Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp dạy nghĩa của từ và các hợp từ có quan hệ...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp dạy nghĩa của từ và các hợp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5

.DOC
34
113
87

Mô tả:

Phßng gd& ®t huyÖn §«ng TriÒu TrƯêng tiÓu häc quyÕt th¾ng ===***=== Sáng kiến kinh nghiệm: "Một số biện pháp dạy nghĩa của từ và các hợp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5" Họ và tên: Nguyễn Thị Hoan Chức vụ: Giáo viên Tiểu học Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng 1 Năm học: 2014-2015 I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Tầm quan trọng của vấn đề cần được nghiên cứu : Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ” cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp, hình tượng 2 nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ. Vì thế ở trường tiểu học, Tiếng Việt và văn học được tích hợp với nhau, văn học giúp HS có thẩm mĩ lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng nên hiểu được các văn bản văn học hoặc hiểu được ngôn ngữ trong giao tiếp thì học sinh cần phải hiểu được nghĩa của từ và các lớp nghĩa của từ. 1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 2.1. Mục tiêu: Mục tiêu của đề tài là tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn về giải nghĩa từ. Tạo hứng thú khi học Tiếng Việt nói chung và phần nghĩa của từ có quan hệ về ngữ nghĩa, giúp học sinh không còn ngại nói, ngại phát biểu trong Tiếng Việt để nâng cao chất lượng học cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 5. - Thực trạng của việc dạy Tiếng Việt lớp 5 của trường Tiểu học Quyết Thắng. - Khảo sát điều tra thực tế. - Nghiên cứu nội dung chương trình phân môn Tiếng Việt lớp 5. - Dạy thực nghiệm. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Quyết Thắng. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: + Giới hạn: 3 Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5. + Phạm vi: Môn Tiếng Việt lớp 5 (về nội dung chương trình, phương pháp dạy học và tâm lí của học sinh tiểu học). + Thời gian: Từ tháng 8/2014 đến tháng 3/2015. 5. Phương pháp nghiên cứu: a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tìm ra cơ sở khoa học chi phối việc lựa chọn nội dung và xác định hệ thống nguyên tắc, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt. b. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp khảo sát điều tra thực tế. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích số liệu. II. PHẦN NỘI DUNG: 1. Cơ sở lí luận : Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ nên khi dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Dạy Tiếng Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập. Còn hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS. Kết hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn - Tiếng Việt để HS lớn lên trở thành những con người hiện đại, được giáo dục toàn diện. Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông - tây, kim - cổ, một sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô là sách báo các loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ 4 người thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình. Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em thường không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh nắm kiến thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ mới có những bước nhảy vọt về kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học, sợ giải nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là người dạy phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Làm thế nào để đạt được điều đó? Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau nhớ nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những hình ảnh trực quan sinh động..., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh nào cũng nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở, phát triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp. * Cơ sở thực tiễn : Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng, đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình cảm của mình còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy nội dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó tư duy của học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể tư duy trừu tượng phát triển nhưng ở mức độ thấp. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm, giải nghĩa từ còn mang tính chung chung, 5 không chính xác. Hơn thế nữa, các em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác, HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho người khác nên ngôn ngữ cần chính xác, dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt. Chính vì vậy việc dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có rất nhiều giáo viên trong trường quan tâm song chưa có ai nghiên cứu nên tôi đã chọn vấn đề này giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi học mảng kiến thức này của môn Tiếng Việt. 2. Thực trạng: 2.1. Thực trạng của nhà trường: Năm học 2014 - 2015, trường Tiểu học Quyết Thắng có ba lớp 5 với 105 học sinh. Tôi được phân công dạy và chủ nhiệm lớp 5A. Lớp tôi chủ nhiệm có 35 học sinh trong đó có 19 nữ, 16 nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình, tôi gặp một số khó khăn và thuận lợi như sau: *Thuận lợi : + Về phía Nhà trường: - Luôn quan tâm đến chất lượng dạy của GV và chất lượng học của HS. - Đầu tư đầy đủ cơ sơ vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học. - Hàng tuần có các buổi sinh hoạt chuyên môn để GV trao đổi kinh nghiệm, thảo luận bài để tìm ra phương pháp, hình thức dạy học tối ưu trong quá trình dạy. - Tổ chức thao giảng các cấp để giáo viên được cọ sát, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. + Về phía giáo viên: - Phần lớn giáo viên của trường có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt và vượt chuẩn, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp. - Giáo viên trong các tổ, khối chuyên môn luôn tự học hỏi để bổ sung, cập nhật kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy của mình. - Giáo viên quan tâm đến các đối tượng học sinh, nhiệt tình trong công tác giảng dạy. 6 + Về phía học sinh: - Phần nhiều học sinh ngoan, tích cực trong học tập và rèn luyện. - Các em có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở viết đúng quy định. - Phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc rèn luyện học tập HS, có sự kết hợp giữa phụ huynh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong, ngoài Nhà trường. * Khó khăn: + Về phía giáo viên: - Đôi khi ở một số tiết giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học còn sơ sài chưa kích thích được sự hứng thú, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. - Một vài giáo viên chưa nhanh nhạy trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. + Về phía học sinh: - Một số ít học sinh còn lười học, làm bài còn cẩu thả, làm các bài toán dưới hình thức qua loa cho xong. - Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, còn giao phó việc rèn luyện và học tập của học sinh cho Nhà trường. 2.2. Thực trạng dạy của giáo viên * Ưu điểm: - Đa số giáo viên trong trường rất nhiệt tình, tích cực trong quá trình giảng dạy. Giáo viên đã quan tâm, đầu tư thời gian để tìm hiểu chương trình, nội dung từng tiết dạy, truyền đạt đủ kiến thức cơ bản, trọng tâm theo yêu cầu, mục tiêu của mỗi tiết học, mỗi chủ đề và mỗi chương. - Giáo viên đã chú trọng đến việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng được nhiều phương pháp dạy học như: vấn đáp, trực quan, giảng giải...giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức mới. - Đa số giáo viên đã quan tâm đến việc bồi dưỡng các đối tượng học sinh trong lớp. Giáo viên đã chú trọng tới đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, dạy học có sử dụng đồ dùng, mô hình, vật thật. - 95% GV có kiến thức về tin học và 80% GV đã thiết kế bài giảng điện tử. 7 * Một số tồn tại: - Một số giáo viên còn lúng túng khi miêu tả, giải thích nghĩa của từ. Khi thể hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá - giỏi, còn lại đa số HS khác thụ động ngồi nghe, một số em khác có muốn nêu cách hiểu của mình về nghĩa của từ, từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cũng sợ sai lệch, từ đó tạo nên không khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt, thiếu hứng thú, không tạo được hiệu quả trong giờ học. - Đôi khi điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy chưa phong phú. - Khả năng vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học chưa cao. - Một số giáo viên phụ thuộc theo sách giáo khoa, áp đặt học sinh tiếp thu kiến thức thụ động không mang tính sáng tạo, tích cực. - Đó đây vẫn còn giáo viên chưa tâm huyết với nghề, với học sinh, chưa chuẩn bị kĩ lưỡng cho bài dạy, mỗi tiết dạy và nhất là dạy chay. * Nguyên nhân: - Một số giáo viên có tuổi đời, tuổi nghề cao nên phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức khó thay đổi hoặc thay đổi chậm. Việc tiếp cận vấn đề lí luận chung về đổi mới phương pháp còn gặp khó khăn, lúng túng. - Khi dạy, số ít giáo viên còn chưa nghiên cứu thật kỹ nội dung bài, việc soạn bài với giáo viên là hình thức sao chép. Khi dạy giáo viên còn lệ thuộc vào tài liệu có sẵn, hình thức lựa chọn còn sơ sài, chưa cuốn hút học sinh vào bài học, kiến thức truyền thụ chưa trọng tâm. - Việc chọn lựa các hình thức dạy học chưa phù hợp với đối tượng học sinh, chưa phù hợp với bài dạy nên dẫn đến tình trạng học sinh nhàm chán. Trong tiết học thì dạy chay là chủ yếu vì ngại hướng dẫn bằng đồ dùng mất nhiều thời gian sẽ vi phạm thời gian trong tiết dạy. 2.3. Thực trạng học của học sinh *Ưu điểm : - Phần nhiều học sinh tiếp thu bài tương đối nhanh. 8 - Học sinh có phương pháp học tập tốt, có đầy đủ góc học tập. - Nhiều học sinh được gia đình quan tâm, mua đủ sách giáo khoa, các đồ dùng học tập cần thiết cho môn học. * Tồn tại: Ở lớp 5, các em được làm quen nhiều hơn với mảng kiến thức mới: Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học... nhưng ở một số học sinh còn thiếu sự say mê cần thiết, chưa biết đọc diễn cảm bài văn hay, chưa thể xúc động thật sự với những gì đẹp đẽ được tác giả diễn qua bài văn ấy. - Kỹ năng trình bày bài của học sinh chưa tốt, có học sinh hiểu bài nhưng diễn đạt không thoát ý, học sinh chưa sáng tạo khi làm bài. - Học sinh còn khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: giải nghĩa từ sai, lúng túng và nghĩa còn lủng củng. - Nhiều học sinh chưa biết phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ nên còn làm sai bài tập. - Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính. - Đặt câu có sử dụng từ nhiều nghĩa chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu. Vả lại, cách dạy của giáo viên thì nặng về giảng giải khô khăn, áp đặt. Điều này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học trong học sinh. * Nguyên nhân: - Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. - Vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu sự quan tâm của phụ huynh đến việc học của con - em mình . - Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ luyện từ và câu, giải nghĩa từ trong giờ tập đọc còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh. - Vốn từ ngữ của một số giáo viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Kiến thức về từ vựng - ngữ nghĩa học của một số giáo viên còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ suất, sai sót về kiến thức. 9 - Học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được hỏi ý kiến đều cho rằng: Luyện từ và câu và giải nghĩa từ là phần học khô và khó. Một số chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi, quen thuộc. Do vậy, để dạy và học phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa đạt hiểu quả cao, cần chú trọng đến hình thức truyền thụ kiến thức để gây hứng thú nâng cao chất lượng học cho học sinh. Qua tìm hiểu và áp dụng một vài biện pháp dạy - học về vấn đề “Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5” trong năm học 2014 – 2015, tôi nhận thấy hiệu quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn từ của mình 3. Biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị trí rất quan trọng trong các bài học MRVT. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ chủ điểm, từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết. 3.1. Mục tiêu của biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5. - Chia nhóm từ và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với các nhóm. - Định hướng các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh lớp 5 và các biện pháp tìm hiểu từ ngữ nghệ thuật trong các văn bản Tập đọc của khối lớp 5. - Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa. 3.2. Nội dung và cách thực hiện biện pháp: 10 Biện pháp 1: Giải nghĩa từ cho học sinh lớp 5. Qua 16 tiết MRVT và 69 văn bản tập đọc, tôi thống kê được hơn 200 từ học sinh cần hiểu nghĩa. Đây là số lượng từ khá lớn so với khả năng giải nghĩa của học sinh độ tuổi 11,12. Trong một số công trình nghiên cứu về PPDH TV và một số tài liệu hướng dẫn giáo viên tiểu học dạy từ ngữ đã nêu một số cách giải nghĩa sau: “Giải nghĩa bằng trực quan; giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với các từ khác; giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa; giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ các thành tố và giải nghĩa từng thành tố này; giải nghĩa bằng định nghĩa.... Tôi đã chia các từ mà sách giáo khoa TV5 yêu cầu học sinh hiểu nghĩa thành các nhóm và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với mỗi nhóm. A. Giải nghĩa bằng định nghĩa Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau. Tôi đã hướng dẫn HS: - Nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ. - Xác định tiểu loại của từ. Tạm thời phân biệt cách giải nghĩa các nhóm từ như sau: a. Nhóm các từ thuộc từ loại danh từ * Danh từ trừu tượng Khi giải nghĩa các danh từ trừu tượng, tôi hướng dẫn HS làm như sau: - Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát. - Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa. - Tùy đặc điểm riêng từng từ mà có thể chọn một trong các từ sau: sự, cuộc, những, phạm vi, lĩnh vực, nơi.... làm từ công cụ để mở đầu nét nghĩa khái quát cho mỗi từ. Ví dụ: Tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ: “Tư tưởng”: - Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát: suy nghĩ hoặc ý nghĩ ( tập trung tư tưởng). 11 - Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa: quan điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến...) - Chọn từ công cụ để mở đầu cho nét nghĩa “sự”. Vậy, “tư tưởng” là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ (tập trung tư tưởng), quan điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến...) * Danh từ chỉ sự vật cụ thể. Tên gọi các sự vật tồn tại trong thực tế khách quan có rất nhiều nhưng có thể quy về các phạm trù sau: - Từ chỉ đồ vật, từ chỉ người và con vật, từ chỉ cây cối, chỉ các hiện tượng tự nhiên... Vì thế nét nghĩa khái quát mở đầu cho cách giải nghĩa bằng định nghĩa. Khi dạy bài Cửa sông (TV5- T2 - Tr 75), tôi đã hướng dẫn HS giải nghĩa từ “Tôm rảo” : một loại tôm (nghĩa khái quát) sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ và dài. Với các từ chỉ đồ vật, dụng cụ, đồ dùng hoặc phương tiện sản xuất, sau nét nghĩa phạm trù là nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo và cuối cùng là nét nghĩa chức năng. Ví dụ: (cái) Bay (TV5- T1- Tr 148): đồ vật (nét nghĩa phạm trù), dụng cụ của thợ nề, gồm một miếng thép mỏng hình lá lắp vào cán (nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo) , dùng để xây, trát, láng ( nét nghĩa chức năng). Khi giải nghĩa các từ bàn, ghế, sập, các em sẽ miêu tả cấu tạo các đồ vật này na ná như nhau, nhưng nhất thiết các em phải nói được bàn dùng để kê viết hoặc đặt đồ đạc, ghế dùng để ngồi, sập dùng để nằm. Các đồ vật này khác nhau về chức năng. Thực tế ở tiểu học, rất nhiều trường hợp học sinh thậm chí cả giáo viên chỉ nêu được nét nghĩa chức năng khi giải nghĩa danh từ chỉ đồ vật dụng cụ. Ví dụ: men: (TV 5 - T1 – Tr118) chất được dùng trong quá trình làm bia , rượu; chất gây say. - Cách giải nghĩa các từ chỉ động, thực vật. 12 Khi giải nghĩa các từ thuộc loại này, giáo viên có thể nêu đây là một loại động vật, thực vật, thuộc họ.... Tuy nhiên để giảng nghĩa ngắn gọn, giáo viên nên nêu trực tiếp nghĩa khái quát của từng loại, tiếp đến là các nét nghĩa hình dáng, kích thước, môi trường sống hoặc tính năng của loài động vật, thực vật đó. Ví dụ: Con mang (con hoẵng) (TV5- T1- Tr 75): Loài thú rừng(nghĩa khái quát ), cùng họ với hươu (thuộc họ), sừng bé có hai nhánh và lông vàng đỏ (hình dáng, kích thước). Danh từ có nhiều tiểu loại, với mỗi tiểu loại, cách giải nghĩa bằng định nghĩa cũng tương tự nghĩa là đưa nét nghĩa chỉ loại lên trước hết, sau đó mới cụ thể hóa. Ví dụ: Thanh ray: (TV5 – T2 - Tr136) Thanh sắt hoặc thép ghép nối với nhau thành hai đường song song để tạo thành đường cho tàu hoả, tàu điện hay xe goòng chạy (cụ thể hóa). b. Nhóm các từ thuộc loại động từ Chia động từ thành ba loại: động từ chỉ hành động, động từ chỉ trạng thái và động từ chỉ quá trình.... nghĩa chỉ ở loại vừa nêu chính là nét nghĩa khái quát, mở đầu cho lời giải nghĩa động từ theo cách định nghĩa. Việc xác định các nét nghĩa tiếp theo cũng căn cứ vào nét nghĩa khái quát này. Chẳng hạn khi giải nghĩa một động từ hành động, người giải nghĩa phải nêu được các nét nghĩa hành động tự thân hay hành động tác động, cách thức hành động và kết quả hành động. Ví dụ: Trình (TV5- T2 – Tr84): hoạt động, đưa ra để người trên xem xét và giải quyết. Đối với các động từ chỉ ý nghĩa quá trình, sau nét nghĩa phạm trù cần nêu được nét nghĩa chỉ diễn biến hoặc kết quả của quá trình biến đổi. Ví dụ: Hóa thân: quá trình biến đi và hiện ra lại thành một người hoặc một vật cụ thể khác nào đó (hóa thân vào nhân vật). Riêng đối với các động từ chỉ trạng thái, việc lựa chọn từ ngữ để giải nghĩa cần chú ý sao cho các đặc điểm trạng thái của đối tượng được miêu tả rõ nét, nhưng không lẫn với cách giải nghĩa các tính từ. Đặc biệt là các động từ chỉ trạng thái tâm lí, tình cảm của con người. Ví dụ: Ác: tính chất gây hại, đau khổ, tai họa cho người khác. 13 c. Nhóm từ thuộc loại tính từ Tính từ thường được chia làm hai loại: - Tính từ không mức độ: Để thể hiện được mức độ đặc điểm, tính chất mà chúng biểu thị, những tính từ này có thể kết hợp với các từ: rất, quá, lắm... Ví dụ: trắng, vàng, xanh, đỏ, tròn... . - Tính từ có mức độ: các tính từ này đã hàm chứa ý nghĩa mức độ nên chúng không kết hợp được với các từ rất, quá, lắm ... Vì vậy khi dạy các em giải nghĩa các từ thuộc từ loại tính từ, nét nghĩa phạm trù cần nêu trước hết chính là nét nghĩa tính chất, đặc điểm. Các nét nghĩa cần trình bày theo lối miêu tả. Ví dụ: Lan man: nhiều ( nói, viết, suy nghĩ) hết cái này đến cái kia một cách mạch lạc, không hệ thống. Giải nghĩa bằng tập hợp các nét nghĩa là cách dạy đầy đủ nhất nhưng là một yêu cầu khó đối với học sinh tiểu học, vì vậy các bài tập giải nghĩa trong môn LTVC thường xây dựng dưới dạng cho sẵn từ và nghĩa của từ, các định nghĩa về từ yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng. Loại này có 2 tiểu dạng. + Dạng 1: Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh tìm trong các nghĩa đã cho nghĩa phù hợp với từ. Ví dụ: *Bài tập 1(TV5- T1- Tr 47) Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của từ hoà bình: a, Trạng thái bình thản. b, Trạng thái không có chiến tranh. c, Trạng thái hiền hoà, yên ả. + Dạng 2: Cho từ và nghĩa của từ, yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng. Ví dụ: * Bài tập 1(TV5- T1- Tr116). Mỗi từ ở cột A dưới đây ứng với nghĩa nào ở cột B? A Sinh vật B Quan hệ giữa sinh vật(kể cả người) với môi trường xung Sinh thái quanh. Tên gọi chung các vật sống, bao gồm động vật, thực vật 14 hình thái và vi sinh vật, có cinh ra, lớn lên và chết. Hình thức biểu hiện ra bên ngoài của sự vật, có thể quan sát được B. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các từ dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ. Ví dụ: Khi dạy bài “ Tranh Làng Hồ”, tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ thuần phác như sau: + Thuần phác (TV5- T2- Tr 88): chất phác, mộc mạc. Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo lối so sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách giảng theo lối miêu tả. Bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối chiếu, cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ nên khi giải nghĩa chúng ta có thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa sẽ giúp chúng ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn. Ví dụ: Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng nghĩa: lốc, gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ trên, chúng ta chọn từ gió làm từ trung tâm rồi giảng nghĩa từ thật kĩ, rồi bổ sung những nghĩa đặc thù cho các từ lốc, bão, giông... + gió: là hiện tượng không khí trong khí quyển chuyển động thành luồng từ vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp. + lốc: gió xoáy mạnh trong phạm vi nhỏ. + giông: biến động mạnh của thời tiết, thường có gió to giật mạnh và có sấm sét, mưa rào. + giông tố: cơn giông có gió rất to và mạnh (thường dùng để ví cảnh gian nan đầy thử thách) Hoạt động giải nghĩa các từ ghép chính phụ cùng hình vị chính, khác nhau về hình vị phân nghĩa sắc thái hóa, cũng thực hiện theo cách thức nêu trên. 15 Giải nghĩa từ bằng cách so sánh với từ trái nghĩa, giáo viên cần chú ý bản chất của từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược, đối lập nhau xét theo một phạm trù nhất định. Tuy nhiên cần phân biệt, có những cặp từ trái ngược nhau tạo thành hai cực mâu thuẫn, phủ định cực này tất yếu phải chấp nhận cực kia. Ví dụ: trắng – đen; trên- dưới... Khi nói trên có nghĩa là không phải ở dưới. Có những từ trái nghĩa phương hướng là các từ chỉ hướng đối lập nhau trong không gian hoặc thời gian. Ví dụ: nam- bắc; đông – tây; lên – xuống; ra – vào.... Lại có những từ trái nghĩa thang độ, tức là những cặp từ có nghĩa trái ngược nhau tạo thành hai cực có điểm trung gian, phủ định cực này chưa hẳn đã tất yếu chấp nhận cực kia. Ví dụ: nóng – lạnh, ở giữa có mát, ấm; già – trẻ, ở giữa có trung niên.... Vì thế khi giải nghĩa từ bằng cách so sánh với các từ trái nghĩa, có trường hợp ta nói: sao nhãng (TV5- T2- Tr153) là không nhớ ( cặp quên – nhớ). Nhưng không thể giải nghĩa rủi (TV5- T2- Tr126) là không may mắn. Vì cặp rủi – may còn có nghĩa từ bình thường (cuộc đời rủi ro, cuộc đời bình thường, cuộc đời may mắn). Trong thực tế, học sinh thường quen giải nghĩa theo kiểu đối lập có – không. Như vậy, giáo viên cần chú ý giải thích rõ hơn cho các em hiểu. C. Giải nghĩa theo cách miêu tả * Cách này có hai dạng: - Thứ nhất là dạng dẫn tính chất (hiện tượng thường gặp) để giúp cho học sinh hiểu ý nghĩa của từ. Ví dụ: màu ngọc lam(TV5 - T1-Tr12): chỉ màu sắc có màu xanh đậm. - Thứ hai là đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như các từ láy sắc thái hóa, hoặc từ ghép phân nghĩa sắc thái hóa, một mặt vừa phải kết hợp cách giảng theo định nghĩa, mặt khác phải dùng lối miêu tả. Để miêu tả, chúng ta có thể lấy một sự vật, hoạt động cụ thể làm chỗ dựa rồi miêu tả sự vật, hoạt động đó sao cho nổi bật lên các nét nghĩa chứa đựng trong từ. 16 Ví dụ: vật vờ: lay động nhẹ, yếu ớt, như không có sức mạnh chống đỡ từ bên trong, mặc cho sức mạnh bên ngoài kéo đi, lôi lại như cây cỏ dài lay động trong làn nước nhẹ. Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm thì giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật tiêu biểu nhất để giúp học sinh lĩnh hội được nghĩa biểu vật. Điều này cho phép giáo viên chấp nhận những lời giải nghĩa của học sinh như sau: * Bài tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV5- T1- Tr10). + Vàng ối: là màu vàng của lá mít. + Vàng xuộm: là màu của cánh đồng lúa chín đều. + Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô. D. Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng tiếng Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh cơ sở nắm vững nghĩa từ. Ví dụ: Nhân quyền: (TV5- T2- Tr 147) : nhân: người; những điều được hưởng, được làm, được yêu cầu theo quy ước chung trong cộng đồng và theo quy ước của pháp luật. Nhân quyền: những điều mà con người được hưởng, được làm, được yêu cầu, theo quy ước chung trong cộng đồng và theo quy ước của pháp luật. Biện pháp 2. Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật trong văn bản Tập đọc Tác phẩm văn học vốn hàm súc và có nhiều tầng ý nghĩa. Việc đọc hiểu văn bản nghệ thuật thực chất là khai thác hàm ý ẩn sâu trong câu chữ, hình ảnh, hình tượng của tác phẩm. Đối với học sinh tiểu học, yêu cầu này là khó đối với các em. Giáo viên cần có biện pháp giúp các em huy động vốn hiểu biết của mình từ các môn học khác và từ trong cuộc sống để hiểu nghĩa của từ ngữ có giá trị nghệ thuật. Nhưng làm thế nào để giúp học sinh nhận ra các từ ngữ được dùng một cách nghệ thuật. Điều này đòi hỏi giáo viên không chỉ hướng dẫn mà cần có các bài tập cụ thể để học sinh 17 thực hành nhận diện và phân tích. Việc tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc nên thực hiện như sau: A. Nhận diện các từ ngữ nghệ thuật Trước khi tìm ra các biện pháp phân tích từ ngữ nghệ thuật, giáo viên cần giúp học sinh nhanh chóng tìm ra các từ dùng hay trong văn bản. Chưa phân tích làm sao biết được từ ngữ đó dùng hay như thế nào nhưng bằng sự hiểu biết về tính cụ thể, tính trừu tượng trong nghĩa của từ, về hiện tượng nhiều nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi định hướng để học sinh xác định từ ngữ nghệ thuật. Ví dụ : Khi dạy bài tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa SGK yêu cầu trả lời câu hỏi sau: hãy chọn một từ chỉ màu sắc trong bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa mà em thích nhất ? Với bài tập như trên, học sinh sẽ biết cách chỉ ra các từ ngữ mà các em thích, hoặc được gợi ý là từ ngữ đó được dùng độc đáo, sáng tạo. Yêu cầu các em tìm từ ngữ thể các biện pháp tu từ. Thực hiện bài tập trên các em sẽ tìm ra được các từ dùng đắt trong văn bản nghệ thuật. Còn các từ đó được dùng nghệ thuật ra sao, giáo viên cần phải hướng dẫn cụ thể. B. Đặt từ cần tìm hiểu trong hệ thống để phân tích Một nguyên tắc của việc phân tích từ ngữ trong tác phẩm văn học, là chú ý để phát hiện ra tính thống nhất cũng tức là tính hệ thống giữa các từ ngữ với chủ đề của tác phẩm. Nghĩa là từ ngữ mà giáo viên và học sinh đang xem xét đã cùng với các từ ngữ khác trong hệ thống bộc lộ ý chủ đạo của văn bản ra sao và giá trị riêng của từ ngữ đó là gì. Với học sinh tiểu học chúng ta không nên hoặc hạn chế dùng khái niệm hệ thống khi hướng dẫn học sinh phân tích từ ngữ mà chỉ lên dùng cách nói: tìm điểm chung, điểm riêng giữa từ đang tìm hiểu với các từ khác. Ví dụ 1: Có thể dùng từ nào thay thế cho từ đẫm trong câu: Với đôi cánh đẫm nắng trời Bầy ong bay đến trọn đời tìm hoa. 18 Đối với bài tập trên, hình thức giống bài tập thay thế, tích cực hóa vốn từ nhưng thực chất là dạng bài tập gợi ý phân tích từ ngữ theo lối so sánh đồng nhất và đối lập. Khi làm bài tập này chắc chắn học sinh phải tìm từ đồng nghĩa với từ đẫm như: sũng, thấm đẫm, ngập,vv... và phân tích đối chiếu để khẳng định từ đẫm dùng trong ngữ cảnh này là hợp lí nhất, có tác dụng gợi hình ảnh và biểu cảm rõ rệt. C. Phân tích mối quan hệ giữa nghĩa chính và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Theo GS. Đỗ Hữu Châu: từ ngữ và các hình ảnh ngôn ngữ trong tác phẩm thường nằm trong các trường hợp ngữ nghĩa sau: a, Từ ngữ được dùng trong nghĩa chính hay nghĩa phụ ngôn ngữ và chỉ dùng trong nghĩa đó mà thôi. b, Từ ngữ được dùng trong nghĩa tu từ và chỉ có nghĩa tu từ mà thôi. c, Từ ngữ vừa dùng trong nghĩa chính vừa dùng trong nghĩa bóng tu từ. Đối với trường hợp từ chỉ dùng trong nghĩa chính, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh so sánh với các từ cùng trường nghĩa, đồng nghĩa hay trái nghĩa, nhờ biện pháp tái hiện giả định quá trình lựa chọn của tác giả mà học sinh phát hiện ra cái hay, cái đẹp của việc dùng từ. Còn những trường hợp từ được dùng trong nghĩa phụ ngôn ngữ hay nghĩa bóng tu từ, tức là từ được dùng với nghĩa chuyển. Nguyên tắc để phân tích hiện tượng nhiều nghĩa trong tác phẩm là phải bám chắc lấy nghĩa chính, hiểu thật chính xác nó, dựa vào cơ chế chuyển nghĩa mà tìm ra sự sáng tạo trong cách dùng từ của tác giả. Ví dụ: Trong bài thơ ‘‘Hạt gạo làng ta’’, câu thơ cuối Trần Đăng Khoa viết: Em vui em hát, hạt vàng làng ta. Để học sinh hiểu được giá trị của từ hạt vàng trong câu, giáo viên phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ: hạt vàng là kim loại hiếm có màu vàng và có giá trị cao (quí như vàng). Nhưng trong câu thơ được tác giả sử dụng gọi thay thế cho hạt gạo, tác giả đã dùng phép so sánh để nói nên mồ hôi công sức một nắng hai sương của bố mẹ làm ra hạt gạo và hạt gạo đó đã góp công vào chiến thắng chung của dân tộc. Do vậy hình ảnh hạt gạo trong bài thơ được tác giả so sánh nâng 19 cao tầm giá trị như hạt vàng nhưng nó lại mang sắc thái gần gũi tạo nên vẻ đẹp có giá trị nghệ thuật cao. Biện pháp 3. Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa Bài học về các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: từ đồng nghĩa và trái nghĩa, nhiều nghĩa được bố trí trong môn Luyện từ và câu lớp 5 với thời lượng 9 tiết, thành hai dạng bài. Dạng lí thuyết được xếp trong tiết học đầu tiên của mỗi lớp từ. Dạng bài thực hành được xếp ngay sau tiết học lí thuyết. Cụ thể từ đồng nghĩa 4 tiết (1 tiết lí thuyết, 3 tiết luyện tập) từ trái nghĩa 2 tiết (1 tiết lí thuyết, 1 tiết luyện tập), Từ nhiều nghĩa 3 tiết (1 tiết lí thuyết, 2 tiết luyện tập) Cấu trúc nội dung bài học của mỗi dạng bài được biên soạn theo cách khác nhau. A. Cấu trúc nội dung bài học các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa trong sách giáo khoa. A.1. Cấu trúc nội dung bài học lý thuyết. Giống như cấu trúc nội dung bài học lí thuyết Luyện từ và câu nói chung, bài học lí thuyết về từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ nhiều nghĩa ...được biên soạn theo cấu trúc ba phần : Phần I. Nhận xét Phần II. Ghi nhớ Phần III. Luyện tập. Nhiệm vụ của phần I và phần II là hình thành khái niệm, vì thế trong phần nhận xét, SGK đưa ra các ngữ liệu và hệ thống bài tập để học sinh tìm ra được các dấu hiệu của khái niệm. Kết quả của quá trình hình thành khái niệm được chốt ở mục II, phần ghi nhớ. Khi học khái niệm từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm: *Từ đồng nghĩa: a) Bản chất từ đồng nghĩa Từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa nhưng có một số từ có sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa. Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác , 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất