SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG SOẠN
GIẢNG”
1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề:
1.1.1. Thực trạng của công tác soạn-giảng ở trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng.
Soạn bài là việc chuẩn bị quan trọng nhất của giáo viên cho giờ lên lớp. Đồng thời
với việc soạn bài là sự chuẩn bị đồ dùng dạy học, thí nghiệm. Đó là hai loại công việc
chủ yếu trước giờ lên lớp của giáo viên.
Nhiệm vụ của hoạt động dạy và học ở trường tiểu học của người giáo viên là làm
cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ bản, có những kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết trong học tập, trong lao động và trong cuộc sống của trẻ. Trong
những kĩ năng cần được rèn luyện cho học sinh thì quan trọng nhất là làm cho học sinh
có được kĩ năng học tâp để thực hiện Hình thành hoạt động học tập - Hoạt động chủ đạo
của các em trong thời kỳ này.
Phát triển trí tuệ học sinh trong quá trình nắm tri thức, trước hết là phát triển tư duy
độc lập sáng tạo, hình thành năng lực nhận thức và hoạt động của học sinh. Ở học sinh
tiểu học, trí tưởng tượng rất phong phú nhưng trình độ chuẩn bị sẵn sàng về mặt trí tuệ
(hoạt động tư duy) cho học tập chưa phát triển đến mức cần thiết. Cho nên dạy học chẳng
những phải phát triển trí tưởng tượng của các em mà còn phải rèn luyện các thao tác tư
duy để phát triển năng lực nhận thức, năng lực hoạt động khoa học, sáng tạo.
Những nhiệm vụ dạy và học nói trên được thực hiện đồng thời và thống nhất với
nhau trong quá trình dạy học. “Quá trình dạy và học là tập hợp những hành động liên
tiếp của giáo viên và học sinh, được giáo viên hướng dẫn. Những hành động này nhằm
làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và trong quá trình
đó, phát triển được năng lực nhận thức, nắm được các yếu tố của văn hoá, lao động trí
óc và chân tay, hình thành những cơ sở của thế giới quan và hành vi cộng sản chủ nghĩa
” (ÊXiPôp).
Hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò là hai hoạt động trung tâm của
một quá trình dạy học và là hai hoạt động mang tính chất khác nhau. Song thống nhất với
nhau trong mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò, dạy và học cùng lúc diễn ra trong những
điều kiện vật chất - kĩ thuật nhất định.
Toàn bộ những vấn đề nêu trên đều liên quan chặt chẽ với nhau một cách biện
chứng. Trong đó điều kiện tiên quyết để dạy tốt – học tốt là thiết kế kế hoạch bài học một
cách chuẩn xác về kiến thức, tường minh về phương pháp, cách thức dạy học của người
giáo viên; đồng thời với công việc đó là thi công bài giảng một cách linh hoạt, đảm bảo
2
nội dung kiến thức và phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Để tổ chức tốt khâu
thiết kế và thi công của người giáo viên, vai trò hết sức to lớn của người cán bộ quản lý
nhà trường là nắm bắt xu thế, khơi dậy tiềm năng và chỉ đạo có hiệu quả công việc hàng
ngày của giáo viên.
1.1.1.1. Thực trạng thiết kế kế hoạch bài học (soạn bài) của giáo viên:
Trong năm học 2011 – 2012, qua kiểm tra kế hoạch bài học hàng tuần và đột xuất
cũng như tổng kiểm tra hồ sơ bốn lần trong năm học, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt
ở các nhóm giáo viên khác nhau. Cụ thể:
- Đối với giáo viên tuổi cao hoặc hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn thì sự đầu
tư cho soạn bài rất hạn chế. Việc lập kế hoạch bài học chỉ như là chép lại sách giáo viên
mà không có sự đầu tư nào khác, không chú ý đến đối tượng học sinh cũng như cơ sở vật
chất phục vụ cho bài giảng. Đặc biệt có trường hợp chép nguyên giáo án cũ để dạy.
Những điều đó làm cho chất lượng giảng dạy kém hiệu quả.
- Đối với những giáo viên có trình độ chuyên môn vững thì đã có sự đầu tư nhất
định. Khi lập kế hoạch bài học họ đã có sự lựa chọn phương pháp giảng dạy cũng như
tính đến các yếu tố: Học sinh, phương tiện dạy học, tìm tòi các tài liệu tham khảo, chú
trọng tới việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên số giáo viên này
chưa nhiều.
Sau đây là kết quả phân loại hồ sơ giáo viên trong năm học 2011 – 2012:
Tổng số
hồ
sơ Xếp loại Tốt
được xếp
loại
SL
%
37
15
40,5
Xếp loại Khá
Xếp
loại
Xếp loại Đạt
Chưa đạt yêu
yêu cầu
cầu
SL
%
SL
%
SL
15
40,5
7
19
0
%
Việc phân loại kế hoạch bài học mới chỉ dừng ở mức những tiêu chí sau:
- Loại A: Đủ bài soạn, không nhầm lẫn kiến thức, không cắt xén chương trình, đủ
các bước lên lớp, trình bày sạch sẽ, có hệ thống câu hỏi gợi mở hướng dẫn học sinh.
- Loại B: Như các tiêu chí của loại A nhưng còn một số bài soạn sơ lược.
- Loại C: Bài soạn sơ lược nhiều, trình bày chưa khoa học.
Tóm lại: Thực trạng việc thiết kế kế hoạch bài học là: Đủ bài, đúng phân phối
chương trình. Một bộ phận giáo viên nòng cốt có ý thức trách nhiệm tốt đầu tư nhiều cho
3
bài soạn. Song song với những thiết kế tốt vẫn còn nhiều giáo án sơ lược, chưa chú ý
đúng mức đến phương pháp dạy học đặc thù đối với từng đối tượng học sinh, những giáo
án này thể hiện trình độ chuyên môn hạn chế của giáo viên, năng lực sư phạm yếu hoặc
bị ảnh hưởng của lối làm việc được chăng hay chớ, thiếu đầu tư suy nghĩ tìm tòi.
1.1.1.2. Thực trạng về thi công bài giảng trên lớp:
Việc thực hiện giờ lên lớp của giáo viên là công việc hàng ngày của mỗi cán bộ
giáo viên cần phải nghiêm túc thực hiện:
Về giờ giấc 100% giáo viên thực hiện lên lớp đúng giờ, đảm bảo thời gian các tiết
học. Tư cách tác phong đĩnh đạc, trang phục gọn gàng, lịch sự. Việc này có tác dụng tới
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, tạo cho các em có nề nếp, tác phong nhanh nhẹn,
làm việc có giờ giấc.
Đối với nội dung bài giảng, trong quá trình kiểm tra giờ dạy của ban giám hiệu
cũng như qua các biên bản nhận xét giờ dạy của các tổ khối chuyên môn có thể nhận định
như sau:
Tổng Xếp loại Tốt
số giờ
đã dự SL
%
90
30
33,3
Xếp loại Khá
Xếp loại ĐYC
Xếp
loại
Không ĐYC
SL
%
SL
%
SL
40
44,5
20
33,3
0
%
Phân loại theo đạt mục tiêu tiết dạy như sau:
- Số lượng giờ lên lớp đảm bảo được mục tiêu đề ra: 70%
- Số giờ dạy không sử dụng đồ dùng trực quan:
30%
- Số giờ tổ chức tốt lớp học:
70%
- Số giờ dạy học chỉ chú ý đến phương pháp:
20%
- Số giờ áp dụng các phương pháp thuyết trình đơn thuần:20%.
Từ những số liệu nêu trên cho thấy, việc thực hiện tốt cả 3 phương diện: Mục tiêu,
nội dung, phương pháp chiếm tỉ lệ còn thấp. Đặc biệt các giờ dạy chay chiếm quá nhiều
cho thấy việc đầu tư tìm tòi, tận dụng khả năng hiện có của cơ sở vật chất nhà trường
cũng như bản thân giáo viên còn nhiều hạn chế. Điều này một mặt do tâm lý ngại chuẩn
bị đồ dùng dạy học, mặt khác cũng cho thấy bộc lộ rõ nét việc sử dụng trang thiết bị dạy
4
học còn nhiều lúng túng ở nhiều giáo viên. Bên cạnh đó việc thực hiện giờ lên lớp đối với
giáo viên có thâm niên công tác lâu năm thì thường chú ý đến nội dung bài là chính sao
cho chuyền đạt hết nội dung bài là được, còn việc sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực thì thực hiện chậm. Còn các giáo viên trẻ lại theo xu hướng ngược lại, nghĩa là chú ý
quá nhiều đến phương pháp mà không mở rộng, làm rõ nội dung cần lĩnh hội cho học
sinh.
Từ thực trạng như vậy dẫn đến chất lượng học tập của học sinh chưa được cao, học
sinh tiếp nhận tri thức một cách thụ động, kiến thức không sâu, thiếu tính bền vững.
Qua thực trạng trên có thể thấy, thực trạng giờ lên lớp của giáo viên trong nhà
trường là: Tác phong mẫu mực, ở mức độ nhất định đã làm chủ được giờ giảng song bên
cạnh đó còn nhiều khiếm khuyết như: Một số ít giáo viên chưa thực sự vững về kiến thức
và phương pháp, đặc biệt việc sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế, việc phối
kết hợp các phương pháp dạy học trong một giờ sao cho hiệu quả nhất chưa được tốt.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng nêu trên là: Một số giáo viên năng lực có nhiều
hạn chế, việc tự học và tự bồi dưỡng chưa thường xuyên và gặp không ít khó khăn do
điều kiện gia đình không cho phép. Do vậy có giáo viên chưa bắt kịp với đà đổi mới hiện
nay. Điều đáng mừng là từ năm học 2009 - 2010 đến nay, bàn ghế đã được đầu tư mới,
đầy đủ đúng quy cách, đủ điều kiện cho dạy và học 7 buổi/ tuần trở lên.
1.1.1.3. Thực trạng về chất lượng học sinh cuối năm học 2011 - 2012:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Môn học
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
341
44.5
221
28.9
194
25.3
10
1.3
Tiếng Việt 282
36.8
308
40.2
173
22.6
3
0.4
Toán
Nhìn vào bảng tổng hợp có thể nhận thấy, số học sinh trung bình còn nhiều, số học
sinh giỏi, khá chưa cao, chưa xứng tầm là trường nằm ở thị trấn, trung tâm huyện, còn
nhiều học sinh yếu.
Tóm lại, là trường có quy mô lớn trong huyện, đội ngũ giáo viên tương đối đồng
đều, trong đó tỉ lệ giáo viên trên chuẩn cao thì kết quả các mặt giáo dục của trường cần
phải được nâng cao hơn nữa để xứng tầm với vị thế là trường nằm tại trung tâm huyện và
theo được yêu cầu ngày càng phát triển của xã hội.
5
1.1.2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Bất kể một phương pháp dù hay đến đâu rồi cũng sẽ bị lỗi thời, cũng không phù
hợp với hiện tại vì xã hội luôn biến đổi không ngừng. Mặc dù trường Tiểu học Thị trấn
Lương Bằng luôn được đánh giá là trường có chất lượng giáo dục tương đối tốt, song nếu
không thay đổi sớm muộn mọi hoạt động cũng sẽ bị trì trệ.
Đề tài của tôi nhằm nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng soạngiảng ở trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng, nhằm nâng cao chất lượng dạy - học.
Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp nâng cao chất lượng soạn-giảng ở trường Tiểu học Thị trấn
Lương Bằng.
Giải pháp mới có những ý nghĩa như sau:
- Kế thừa những biện pháp quản lý trước đó song có sự thay đổi để phù hợp với
tình hình hiện tại.
- Khắc phục được một số tồn tại của giải pháp trước đó.
- Mọi thành viên trong nhà trường đều phải vận động, thay đổi cách làm việc của
mình, khắc phục được thói quen ngại thay đổi.
- Học sinh được quan tâm hơn, được lảm chủ quá trình học tập vì thế mà chất lượng
học sinh nâng lên rõ rệt.
Tóm lại, việc tìm ra biện pháp quản lý chất lượng soạn-giảng mới là việc làm cần
thiết tại nhà trường. Và các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng soạn-giảng tại
trường mà tôi sắp nêu ra đã đáp ứng được yêu cầu đó.
1.1.3. Phạm vi và khách thể nghiên cứu:
- Giáo viên và học sinh trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng - Kim Động - Hưng
Yên.
- Vì điều kiện thời gian không cho phép nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc sử
dụng các biện pháp để nâng cao chất lượng soạn - giảng nhằm giữ vững chất lượng đại
trà trong năm học.
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
1.2.1. Cơ sở lí luận:
Quá trình dạy học bao gồm hệ thống những tác động từ phía người dạy (giáo viên)
đến người học (học sinh), nhằm làm cho học sinh tích cực và chiếm lĩnh tri thức, hình
6
thành những phẩm chất nhân cách và năng lực phù hợp với nhu cầu ngày một cao của xã
hội hiện đại.
Thiết kế nội dung dạy học (Soạn giáo án) và cách thức dạy học là một khâu đột phá
quan trọng để đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy. Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên bao giờ cũng dành một thời gian thích
đáng để thiết kế bài. Muốn dạy học có kết quả cần thiết kế chu đáo bài học. Khi thiết kế
bài học cần chú trọng đến nhiều khía cạnh tác động đến quá trình dạy học như: Đặc điểm
lứa tuổi học sinh, nhu cầu, hứng thú, các phương tiện kỹ thuật đồ dùng trực quan, cơ sở
vật chất trường lớp... Từ đó có định hướng rõ rệt để xác định những tiêu chí cụ thể cần
đạt cũng như cách thức (sự lựa chọn phương pháp phù hợp) để đạt được mục tiêu bài dạy.
Kết quả một giờ dạy không những phụ thuộc khá nhiều vào sự chuẩn bị bài dạy mà
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác nhau cũng như yếu tố chủ quan không
thể tránh khỏi. Đó là năng lực sư phạm, sự tự tin, tính sáng tạo trong xử lý các tình huống
sư phạm...
Trong một vài năm trở lại đây xu hướng đổi mới công tác soạn giảng ngày càng trở
nên cấp thiết. Một trở ngại không nhỏ cản trở quá trình đổi mới việc soạn giáo án và thực
thi giờ dạy trên lớp là do thói quen ngại đổi mới của một bộ phận không nhỏ giáo viên.
Thực tế cho thấy nhiều giáo viên muốn giữ nề nếp soạn giáo án theo cách truyền thống
mà ở đó giáo án chỉ là sự ghi chép lại nội dung đã có ở sách giáo khoa mà không đưa ra
các phương pháp dạy học thích ứng với từng giai đoạn học tập của học sinh. Sự lựa chọn
phương pháp giảng dạy cũng gặp nhiều khó khăn do thói quen dễ dãi trong soạn giảng,
trình độ giáo viên còn nhiều bất cập. Hiện tượng thầy giảng trò nghe, vẫn là hiện tượng
phổ biến, từ đó chất lượng giờ giảng cho hiệu quả thấp, không gây được hứng thú cũng
như óc sáng tạo, tích cực hoạt động của trò.
Từ những thực tế nêu trên đã đặt ra nhiệm vụ tìm ra những giải pháp nào để nâng
cao chất lượng Thiết kế kế hoạch bài giảng và giờ dạy là vấn đề cấp bách phải giải quyết,
giúp cho anh chị em giáo viên ở trường Tiểu học đổi mới tư duy vào việc làm trong công
tác soạn giảng của mình đem lại hiệu quả thiết thực phù hợp với trình độ nhận thức của
tập thể giáo viên trong đơn vị nhằm từng bước nâng cao hiệu quả giáo dục. Xuất phát từ
lý do trên, tôi chọn đề tài Một số biện pháp nâng cao chất lượng soạn giảng ở trường tiểu
học Thị trấn Lương Bằng - Kim Động - Hưng Yên để nghiên cứu, áp dụng vào công tác
quản lý của đơn vị, mong góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục ở địa phương.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn:
Trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng được tách ra từ trường Phổ thông cơ sở
Lương Bằng từ năm 1989. Trải qua 25 năm xây dựng và phát triển, kế thừa và phát huy
7
truyền thống của trường Phổ thông cơ sở Lương Bằng, đã đạt được nhiều thành tích đáng
khích lệ. Những năm gần đây trường liên tục được công nhận là Tập thể lao động Xuất
sắc. Năm học 2003 - 2004, trường được công nhận là trường Chuẩn Quốc gia giai đoạn
1996 - 2000. Năm học 2009 - 2010, được Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên tặng cờ cho
đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua ngành Giáo dục.
Học sinh của trường phần lớn là con em nông dân, sống tại thị trấn nên mặt bằng
dân trí tương đối cao, phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình. Kinh tế
của địa phương tương đối phát triển nên đời sống nhân dân tương đối ổn định. Song, bên
cạnh đó, vẫn còn nhiều gia đình do đi làm ăn xa, nhiều gia đình là hộ nghèo, điều đó ảnh
hưởng không nhỏ tới sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng.
Quy mô nhà trường vào loại lớn so với các đơn vị bạn. Với tổng số cán bộ giáo
viên, nhân viên trong năm học 2012 - 2013 là 45 người, trong đó:
- Cán bộ quản lý:
02 người (02 nữ).
- Nhân viên hành chính:
03 người (03 nữ).
- Giáo viên và Tổng phụ trách Đội: 40 người (có 1 giáo viên Tổng phụ trách Đội, 2
giáo viên Hát nhạc, 2 giáo viên Mỹ thuật, 2 giáo viên Tiếng Anh, 1 giáo viên thể dục còn
lại là giáo viên văn hóa).
Trong đó:
- Trình độ Đại học:
14
- Trình độ Cao đẳng:
14
- Còn lại 100% đạt trình độ trung cấp sư phạm.
* Kết quả thi đua năm học 2011 - 2012 như sau:
- Chiến sỹ thi đua cơ sở:
- Lao động Tiên tiến:
03
36
Năm học 2012 – 2013, trường có 25 lớp với 779 học sinh trong đó 362 học sinh nữ.
Nhìn chung điều kiện học tập của học sinh khá tốt, chỉ có một bộ phận nhỏ còn gặp khó
khăn do phụ huynh chưa quan tâm đúng mức vì nhà nghèo. Tuy vậy đa số học sinh ngoan
ngoãn, lễ phép có ý thức học tập.
Với tình hình như trên, nhà trường đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: Đó
là làm như thế nào để đưa chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng đi lên, xứng tầm
là trường có quy mô và chất lượng đứng trong tốp đầu của huyện, đáp ứng yêu cầu của xã
8
hội. Để làm được điều đó thì một trong những việc làm hết sức quan trọng của giáo là
việc soạn giảng.
Tóm lại, qua kiểm tra hồ sơ giáo án và dự giờ giáo viên, theo dõi xếp loại hai mặt
giáo dục, tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng soạn-giảng
ở trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng - Kim Động - Hưng Yên”.
1.2.3. Các biện pháp tiến hành và thời gian tạo ra giải pháp
Để giải quyết các nhiệm vụ vừa nêu ở trên, tôi đã sử dụng đồng bộ các phương
pháp:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan tới quản lý việc soạn - giảng ở trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng.
Phương pháp điều tra: + Điều tra về giáo viên.
+ Điều tra về học sinh.
+ Dựa vào kết quả kiểm tra hồ sơ - giáo án giáo viên của
năm trước đề ra kế hoạch cho năm học này.
Phương pháp thực nghiệm: Áp dụng những lý luận về quản lý dạy và học vào
việc quản lý soạn - giảng của giáo viên trong trường.
Phương pháp quan sát và thống kê: Dự giờ dạy của giáo viên và kiểm tra chất
lượng học tập của học sinh qua các bài kiểm tra. Xử lý các số liệu và kết quả thu được
trong quá trình nghiên cứu.
Thời gian tiến hành:
- Thời gian nghiên cứu: Năm học 2011 - 2012
- Thời gian áp dụng: Năm học 2012 - 2013
- Thời điểm báo cáo: Năm học 2013 - 2014
9
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Mục tiêu
Nhiệm vụ của đề tài là:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của các biện pháp quản lí soạn-giảng và dạy
học.
- Áp dụng các biện pháp đó vào việc dạy và học ở trường.
- Nêu ra một số kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Căn cứ đề xuất biện pháp:
- Căn cứ Luật giáo dục được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI,
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005;
- Căn cứ vào Điều lệ trường tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 41/2010/QĐBGD&ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT;
- Căn cứ Quyết định số 3859/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về triển
khai thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong giáo dục”;
- Căn cứ Nhiệm vụ năm học 2012 - 2013 của trường Tiểu học Thị trấn Lương
Bằng.
2.2. Mô tả các biện pháp chỉ đạo về chuyên môn nhằm nâng cao chất lƣợng soạngiảng ở trƣờng Tiểu học Thị trấn Lƣơng Bằng
2.2.1. Các biện pháp chỉ đạo về chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng soạn-giảng:
Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà
trường cho thấy: 100% giáo viên đều có nhận thức rõ về vị trí, tầm quan trọng của việc
soạn giảng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy nhiên qua thực tiễn của nhà
trường việc soạn, giảng còn có những hạn chế nhất định, chưa đạt kết quả như mong
muốn của các nhà quản lý. Trước những yêu cầu đổi mới công tác quản lý giáo dục hiện
nay, nâng cao chất lượng soạn giảng là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác chỉ đạo
của ban giám hiệu hà trường.
Là một cán bộ quản lý đang công tác tại trường tiều học, với thời gian trực tiếp
giảng dạy 9 năm (trong đó làm tổ trưởng chuyên môn 5 năm), 10 năm làm phó hiệu
trưởng. Qua học tập, nghiên cứu lý luận bằng kinh nghiệm trong thực tế công tác, tôi xin
10
mạnh dạn đề xuất 6 biện pháp nhằm cải tiến công tác soạn giảng nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục ở Trường Tiểu học Thị trấn Lương Bằng.
2.2.1.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng GV về công tác chuyên môn nghiệp vụ:
Đảm bảo giáo viên có đủ năng lực, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng để có thể
dạy tốt được các môn học của lớp mình phụ trách.
Nhằm vận dụng linh hoạt các phương pháp vào giảng dạy để học sinh hứng thú học
tập, khơi dậy sự sáng tạo, kích thích tính tư duy của các em nhằm làm cho mỗi tiết học
Tự nhiên- nhẹ nhàng- hiệu quả.
- Giáo viên tự bồi dưỡng bằng cách tự học, tự tìm hiểu chương trình bồi dưỡng. Tự
nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, bài soạn, tập san, sách tham khảo để nắm
chắc chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn: nội dung sinh hoạt phải cụ thể, thiết thực
như tổ chức chuyên đề hội thảo, hội giảng, thống nhất phương án lên lớp, nội dung giảng
dạy với các tiết học khó, nhiều tình huống xử lý hoặc thảo luận, trao đổi cách sử dụng đồ
dùng dạy học-làm đồ dùng dạy học, nghiên cứu văn bản chỉ đạo chuyên môn, tài liệu bồi
dưỡng thường xuyên, tài liệu tham khảo.
- Tham gia đầy đủ, ghi chép cẩn thận các buổi chuyên đề do huyện, trường tổ chức.
- Dự giờ thường xuyên. Khi dự giờ, giáo viên phải ghi chép cẩn thận. Qua mỗi tiết
dự, giáo viên phải rút ra được những gì là ưu điểm, nhược điểm của tiết dạy để từ đó chỉ
ra cho người dạy biết và học tập được những gì từ tiết dạy đó.
- Tháng 10 và tháng 2 tổ chức hội giảng, tháng 11 thi Giáo viên dạy giỏi cấp trường
để chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường. Mỗi giáo viên dạy hai tiết Toán hoặc Tiếng Việt
và một môn khác. Mỗi tiết dạy, giáo viên cần áp dụng linh hoạt các phương pháp, các
hình thức tổ chức dạy học nhằm làm cho tiết học Thân thiện - nhẹ nhàng - hiệu quả;
khuyến khích dùng bài giảng điện tử áp dụng CNTT trong dạy học. Chọn giáo viên các
lớp để tham gia hội giảng huyện.
- Mỗi giáo viên luôn luôn tự học hỏi qua đồng nghiệp, sách báo để nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ. Những vấn đề nào hiểu chưa rõ, chưa minh bạch cần phải được đưa ra
buổi họp để bàn bạc, thống nhất chung.
2.2.1.2. Biện pháp 2: Học tập và thực hiện đầy đủ nề nếp chuyên môn:
- Đầu năm BGH tổ chức cho giáo viên học tập, nghiên cứu lại công văn của Phòng
Giáo dục - Đào tạo về việc hướng dẫn nhiệm vụ năm học để giáo viên nắm chắc, từ đó
triển khai đến tất cả học sinh.
11
- BGH thường xuyên kiểm tra về nề nếp giảng dạy, học tập của các lớp qua việc
kiểm tra chuyên đề, hồ sơ sổ sách, dự giờ theo các hình thức: kiểm tra có báo trước và
kiểm tra đột xuất, kiểm tra toàn diện.
- Ra vào lớp đúng giờ theo quy định của nhà trường và theo sự điều hành của giáo
viên trực ban.
2.2.1.3. Biện pháp 3: Đổi mới công tác chỉ đạo dạy và học:
* Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và đổi mới phương pháp:
Giáo viên dạy: “Đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình tiểu học”
đồng thời phụ đạo tốt học sinh yếu đạt chuẩn, phát hiện học sinh năng khiếu bồi dưỡng
các em tham gia hội thi các cấp.
Chỉ đạo cho giáo viên nghiên cứu chuẩn kiến thức, kĩ năng chương trình tiểu học,
nắm vững tài liệu hướng dẫn dạy học theo chuẩn và bộ tài liệu phương pháp dạy học các
môn học của Bộ giáo dục.
Thực hiện tốt dạy đúng đối tượng và đúng trọng tâm bài dạy.
Lồng ghép giáo dục: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, vệ sinh
môi trường, vệ sinh cá nhân…
* Thiết kế bài soạn.
- Thiết kế bài soạn đúng theo đăng kí giảng dạy, ký duyệt trước 1 tuần.
- Nội dung thiết kế phải đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng và thể hiện rõ hoạt động
của thầy và trò; phần cho học sinh yếu; học sinh khá giỏi.
- Khi soạn nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, nội dung SGK, chuẩn kiến thức kĩ
năng.
- Thiết kế bài soạn xúc tích, đảm bảo kiến thức, đủ các bước lên lớp, thể hiện rõ
việc làm của thầy và trò, soạn theo hoạt động, có đủ mục tiêu và chốt nội dung trọng tâm,
nếu bổ sung thì cũng bổ sung theo dạng các hoạt động. Giáo viên phải soạn theo từng
nhóm đối tượng học sinh lớp mình phụ trách, chú ý đến mọi đối tượng. Giáo án buổi hai
phải đầy đủ.
- Trình bày bài soạn sạch đẹp, rõ ràng, khoa học.
- BGH, tổ chuyên môn thường xuyên theo dõi góp ý.
* Dạy học trên lớp:
- Dạy học các tiết trong ngày theo đúng trình tự thời khoá biểu và phân phối
chương trình.
12
- Đảm bảo thời lượng của mỗi tiết học và những kiến thức cần truyền đạt cho học
sinh. Sau mỗi tiết học, học sinh phải nắm bắt được kiến thức cơ bản đã nêu ở phần mục
tiêu.
- Trong giờ lên lớp giáo viên phải chủ động phối hợp linh hoạt các phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học và rèn luyện kĩ năng của học sinh.
- Dạy học phải quan tâm đến các đối tượng học sinh, sử dụng đồ dùng dạy học một
cách thường xuyên, linh hoạt. Luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học và hướng tập
trung vào học sinh giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính sáng tạo, tích cực, chủ
động trong mỗi học sinh.
- Ra vào lớp đúng giờ, không làm việc riêng trên lớp, không sử dụng ĐTDĐ trong
giờ dạy.
* Chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch giảng dạy hàng tuần.
Tổ, khối chuyên môn ở trường Tiểu học là đơn vị trực tiếp quản lý hoạt động
chuyên môn của mỗi thành viên trong khối. Để tiện cho việc chỉ đạo chuyên môn của tổ
trưởng nhà trường đã biên chế tổ chuyên môn. Việc chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch
giảng dạy được triển khai trược tiếp từ ban giám hiệu tới tổ trưởng tổ chuyên môn. Trong
quản lý chỉ đạo xây dựng kế hoạch giảng dạy một mặt phải phát huy vai trò tự chủ sáng
tạo của tổ đồng thời phải chỉ đạo sát sao theo kế hoạch chung của toàn trường. Căn cứ để
xây dựng kế hoạch giảng dạy là phân phối chương trình và thời khoá biểu hàng ngày
trong tuần. Bên cạnh đó là các hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường hoặc các nội
dung khác do phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo như kế hoạch bồi dưỡng, chuyên đề,
hội thảo, bồi dưỡng sử dụng đồ dùng dạy học... Từ đó các tổ chuyên môn sẽ bàn bạc và
xây dựng kế hoạch lên lớp hàng ngày sao cho đúng chương trình và thời khoá biểu, đồng
thời vạch kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy học cho từng tiết học căn cứ vào danh mục đồ
dùng dạy học hàng tuần do cán bộ thiết bị trường lập. Những vấn đề đó (sau khi lập xong
kế hoạch) được Ban giám hiệu ký duyệt trước một tuần và các thành viên trong tổ thực
hiện. Đó chính là sơ sở pháp lý để kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch bài học một
cách chính xác, đảm bảo tính hệ thống kiến thức, đảm bảo mục tiêu từng bài học, tìm ra
những phương pháp giảng dạy thích hợp cho từng nội dung bài học, có tính định hướng
trước cho học sinh chuẩn bị học tập.
2.2.1.4. Biện pháp 4: Biện pháp chỉ đạo công tác soạn bài để nâng cao chất lượng
giảng dạy.
* Nghiên cứu và xác định mục tiêu bài giảng.
13
Tổ chuyên môn được giao nhiệm vụ nghiên cứu, vạch kế hoạch bàn bạc thống nhất
cách xác định mục tiêu cho các môn học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh và đảm
bảo sát với yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức và kỹ năng chung do bộ giáo dục ban
hành. Trước hết các tổ chuyên môn sinh hoạt ít nhất 2 lần/ tháng, ở đó tài liệu về yêu cầu
cơ bản về chuẩn kiến thức và kỹ năng của các môn học được triển khai đến từng thành
viên, các cuộc họp này bao giờ cũng có đại diện ban giám hiệu dự để có ý kiến chỉ đạo cụ
thể và kịp thời. Từ đó giúp giáo viên điều chỉnh lại mục tiêu trong sách giáo viên để phù
hợp với tình hình học sinh trong lớp mình và đảm bảo yêu cầu cơ bản tối thiểu so với mặt
bằng chung. Có thể lấy ví dụ như sau: Một số bài chính tả so sánh phân biệt các phụ âm
n/l ở địa phương học sinh thường không mắc lỗi thì đồng thời chỉnh cả nội dung và mục
tiêu để dạy cho học sinh những cặp phụ âm hay mắc lỗi hơn như tr/ch, s/x... ( hay gặp ở
lớp 4,5).
* Một số quy định và thống nhất khi trình bày bài soạn:
+ Một số quy định về việc soạn giáo án điện tử.
Những giáo viên được nhà trường cho phép soạn giáo án điện tử cần phải đạt được
một số yêu cầu sau:
- Giáo viên đã dạy ít nhất 3 năm học liên tục trở lên.
- Đã thành thạo về vi tính, bản thân gia đình đã có máy vi tính, máy in.
- Trong năm học trước bản thân tự soạn và dạy 3 bài giảng điện tử trở lên.
- Có năng lực và chuyên môn vững vàng.
+ Thống nhất cách trình bày bài soạn.
Thống nhất về nội dung và hình thức thể hiện các loại bài soạn. Với những giáo
viên khá giỏi, dạy lâu năm thì yêu cầu bài soạn khác với những giáo viên mới ra trường.
Hình thức trình bày bài soạn phải phù hợp với nội dung bài dạy. Từ đầu năm học nhà
trường phân công một số giáo viên có kinh nghiệm như tổ trưởng chuyên môn, giáo viên
dạy giỏi tham gia vào việc xây dựng cấu trúc bài soạn cho từng môn học. Sau đó đưa ra
lấy ý kiến tham khảo rộng rãi và thống nhất chung, in thành tài liệu phát cho từng giáo
viên để thực hiện. Nhờ đó mọi bài soạn của giáo viên trong trường đều theo một cấu trúc
thống nhất, chất lượng bài soạn được nâng lên một bước góp phần vào nâng cao chất
lượng dạy học.
+ Kiểm tra việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên.
Kiểm tra việc thống nhất cách soạn của từng môn học ở từng khối lớp. Các dạng
bài soạn giờ ôn tập, kiểm tra, thực hành. Yêu cầu về giáo án của giáo viên mới ra trường,
14
của giáo viên giỏi, của giáo viên cần cố gắng. Chọn câu hỏi phát vấn, xác định kiến thức
trọng tâm của bài cần khắc sâu, rèn kỹ năng gì? Và đồ dùng dạy học phải chuẩn bị.
Để quản lý tốt việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên, Ban giám đã
chọn các hình thức kiểm tra:
- Kiểm tra đột xuất.
- Kiểm tra trước giờ lên lớp.
- Kiểm tra sau dự giờ.
- Kiểm tra định kỳ cùng tổ trưởng chuyên môn.
- Kiểm tra chéo trong buổi sinh hoạt chuyên môn.
- Kiểm tra đồ dùng trực quan cho giờ dạy.
- Trang thiết bị cho giờ dạy.
- Giờ học ngoài trời (Địa điểm học, kế hoạch quản lý học sinh).
2.2.1.5. Biện pháp 5: Các biện pháp tổ chức chỉ đạo nâng cao chất lượng giờ dạy.
* Xây dựng các giờ dạy mẫu.
Ban giám hiệu chỉ đạo giáo viên cốt cán, thông thường là tổ trưởng tổ chuyên môn,
giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh cùng xây dựng các giờ dạy có chất lượng, làm mẫu cho giáo
viên dự giờ. Tiến hành rút kinh nghiệm, đánh giá những mặt tích cực về phương pháp
dạy học, về nội dung và phong thái của giáo viên. Từ những giờ dạy mẫu này, sau khi đã
thử nghiệm thì tiến hành nhân rộng ra toàn khối, toàn trường. Việc xây dựng giờ dạy mẫu
được tiến hành công phu, từ việc chọn bài dạy, tổ chức thiết kế bài soạn, cân nhắc
phương pháp giảng dạy nào phù hợp với từng giai đoạn nào, cách sử dụng đồ dùng trực
quan... Có như vậy giờ dạy mẫu mới thành công và đem lại hiệu quả khi triển khai đại
trà.
* Tăng cường dự giờ thăm lớp, bồi dưỡng giúp đỡ giáo viên.
Để nâng cao chất lượng giờ dạy một công việc quan trọng của nhà trường là tăng
cường công tác thanh kiểm tra chuyên môn. Trong đó dự giờ thường xuyên các đối tượng
giáo viên đặc biệt là những giáo viên yếu tay nghề là công việc có ý nghĩa quyết định.
Việc dự giờ được tiến hành theo kế hoạch hàng tháng, hàng tuần một cách thường xuyên
sẽ giúp giáo viên đứng lớp trước hết có tâm thế vững vàng, bởi không ít giáo viên khi có
người dự thì dễ bị lúng túng, quan trọng hơn là giúp giáo viên có ý thức chuẩn bị bài tốt
hơn, tự tin và có cố gắng hơn trong việc áp dụng các phương pháp mới tích cực hơn hoạt
15
động của học sinh. Vì sau dự giờ đều có rút kinh nghiệm chỉ rõ nhược điểm để khắc phục
sửa chữa.
* Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
Việc đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo điều kiện ghế ngồi, ánh sáng... cho học sinh
góp phần quan trọng không nhỏ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và từng
bài học nói riêng. Từ năm học 2003-2004 nhà trường đã có 19/20 phòng học đạt quy cách
về diện tích, ánh sáng. Đến năm học 2012-2013, 24/24 tức 100% phòng học đạt quy cách
về bàn ghế, diện tích và ánh sáng. Nhờ đó việc triển khai học nhóm, học cá nhân trong
các giờ dạy rất thuận lợi góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Bên cạnh đó, năm học 2011-2012, trường cũng đã mua sắm thêm thiết bị đồ dùng
dạy học (máy tính, đầu chiếu đa năng). Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong từng tiết
học được chỉ đạo sát sao. Trước hết cần sử dụng có hiệu quả đồ dùng sẵn có, hàng tuần
nhân viên thiết bị đều có thông báo rõ ràng môn tiết, tên đồ dùng để giáo viên nắm được
và có kế hoạch mượn để sử dụng. Mặt khác mỗi giáo viên đều có từ một đến hai đồ dùng
tự làm có giá trị đóng góp vào kho đồ dùng để dùng chung. Nhà trường kiểm tra định kỳ
và đột xuất việc sử dụng đồ dùng trên lớp. Bên cạnh đó các lớp học được trang bị đầy đủ
mỗi lớp một tủ tường để giáo viên để đồ dùng dạy học, theo phương châm Dễ tìm, dễ
thấy và dễ lấy để sử dụng hiệu quả nhất.
* Tổ chức các phong trào thi đua, phát huy vai trò của các đoàn thể trong việc
nâng cao chất lượng dạy học.
Công đoàn và Đoàn thanh niên có vai trò rất lớn trong việc động viên các đoàn viên
của mình tham gia xây dựng tập thể và nâng cao chất lượng chuyên môn. Thông qua các
đợt thi đua, nhà trường phối hợp với Công đoàn – Chi đoàn tạo ra những đợt thi đua sôi
nổi, tạo không khí phấn khởi hào hứng trong cán bộ giáo viên, qua đó ý thức chuẩn bị bài
dạy, ý thức trách nhiệm trong giờ dạy được nâng lên rõ rệt đã có tác động to lớn đến chất
lượng chuyên môn nói chung và chất lượng từng giờ dạy nói riêng. Tiếng nói chung của
tập thể bao giờ cũng lôi cuốn được mọi người tham gia khi đó trở thành phong trào tốt thì
hiệu quả là rất lớn.
* Tổ chức hội giảng - chuyên đề:
- Hội giảng gắn với chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học ở các môn.
- Trong năm tổ chức 3 đợt hội giảng là 20/10; Hội giảng Mùa xuân và 26/3 đồng thời
tổ chức một đợt thi Giáo viên dạy giỏi cấp trường để chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường.
trong mội đợt, mỗi giáo viên dạy hai tiết Toán hoặc Tiếng Việt và một môn khác. Mỗi
tiết dạy, giáo viên cần áp dụng linh hoạt các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học
16
nhằm làm cho tiết học"Tự nhiên - thân thiện - nhẹ nhàng - hiệu quả ”; khuyến khích
dùng bài giảng điện tử áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Chọn giáo viên các
lớp tham gia hội giảng huyện. Phấn đấu có 2 đến 4 giáo viên đạt danh hiệu Giáo viên dạy
giỏi cấp huyện.
- Mỗi tháng mỗi tổ chuyên môn sẽ tổ chức ít nhất 1 chuyên đề. Trong năm học trường
sẽ tổ chức 5 đến 7 chuyên đề có chất lượng.
2.2.1.6. Biện pháp 6: Các biện pháp tổ chức công tác kiểm tra, thanh tra.
* Tăng cường kiểm tra để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.
- Mục tiêu đào tạo và giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh nắm vững
kỹ năng đọc, viết, tính toán, có hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội, con người.
- Trong phạm trù giáo dục thì giáo dục trí tuệ là khâu quan trọng nhất. Nó bao gồm
việc tiếp thu tri thức và hình thành thế giới quan khoa học, phát triển các năng lực nhận
thức sáng tạo. Trong nhà trường hoạt động dạy và học là con đường quan trọng nhất để
giáo dục trí tuệ.
- Hoạt động dạy và học tô đậm chức năng xã hội của nhà trường đặc trưng cho
nhiệm vụ của nhà trường và là hoạt động trung tâm, là cơ cở khoa học của các hoạt động
giáo dục khác. Nhiệm vụ của hoạt động dạy và học là làm cho học sinh nắm vững tri thức
khoa học một cách cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo trong học tập, lao động, trong cuộc
sống. Phát triển trí tuệ học sinh trong quá trình nắm tri thức trước hết là phải phát triển tư
duy, độc lập sáng tạo, hình thành năng lực nhận thức và hành động của học sinh.
Để xem kết quả giảng dạy của giáo viên thì kiểm tra là khâu đặc biệt quan trọng.
* Mục đ ch của kiểm tra:
Kiểm tra việc thực hiện chương trình nhằm giúp giáo viên:
- Thực hiện đúng, đủ chương trình của từng môn học, ở từng khối lớp.
- Đảm bảo truyền thụ đủ, đúng nội dung kiến thức, kĩ năng cơ bản của từng môn
học ở từng khối lớp của từng dạng bài.
- Có hình thức tổ chức dạy học phù hợp cho từng môn học của từng khối lớp .
- Giúp giáo viên nắm vững chương trình của từng môn họ của từng khối lớp mà
mình phụ trách.
Để giáo viên thực hiện tốt chương trình tôi cùng Ban giám hiệu đã giúp giáo viên
lập kế hoạch thực hiện chương trình thông qua tổ nhóm chuyên môn.
* Kế hoạch kiểm tra cụ thể:
17
- Kiểm tra kế hoạch giảng dạy 1 tuần một lần, trước buổi sinh hoạt chuyên môn,
Ban giám hiệu kiểm tra việc lên kế hoạch giảng dạy của khối trưởng có đúng với kế
hoạch giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định và chỉ đạo của Phòng Giáo dục và
Đào tạo không, sau đó mới cho phổ biến ở tổ.
- Dự các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn: Phân công để trong một tháng, sinh hoạt
của một tổ chuyên môn có một đại diện Ban giám hiệu dự, cùng xây dựng và giải quyết
những vấn đề còn mắc trong chuyên môn của khối.
- Dự giờ thăm lớp: Để chọn giáo viên dạy giỏi các cấp, để kiểm tra việc triển khai
chuyên đề, để Thanh tra theo định kì và bồi dưỡng nâng cao khả năng, nghệ thuật giảng
dạy cho giáo viên dưới 2 hình thức: Báo trước và đột xuất.
* Kiểm tra giờ dạy trên lớp.
Qua kiểm tra giờ lên lớp của giáo viên Ban giám hiệu nắm được khả năng tổ chức
điều khiển học sinh học tập, truyền thụ kiến thức, phương pháp dạy và học phù với từng
đối tượng của lớp, việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. việc rèn kỹ năng và
hướng dẫn học sinh phương pháp học tập từng bộ môn, cách học ở nhà, cách học ở lớp
của từng giáo viên.
Ban giám hiệu đã vận dụng nhiều hình thức dự giờ khác nhau:
- Dự giờ các giáo viên khác nhau để kiểm tra chất lượng giảng dạy, học tập của
từng giáo viên trong lớp cụ thể.
- Dự giờ các giáo viên cùng một môn ở các lớp khác nhau để so sánh trình độ của
họ, rút ra ưu nhược điểm chính của mỗi người, phát hiện ra những vấn đề cần điều chỉnh
trong phương pháp dạy và học môn đó.
- Dự giờ theo chuyên đề nắm chắc trình độ của một giáo viên hay một lớp học sinh
nhằm rút kinh nghiệm về một nội dung cần tập trung giải quyết.
Ban giám hiệu đã thống nhất những việc cần làm khi dự giờ được tiến hành theo
một quy trình thống nhất: Chuẩn bị - Dự giờ - Phân tích trao đổi - Đánh giá- Kiến nghị .
- Chuẩn bị: Lập kế hoạch dự giờ, xác định vị trí của bài học trong chương trình,
mục đích của bài giảng và dự kiến hoạt động của thầy và trò. Dự kiến nội dung cần quan
sát và ước định những tiêu chuẩn đánh giá giờ dự.
- Dự giờ: Quan sát diễn biến thực tế của bài lên lớp, thu thập thông tin phục vụ cho
mục đích dự giờ.
18
Quá trình quan sát này thực hiện theo tiến trình các tình huống dạy và học, theo các
tuyến Thầy - Trò - Thiết bị dạy học và phản ánh các sự kiện chính của quá trình lên lớp
cùng những nhận xét tức thời về các sự kiện đó.
- Phân tích - trao đổi: Phân tích những thông tin có được từ giai đoạn dự giờ trên cơ
sở trình độ tư duy sư phạm của từng thành viên trong Ban giám hiệu. Phân tích giờ học
không đơn giản là sắp xếp lại các nhận xét vụn vặt về giờ học mà phải khái quát hoá sư
phạm nâng những nhận xét này thành nhận định tổng quát hơn và nêu lên những lý lẽ của
những nhận định đó bằng cách xác định tất cả các mối liên hệ của những hiện tượng quan
sát được với các căn cứ khoa học của tâm lý học và giáo dục học.
Công tác tổ chức giờ học xem việc chuẩn bị nề nếp lớp, không khí sư phạm, phân
phối thời gian.
- Nội dung của giờ học: Tính khoa học, tính giáo dục, trọng tâm của bài học.
- Phương pháp dạy học: Có phù hợp giữa nội dung dạy học và phương pháp dạy
học, việc phát huy tính tích cực độc lập sáng tạo cho học sinh.
Đánh giá kết quả giờ học (mức độ đạt so với mục đích bài giảng) và chỉ ra đặc điểm
lao động của người dạy tổ chức hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh. Trình độ kiến
thức khả năng giảng dạy, tinh thần trách nhiệm cũng như lao động học tập của học sinh
(kiến thức và kỹ năng, năng lực nhận thức, thái độ học tập).
Trong mỗi năm học giáo viên phải được kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra theo
chuyên đề ít nhất một lần. Đối với giáo viên dạy yếu kém hoặc giáo viên mới ra trường
cần kiểm tra giờ lên lớp nhiều hơn. Khi kiểm tra Ban giám hiệu phải nói rõ được mục
đích của việc dự kiểm tra và người được kiểm tra. Đồng thời khi kiểm tra người cán bộ
quản lý cần có thái độ đúng mực. Sau khi kiểm tra có nhận xét đánh giá và giúp giáo viên
khắc phục những tồn tại.
Ngoài việc kiểm tra giờ lên lớp kiểm tra khảo sát theo định kỳ cũng rất quan trọng,
đánh giá chất lượng dạy của giáo viên qua kết quả học tập của học sinh. Khi kiểm tra
khảo sát chất lượng nên tổ chức cho giáo viên trông chéo lớp, chấm điểm tại trường, và
chấm chéo. Sau khi kiểm tra có nhận xét học sinh còn yếu về bộ môn nào? Toán yếu về
thực hiện phép tính hay đọc viết số về giải dãy tính , tìm X, toán có lời văn.
Tiếng Việt: Còn yếu về Luyện từ và câu hay Tập làm văn. Sau đó ban giám hiệu
kiểm tra lại xem việc cho điểm của giáo viên đã chính xác chưa .
Qua kiểm tra sẽ đánh giá đúng chất lượng của từng lớp, có nhận xét trong hội đồng
sư phạm nhà trường.
* Kiểm tra hoạt động tổ chuyên môn.
19
Nội dung kiểm tra gồm:
*Kiểm tra tổ trưởng:
- Nhận thức về vai trò của tổ chuyên môn, của tổ trưởng chuyên môn.
- Nhận định của tổ trưởng về từng tổ viên.
* Kiểm tra hồ sơ chuyên môn:
- Các kế hoạch năm học của tổ nhóm cá nhân.
- Các loại sổ biên bản sinh hoạt.
- Các kết quả điều tra cơ bản về học sinh và giáo viên.
* Nề nếp sinh hoạt tổ:
- Thông qua bài, nộp bài soạn.
- Thông báo việc thực hiện chương trình.
- Khối lượng dự giờ, việc chữa bài cho học sinh.
* Bồi dưỡng nghiệp vụ:
- Thực hiện cấc chuyên đề của nhà trường.
- Chuyên đề rút kinh nghiệm của tổ nhóm.
* Chỉ đạo phong trào học tập:
- Bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Phụ đạo học sinh kém.
- Theo dõi học sinh yếu kém.
* Chất lượng dạy học:
- Trình độ kiến thức nghiệp vụ của tổ viên.
- Chất lượng học tập của tổ viên.
Ban giám hiệu thống nhất hình thức kiểm tra:
- Dự sinh hoạt tổ xem việc thống nhất nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn .
- Trao đổi, phỏng vấn tổ trưởng, giáo viên.
- Xem xét hồ sơ thi đua, chú ý tính hệ thống và tính thống nhất của tài liệu.
- Xem giáo án sổ điểm lớp.
- Nghe báo cáo, dự các buổi rút kinh nghiệm dự giờ.
20
- Xem thêm -