thường dùng để hướng dẫn học sinh cách thiết lập một sơ đồ hoặc kiểm tra trình độ lĩnh hội kiến thức của học sinh. Sơ đồ bất hợp lí: là sơ đồ có một số đỉnh kiến thức không chính xác về nội dung, vị trí và chưa đảm bảo tính trực quan, thẩm mỹ, yêu cầu phải sửa lại. Loại này thường dùng để giao bài tập rèn luyện kĩ năng lập sơ đồ cho học sinh. e. Căn cứ vào nội dung được phản ánh của sơ đồ Có 2 loại sơ đồ: Sơ đồ cơ cấu – cấu trúc, Sơ đồ cơ chế - diễn tiến. Sơ đồ cơ cấu – cấu trúc là sơ đồ thể hiện cách tổ chức, sắp xếp và các quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên chỉnh thể đối tượng được phản ánh. Ví dụ như Sơ đồ cơ cấu xã hội phong kiến Trung Quốc thời phong kiến (Xem phụ lục – Sơ đồ 7). Sơ đồ cơ chế - diễn tiến là sơ đồ thể hiện cách thức vận động, phát triển của đối tượng được phản ánh. Ví dụ: Sơ đồ điều kiện hình thành của nhà nước 15 Văn Lang – Âu Lạc (Xem phụ lục – Sơ đồ 15), Sơ đồ về sự xuất hiện xã hội có giai cấp (Xem phụ lục – Sơ đồ 3) f. Căn cứ vào mục tiêu của lí luận dạy học Có 3 loại sơ đồ: Sơ đồ dùng để nghiên cứu kiến thức mới, sơ đồ dùng để củng cố, hoàn thiện kiến thức và sơ đồ dùng để kiểm tra, đánh giá kiến thức. Sơ đồ dùng để nghiên cứu kiến thức mới thường là sơ đồ hệ thống hóa kiến thức của một mục, một bài học, có khi chỉ là một nội dung nhỏ trong bài giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mới một cách vững chắc và sâu sắc. Sơ đồ dùng để củng cố, hoàn thiện kiến thức thường là sơ đồ hệ thông báo kiến thức của một chương, một khóa trình hoặc của một bài vừa học để củng cố hoạt động nhận thức của học sinh vào cuối giờ học. Sơ đồ dùng để kiểm tra, đánh giá kiến thức là tất cả các dạng sơ đồ trên nhưng được dùng trong khâu kiểm tra, đánh giá học sinh bằng nhiều hình thức như bổ sung, sửa chữa các lỗi bất hợp lý hoặc thiết lập một sơ đồ mới. g. Căn cứ vào mục tiêu rèn luyện kĩ năng cho học sinh Có 4 loại sơ đồ: Sơ đồ rèn kĩ năng phân tích – tổng hợp, sơ đồ luyện kĩ năng khái quát hóa, sơ đồ rèn kĩ năng hệ thống hóa, sơ đồ rèn kĩ năng thực hành. Trên thực tế, khi sơ đồ hóa kiến thức, học sinh sẽ được rèn luyện đồng thời rất nhiều kĩ năng, song giáo viên phải có nhiệm vụ định hướng phát triển kĩ năng chủ yếu nhất và lựa chọn hình thức sơ đồ phù hợp nhất. Ví dụ khi học bài Cách mạng tư sản Pháp để rèn luyện kĩ năng hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức cho học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày nguyên nhân của cách mạng tư sản Pháp bằng ngôn ngữ sơ đồ (Xem phụ lục – Sơ đồ 27). Các em sẽ tiến hành nghiên cứu tài liệu, lựa chọn những kiến thức cơ bản, mã hóa chúng và đưa vào các đỉnh sơ đồ rồi sắp xếp theo đúng thứ tự. Làm đúng các thao tác đó là học sinh sẽ được củng cố vững hơn về kĩ năng. Có điều là, các cách phân loại trên chỉ là mang tính chất tương đối, vì thực tế, các loại sơ đồ đều có sự thâm nhập lẫn nhau. Chẳng hạn, tất cả các loại sơ đồ, 16 dù là căn cứ theo tiêu chí nào thì cũng đều thuộc hai loại sơ đồ: sơ đồ có hướng hoặc vô hướng; hoặc như các loại sơ đồ phân loại theo mục đích lí luận dạy học đề có chức năng rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Vấn đề là ở chỗ, nếu phân biệt rạch ròi, giáo viên và học sinh sẽ có nhiều thuận lợi trong quá trình xây dựng và sử dụng sơ đồ, có thể lựa chọn các kiểu sơ đồ phù hợp với nội dung kiến thức, vì không phải kiến thức nào cũng có thể sơ đồ hóa tùy ý hay gượng ép mà phải có sự lựa chọn cẩn trọng sao cho hình thức sơ đồ ấy có khả năng tái hiện chính xác nhất, trực quan nhất bản chất của kiến thức. 3.2. Phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT 3.2.1. Vị trí, nội dung cơ bản và đặc điểm kiến thức lịch sử chương trình lớp 10 THPT 3.2.1.1. Vị trí, ý nghĩa của chương trình lịch sử chương trình lớp 10 THPT Chương trình lịch sử chương trình lớp 10 THPT giới thiệu các thời kì phát triển của lịch sử xã hội loại người từ nguyên thủy đến đề thế kỉ XX và lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX, với thời lượng theo phân phối chương trình là 52 tiết. Chương trình có vị trí to lớn trong việc thực hiện các mục tiêu dạy học của bộ môn. a. Về kiến thức Chương trình cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, dựng nên bức tranh sinh động của lịch sử thế giới từ xã hội nguyên thủy đến thời kì đầu của xã hội tư bản, giúp các em hiểu được trên mỗi chặng đường phát triển, với thời gian dài ngắn khác nhau, loài người đã không ngừng cải tiến các điều kiện lao động để chinh phục thiên nhiên, nâng cao đời sống, đã sáng tạo và giành được những thành tựu văn minh rực rỡ. Từ đó, học sinh sẽ rút ra được quy luật phát triển của xã hội loài người là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội; là sự phù hợp tất yếu giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; là tính chất quyết định của vật 17 chất – kinh tế đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đồng thời cung cấp cho học sinh kiến thức về những chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ khi hình thành đến giữa thế kỉ XIX. Qua đó, các em thấy được để có được đất nước Việt Nam tươi đẹp như ngày nay cha ông ta đã phải đổ biết bao mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ. b. Về tư tưởng, tình cảm Được trang bị thế giới quan duy vật biện chứng và khoa học, học sinh có thể nhận thức được đúng con đường mà loài người đã và sẽ đi qua, từ đó tin tưởng vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc; hình thành tình cảm yêu nước, ý thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước và xã hội. Các em sẽ hiểu được lịch sử là bức tranh tuyệt đẹp về lao động và sáng tạo, từ đó giáo dục cho các em tinh thần yêu lao động, biết tôn trọng những người dân cần cù lao động, hứng thú, say mê lao động, không ngừng cải tiến điều kiện lao động để nâng cao chất lượng cuộc sống… c. Về kĩ năng Chương trình góp phần bồi dưỡng, phát triển cho học sinh năng lực tư duy nói chung và tư duy lịch sử nói riêng thông qua các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích, đánh giá, nhận định…các sự kiện lịch sử, rèn luyện phát triển ở các em năng lực thực hành như đọc,vẽ bản đồ, sơ đồ… và năng lực hành động trong thực tế cuộc sống. 3.2.1.2. Nội dung cơ bản của chương trình lịch sử lớp 10 THPT. Chương trình lịch sử lớp 10 giới thiệu về 4 thời kì lịch sử - 4 nấc thang phát triển của xã hội loài người: Nguyên thủy – cổ đại – phong kiến – thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản, đồng thời giới thiệu những nét khái quát về lịch sử dân tộc trải qua các thời kì nguyên thủy – cổ đại phong kiến. Nội dung của chương trình tập trung vào các vấn đề sau đây: 18 - Cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên của con người để cải tiến điều kiện lao động và kỹ thuật, không ngừng nâng cao đời sống của mình đã diễn ra như thế nào? - Con người đã sáng tạo và đạt tới những thành tựu văn minh như thế nào? - Con người đã tiến hành cuộc đấu tranh xã hội – đấu tranh giai cấp quyết liệt để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển như thế nào? - Cha ông ta đã dựng nước và giữ nước như thế nào? - Những thành tựu về kinh tế và văn hóa qua các thời kì được biểu hiện như thế nào? - Qua các nội dung trên, ta thấy lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc được phát triển theo quy luật thế nào? Những nội dung này được thể hiện trong nội dung của từng bài học, từng chương mà giáo viên phải giúp học sinh nắm vững những nội dung đó. a. Xã hội nguyên thủy Thời kì xã hội nguyên thủy hay công xã nguyên thủy là thời kì lịch sử đầu tiên và dài nhất của lịch sử xã hội loài người (hàng triệu năm) mà tất cả các dân tộc đều phải trải qua. Chương này cung cấp những kiến thức về sự hình thành con người và xã hội loài người. Để tồn tại, con người phải tìm kiếm, chế tạo và sử dụng công cụ lao động để khai phá thiên nhiên. Chính điều đó đã tạo nên động lực phát triển của xã hội. Con người đã có những phát minh đầu tiên (lửa, cung tên, các công cụ…) nhưng trình độ vẫn còn rất thấp kém. Đặc trưng của xã hội thời kỳ này là không có giai cấp, không có áp bức, bóc lột, mọi người đều bình đẳng và sinh hoạt trong cộng đồng thị tộc. Mối quan hệ giữa con người với con người dựa trên nguyên tắc vàng là cùng làm, cùng hưởng, công bằng và bình đẳng. Qua đó, giúp học sinh bước đầu nhận thức về sự phát triển hợp quy luật của lịch sử. 19 b. Xã hội cổ đại Là bước phát triển cao hơn xã hội nguyên thủy, bắt đầu có sự xuất hiện giai cấp, nhà nước và các nền văn minh. Có sự khác biệt rõ nét giữa các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại Địa Trung Hải về kinh tế, chính trị, xã hội… do chịu ảnh hưởng của những điều kiện tự nhiên khác nhau. Những cuộc đấu tranh giai cấp đầu tiên đã nổ ra quyết liệt, nhất là những cuộc đấu tranh của nô lệ chống lại chủ nô ở các quốc gia Địa Trung Hải, mở đầu cho quy luật có áp bức có đấu tranh trong sự phát triển của xã hội loài người. Ngoài ra, thời kì này đã đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hóa mà mỗi thành tựu đều gắn với một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định và đều là sản phẩm của sự sáng tạo vĩ đại của con người. c. Xã hội phong kiến Là hình thái kinh tế - xã hội thứ ba trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Nó phát triển cao hơn hai hình thái kinh tế - xã hội trước, tồn tại hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân với đặc trưng là chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và mối quan hệ bóc lột địa tô phong kiến. Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ đã hết sức gay gắt, dẫn đến những cuộc đấu tranh liên tục của nông dân chống lại địa chủ, làm cho xã hội phong kiến suy tàn dần và tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng xã hội phong kiến, điển hình là ở phương Tây. Ở phương Đông, chế độ phong kiến tồn tại dai dẳng đã kéo lùi sự phát triển của các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược và biến những nước này thành thuộc địa. Thời kì này nhân loại cũng đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hóa, là tời kì hình thành nền văn hóa mang bản sắc riêng của mỗi dân tôc. d. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX Phần này học sinh được tìm hiểu về chặng đường dài của lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, suy yếu (giữa thế kỉ XIX). Kiến thức của phần này vô cùng phong phú, phản ánh những nấc thang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan