Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 1 Sáng kiến kinh nghiệm - một vài biện pháp rèn học sinh học yếu toán lớp 1 tiến b...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm - một vài biện pháp rèn học sinh học yếu toán lớp 1 tiến bộ

.PDF
12
1248
88

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do- Hạnh phúc MÔ TẢ GIẢI PHÁP Mã số: ……………………………………………………………………… 1. Tên sáng kiến: “Một vài biện pháp rèn học sinh học yếu toán lớp 1 tiến bộ” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: Học sinh lớp Một đầu năm trẻ mới đến trường, trẻ rất bỡ ngỡ từ việc chuyển hoạt động chủ đạo từ chơi sang hoạt động học tập. Các em còn ham chơi. Đặc biệt là lần đầu tiên các em tiếp xúc với các bài toán, các em chưa biết gì về toán. Do đó việc học toán đối với các em là rất khó khăn. Trong quá trình giảng dạy môn Toán lớp 1, qua thực tế dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp về tiết toán, tôi nhận thấy việc hứng thú học môn Toán của HS còn hạn chế, một số em không thích học môn toán, coi việc học toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng,... Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học toán nói riêng và các môn học khác nói chung. Còn riêng ở lớp Một/1, qua 4 tuần thực dạy tôi tìm hiểu về đặc điểm tình hình lớp như sau: *Ưu điểm: - Học sinh đa số là con em thuộc địa bàn dân cư gần trường, dễ liên lạc và phối hợp cùng phụ huynh giáo dục con em. - Được nhà trường tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất lẫn tinh thần cho lớp học 2 buổi/ ngày, dành riêng một phòng học tiện cho việc hướng dẫn, chỉ đạo học sinh hoạt động học tập. - Sách giáo khoa toán có kênh hình rất đẹp, sinh động gần gũi với đời sống của trẻ. - Mỗi lớp Một đều được trang bị 01 bộ đồ dùng dạy học Toán. 1 - Học sinh được trang bị mỗi em 01 bộ đồ dùng học Toán. *Khuyết điểm: - Do nội dung dạy Toán mang tính trừu tượng. - Do sự nhận thức của học sinh lớp Một không đồng đều - Một số em tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng tính toán chậm; khả năng phân tích tổng hợp, tư duy còn hạn chế không có khả năng vận dụng kiến thức vào bài tập; thái độ thờ ơ đối với học tập, ham chơi, lười học ngại cố gắng, chưa tự giác, chưa có động cơ học tập còn ỷ lại trông chờ giáo viên. - Phương pháp giảng dạy giáo viên chưa phù hợp, chưa quan tâm hết các đối tượng trong lớp chỉ chú trọng vào các học sinh khá giỏi; chưa có kế hoạch phụ đạo hợp lí. - Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho thầy cô. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: 3.2.1. Mục đích giải pháp: - Nhằm giúp đỡ các em học sinh yếu vươn lên trong học tập; nắm vững các kiến thức cơ bản về kiến thức và kỹ năng toán 1 để làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên, hăng say trong giờ học toán, nâng cao chất lượng dạy, học; hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu. Đồng thời cũng để trang bị cho tôi kiến thức sau này áp dụng trong quá trình giảng dạy. - Rèn học sinh tính chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán. - Chia sẻ với đồng nghiệp kinh nghiệm về phương pháp dạy phụ đạo học sinh học yếu toán. 3.2.2. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp đã, đang được áp dụng: - Lựa chọn phương pháp dạy học toán phù hợp với học sinh yếu qua từng dạng bài bằng nhiều hình thức khác nhau như: phương pháp trực quan sinh động, 2 giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi toán học, thi đua tập ra đề toán, trò chơi tiếp sức, thủ thuật tính nhanh dễ nhớ, ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy … - Xây dựng động cơ học tập cho học sinh. - Lập kế hoạch dạy phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu. Nội dung giải pháp: Đứng trước thực trạng như vậy, tôi đã nghiên cứu, tham khảo tài liệu, ghi chép những kinh nghiệm theo từng tiết dạy, trao đổi thảo luận với đồng nghiệp trong tổ, trong nhà trường cộng với một số kinh nghiệm trong quá trình dạy lớp 1 nhiều năm, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để giúp các em học sinh lớp Một/1 đạt chuẩn kiến thức kĩ, kỹ năng của chương trình toán lớp 1 như sau: a) Lựa chọn phương pháp phù hợp dạy cho HS. – Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm, mau quên. Vì thế trong giảng dạy giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi toán học, sử dụng máy chiếu … phối hợp đang xen nhau tạo hứng thú cho các em. + Khi dạy các bài toán hình thành kiến thức mới giáo viên cho học sinh được trực tiếp sử dụng đồ dùng trực quan sẽ dễ lĩnh hội được kiến thức hơn. *Ví dụ: Khi dạy bài “Phép cộng trong phạm vi 7”. Để các em hiểu phép tính, giáo viên cho các em là tự làm việc với que tính tiếp thu bài tốt hơn. Chẳng hạn như: Dạy phép tính 3 + 4 = 7, giáo viên không nên áp đặt kiến thức hay tự giáo viên thực hiện các thao tác mà phải dạy cho học sinh thực hiện thao tác thêm Cho học sinh đếm và lấy 3 que tính (tức là vừa đếm vừa lấy từng que tính ) : (1, 2, 3). sau đó tiếp tục cho học sinh đếm và lấy 4 que tính . Rồi hướng dẫn học sinh gộp hai nhóm que tính này thành một que tính. Đếm số que tính của nhóm này : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và viết 7 vào bảng con (công việc này gọi là thao tác gộp, giúp học sinh hiểu khái niệm phép cộng một cách chính xác nhất) 3 Cho học sinh đếm 3 que tính, rồi tiếp tục đếm lấy 4 que tính (không để tách riêng mà gộp luôn vào số đã lấy). Sau đó hướng dẫn học sinh đếm số que tính thu được: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và viết 7 (công việc này gọi là thao tác thêm). Về mặt toán học thì thao tác thêm không khác gì với thao tác gộp . Điểm khác ở đây là thao tác gộp hai nhóm được tiến hành cùng một cách với thao tác đếm lấy 4 que tính. Dạy phép tính 7 – 4 = 3 thì ta cũng phải cho học sinh thực hiện các công việc sau: Đếm lấy 7 que tính . Từ số 7 que tính này đếm lấy bớt 4 que tính sau đó đếm số que tính còn lại : 1,2,3 Viết 3 . * Ví dụ : Dạy bài số 6 phần nhận biết thứ tự của số 6: + Học sinh dùng que tính hoặc hình tròn đếm xuôi, ngược. Sau đó học sinh đếm buông( không dùng đồ vật đếm). Từ đó học sinh nhìn vô dãy số sẽ nhận biết được thứ tự của số 6 trong dãy số 1, 2, 3, 4, 5, 6; số 6 đứng liền sau số 5. Được thực hành trên trực quan giúp các em khắc sâu kiến thức hơn. * Ví dụ: Tiết 81- Bài toán có lời văn Khi sử dụng ĐDDH( bằng giáo án điện tử) tôi đã sử dụng hình ảnh động cho mỗi bài: - Bài 1: Có 1 bạn, có thêm 3 bạn nữa đang đi tới. - Bài 2: Có 5 con thỏ, thêm 4 con thỏ đang chạy tới. - Bài 3: Minh hoạ cho đàn gà tôi đã thu âm thanh của gà con. - Bi 4: Hình ảnh 4 con chim đậu trên cành, có 2 con chim nữa bay đến... Qua các hình ảnh minh hoạ cho bài học này, tôi thấy bài học rất sinh động, học sinh hào hứng say mê kiến thức mới, nắm bài tốt hơn... - Giáo viên cần dạy cho học sinh nắm chắc kiến thức từng bài, từng phần trong chương trình toán 1, tránh làm học sinh bị hỏng kiến thức. *Ví dụ: Nếu học sinh không thuộc bảng cộng, trừ trong phạm vi 10 thì các em không học được phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100 - Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học: Giáo viên kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học sinh hiểu khái niệm không hình thức. 4 *Ví dụ : Khi dạy học sinh làm tính cộng: 2 + 3 = 5. Bằng kinh nghiệm sống của trẻ, các em có thể trả lời ngay được kết quả là 5, song nếu chỉ nghĩ rằng học sinh chỉ học thuộc các phép tính làm đúng kết quả thôi thì chưa đủ mà người giáo viên cần làm cho học sinh hiểu cặn kẽ bản chất, ý nghĩa của phép cộng bằng các hình ảnh trực quan, động tác hoạt động của học sinh để từ đó rút ra “động tác gộp các nhóm đồ vật vào nhau chính là cơ sở của phép cộng hay nói cách khác đó chính là ý nghĩa của phép cộng.” – Giáo viên lấy các ví dụ trong thực tế, gần gũi với học sinh để giúp học sinh hứng thú học tập – Việc tổ chức trò chơi học tập đối với học sinh yếu là một trong những yêu cầu cần thiết nhằm khắc sâu kiến thức cho các em, giúp các em ham thích học toán. *Ví dụ : Trong các bài từ bài phép cộng, trừ trong phạm vi 3 đến phạm vi 10 môn toán giáo viên có thể thường xuyên tổ chức trò chơi: Ai xếp đúng, và nhanh. Ở đây tôi lấy chẳng hạn bài: Phép cộng trong phạm vi 6. Chuẩn bị: Lấy giấy bìa cắt nhiều hình tròn, 7 hình đầu tiên viết các số từ 0-6, các hình còn lại viết các phép tính: 1+1, 1+2, 1+3, 1+4, 1+5, 2+1, 2+2, 2+3, 2+4, 3+1, 3+2, 3+3, 4+1, 4+2, 5+1, 1+0, 2+0, 3+0, 4+0, 5+0, 6+0, 0+1, 0+2, 0+3, 0+4, 0+5, 0+6. Cách tiến hành: - Giáo viên giới thiệu trò chơi: Ai xếp đúng, và nhanh. - Giáo viên hướng dẫn trò chơi: + Mỗi em lấy ra một hình tròn bất kỳ (từ 0 đến 6), chẳng hạn: 6. + Sau khi thầy (cô) hô “bắt đầu”, các em phải nhặt các hình tròn có tổng bằng 6 (1+5, 5+1, 2+4, 4+2, 3+3, 0+6, 6+0), xếp các hình tròn đó quanh số 6 thành một bông hoa. 5 + Ai xếp đúng đầy đủ và nhanh nhất sẽ thắng (Giáo viên lưu ý học sinh: Nhớ làm đủ các phép tính, cả với số 0, cả với các phép tính đảo ngược như 4+2 hay 2+4). - Học sinh có học lực yếu kém thường hiểu chậm cái mới , quên nhanh cái vừa tiếp thu được, khó nhớ những gì có tính khái quát trừu tượng quan hệ logic. Các kiến thức cũ phải được giáo viên cũng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau * Ví dụ: Khi dạy “Phép trừ trong phạm vi 5” giáo viên giúp học sinh học thuộc các công thức cộng trong phạm vi 3, 4,5 và thấy được mối liên quan giữa toán cộng và trừ, phép trừ là phép ngược lại của phép cộng: 1+ 4 = 5 5–1=4 4+ 1 = 5 5–4=1 2+3=5 5–2=3 3+2=5 5–3=2 – Khi luyện tập nếu học sinh không tự nhận ra kiến thức đã học trong các dạng bài tập khác nhau thì giáo viên nên giúp học sinh bằng lời gợi ý hướng dẫn để học sinh nhớ lại kiến thức và cách làm, không vội làm thay cho học sinh. *Ví dụ : – Khi dạy các số tròn chục, giáo viên gợi ý cho học sinh nắm chắc cấu tạo số rồi hướng dẫn học sinh là nét đặc biệt của các số tròn chục là hàng đơn vị luôn bằng 0. Từ nhận biết cơ bản này, học sinh sẽ áp dụng vào việc thực hiện phép cộng, trừ các số tròn chục một cách thuận lợi. 30 + 50 = 80 80 - 30 = 50 Vì hàng đơn vị luôn bằng 0 nên học sinh chỉ cần nhẩm hoặc tính hàng chục thì sẽ ra kết quả của phép tính. – Giúp học sinh thực hành luyện tập theo khả năng cần đạt của các em. 6 – Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu, kém, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặc những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu bài, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỷ. – Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. – Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”. – Đối với việc đánh giá bài làm của học sinh, tôi không chỉ đưa ra lời nhận xét đúng hoặc sai mà cần giải thích rõ tại sao đúng dựa vào những kiến thức nào ,sai thì sai ở đâu? – Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học. Sau mỗi tuần học cần có 1 bài kiểm tra những kiến thức đã học để nắm sự tiến bộ phát hiện kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế hoạch phụ đạo học sinh. b) Xây dựng động cơ học tập cho học sinh: *Luyện tập vừa sức HS yếu: – Đối với HS yếu , tôi luôn coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức. Do đó khi hướng dẫn HS luyện tập, tôi luôn đặc biệt chú ý các điều sau: + Đảm bảo cho HS hiểu đề bài: HS yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên: không hiểu bài toán nói gì, do đó không tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy tôi 7 đã dùng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp HS hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua. *Ví dụ: Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, và, tất cả, … ” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , …” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trước tiên giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại “Bài toán cho gì? Hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh phân tích đề toán. Bài toán: Nhà Lan có 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả mấy con gà? Giáo viên hướng dẫn: - Bài toán cho gì? (Nhà Lan có 5 con gà) - Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) - Bài toán hỏi gì? (Nhà Lan có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà em làm tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: “Nhà Lan có tất cả mấy con gà ?” (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 con gà”, nên ta viết “con gà” vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).Tuy nhiên đối với những học sinh yếu thường thì các em nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác nhận kết quả là đúng, nhưng GVcần hỏi thêm: “Em tính thế nào?” (5 + 4 = 9). Sau đó nhấn mạnh: “Khi giải toán em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (ở đây là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán. 8 Sau khi học sinh đã xác định được phép tính giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải: *Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối ( mấy con gà ?) để có câu lời giải : “Nhà Lan có tất cả:” hoặc thêm từ “là” để có câu lời giải : “Nhà Lan có tất cả là: *Cách 2: Từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: “Số con gà nhà Lan có tất cả là:” Bài giải Số con gà nhà Lan có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số: 9 con gà + Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức, rèn một kĩ năng nào đó, HS kém cần giải những bài tập cùng thể loại và cùng mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng này thường tiến hành trong các tiết ôn luyện hoặc những buổi phụ đạo riêng với nhóm HS yếu, kém toán. + Sử dụng những bài tập vừa sức, chủ yếu là cho HS giải các bài tập thuộc dạng cơ bản, tránh ra thêm cho các em những dạng bài tập mới có tính chất mở rộng, nâng cao kiến thức. * Rèn luyện phương pháp học tập: – Yếu về phương pháp học tập là một tình hình phổ biến của HS yếu kém toán. Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với một bộ phận khá đông trong những học sinh diện này. Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục tình trạng HS yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp học tập tốt. – Với HS yếu kém tôi thường xuyên hướng dẫn nhắc nhở các em từ những cách thức học toán sơ đẳng như: nắm được kiến thức lí thuyết mới làm bài tập, đọc kĩ đầu bài trước khi làm, vẽ hình hợăc vẽ sơ đồ phải sáng sủa, viết nháp rõ ràng, phát biểu thành câu đủ ý, trình bày bài khoa học, không tẩy xoá, giải toán xong 9 phải kiểm tra lại đáp số và biết thử lại… Chẳng hạn như: Khi học sinh làm toán đặt tính rồi tính. Học sinh phải biết đặt tính cột dọc, viết các số từ trên xuống dưới sao cho các số phải thẳng cột ghi dấu “+”, dấu “-“ về bên trái giữa 2 số dưới 2 số kẻ vạch ngang để phân biệt kết quả và kết quả phải viết thẳng cột với 2 số trên lưu ý với kết quả là 10 thì chữ số hàng đơn vị phải được thẳng cột với nhau. – Đối tượng học sinh yếu cũng sẽ gặp vấn đề về chữ viết. Vì vậy, việc giáo dục những học sinh này rèn chữ, giữ vở cũng vô cùng cần thiết. Nếu chữ viết, chữ số rõ ràng, ngay ngắn, đúng độ cao, khoảng cách thì học sinh dễ nhìn và làm bài được tốt hơn, giúp các em được tính cẩn thận, chịu khó. Vì thế, học sinh yếu càng cần đến việc rèn chữ, giữ vở hơn nhưng đối tượng học sinh khác. – Thường xuyên nhắc nhở các em tránh làm việc riêng trong giờ học. – Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên nhắc nhở các em một số kinh nghiệm làm bài khi thi như sau: + Thứ nhất được phát đề thi, các em nhất thiết phải đọc qua một lượt tất cả các bài tập trong đề để phân loại các câu hỏi, xác định được những bài nào dễ, bài nào khó. Không nên làm ngay những bài khó vì sẽ chiếm mất thời gian của những bài khác. + Thứ hai: Không làm quá tắt + Thứ ba: Không nên làm trước vào giấy nháp rồi chép lại vì vừa tốn thời gian, vừa dễ nhầm, dễ bỏ xót. Chỉ sử dụng giấp nháp để hổ trợ tính toán, ghi hướng giải đối với các bài khó. + Thứ tư: Biết phần nào làm phần đó, giả sử giải được câu a mà biết giải câu b + Thứ năm: Thận trọng với lời giải nên giải thật cụ thể và rõ ràng. + Thứ sáu: Không nên nộp bài khi chưa hết giờ,nếu làm xong nên chịu khó ngồi kiểm tra thật kĩ để phát hiện kịp thời các sai lầm trong quá trình giải. c) Lập kế hoạch dạy học và phụ đạo giúp đỡ học sinh. – Vào những ngày đầu năm học, giáo viên theo dõi từng học sinh trong quá trình học tập và dựa vào kết quả khảo sát phát hiện ra những em học yếu toán. Tìm 10 hiểu lý do học yếu từng em, sau đó liên hệ với gia đình học sinh đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp . – Cụ thể tôi lập danh sách tất cả những học sinh yếu và tổ chức cho các em học phụ đạo, mỗi ngày 15 phút - 20 phút trước và sau giờ học. Tôi ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung những bài học sẽ học tiếp theo và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức dã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học sinh. Chẳng hạn: Trước khi học bài: “Bé hơn. Dấu bé” tôi dạy cho học sinh nắm vững về thứ tự các số 1, 2, 3, 4, 5 nhằm giúp các em dễ thực hiện khi so sánh các số với nhau. – Ngoài thời gian phụ đạo trên GV còn sử dụng buổi học thứ 2 để ôn luyện lại kiến thức cho các em. – Sau buổi học phụ đạo, giáo viên có kế hoạch kiểm tra trên giấy để nắm mức độ tiến bộ của các em, tuyên dương các em học có tiến bộ trước lớp nhằm động viên kích thích các em ham học và học tốt hơn dù đó là những tiến bộ nhỏ . – Giáo viên tổ chức học sinh giỏi kèm học sinh yếu, phụ đạo học sinh yếu trong giờ tự học, tự ôn tập ở trong lớp những kiến thức để các em nắm vững hơn. – Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học yếu để báo cáo tình hình học tập của các em học yếu. Kết hợp phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc nhở giúp các em đạt kết quả tốt hơn 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: – Sáng kiến có thể phổ biến cho các giáo viên trong trường (đặc biệt là các giáo viên trong tổ khối 1). – Ngoài ra sáng kiến còn có thể lan rộng cho các trường bạn. 3.4. Hiệu quả, lợi ích được dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp: Từ nhận thức của bản thân trên cơ sở thực tiễn chọn đề tài và các biện pháp triển khai đề tài, qua khảo sát thực tế việc tiếp thu của học sinh, tôi thấy đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau: 11 – Học sinh được đánh giá chính xác kết quả học tập, các em biết vận dụng thành thạo các kiến thức đã học vào việc vận dụng làm bài tập một cách thuận lợi, vững chắc. – Luyện tập cho học sinh có thói quen học tập tốt biết suy nghĩ, quan sát, lập luận để học sinh phát huy trí thông minh, óc sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp, tư duy độc lập và thông qua việc thảo luận, tranh luận mà học sinh phát triển khả năng nói lưu loát, biết lí luận chặt chẽ khi giải toán. – Học sinh biết vận dụng các kiến thức đơn lẻ để giải các bài toán tổng hợp nhiều kiến thức. – Tạo không khí sôi nổi, niềm say mê hứng thú cho học sinh bằng các bài toán sinh động, hấp dẫn thực sự biến giờ học, lớp học luôn là không gian toán học cho học sinh. Học sinh yếu của lớp có sự tiến bộ một cách rõ rệt, đưa chất lượng học tập của các em nâng dần không có học sinh yếu. Kết quả thi cuối học kỳ I: Giỏi: 25/32 Khá: 6/32 Trung bình: 1 4. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có). - Sáng kiến này đã phổ biến cho tất cả giáo viên đang giảng dạy ở trường tiểu học Phú Sơn và được giáo viên áp dụng cùng thực hiện trong năm hoc 2012 – 2013 đạt kết quả khá cao. 5. Tài liệu kèm theo gồm: Chất lượng môn toán lớp tôi qua từng học kì trong năm học 2011 - 2012 như sau: Sĩ số Giữa HKI 18 Cuối HKI 18 Giỏi Khá Trung bình Yếu 0 Phú Sơn, ngày 15 tháng 03 năm 2013 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan