Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm đổi mới hình thức củng cố theo định hướng phát triển năng ...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm đổi mới hình thức củng cố theo định hướng phát triển năng lực trong giảng dạy môn giáo dục công dân thpt

.PDF
42
104
96

Mô tả:

I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Lí do chọn đề tài: Môn Giáo dục công dân trong trường trung học phổ thông được coi là môn khoa học xã hội, cùng các môn học khác góp phần hình thành và phát triển nhân cách, năng lực, phẩm chất, kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông. Ngay từ tên gọi đã thể hiện bản chất của môn học là dạy và học để làm người để trở thành người công dân đúng với chuẩn mực xác định. Điều đó làm nên tính khác biệt với môn học khác trong trường trung học phổ thông. Môn Giáo dục công dân có đặc thù luôn gắn với thực tế xung quanh, gắn với hoạt động định hướng và có tác dụng điều chỉnh hành vi, hoạt động của học sinh. Vì thế việc nắm vững kiến thức của môn học sẽ là cơ sở để xây dựng niềm tin, tính tích cực xã hội của học sinh, giúp các em xây dựng, phát triển nhân cách hài hòa. Bộ môn Giáo dục công dân trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản và thiết thực của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước, hệ thống các chuẩn mực đạo đức mới. Từ đó giúp các em hình thành phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật; có ý thức trách nhiệm cao đối với chính bản thân mình, đối với gia đình, cộng đồng và Tổ quốc. Nhiệm vụ của môn học không chỉ dừng lại ở nhận thức mà phải từ nhận thức biến thành niềm tin, thành hành động, biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề mà cuộc sống đăt ra. Thực trạng hiện nay đạo đức xã hội đang đứng trước nguy cơ suy thoái nghiêm trọng, thước đo giá trị của xã hội bị méo mó: thật giả, tốt xấu lẫn lộn đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự giáo dục lòng tin của học sinh đối với tri thức của môn Giáo dục công dân, chính vì thế giảng dạy môn Giáo dục công dân trong trường trung học phổ thông đang gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Với mong muốn thực hiện tốt nội dung giảng dạy và hoàn thành tốt nhiệm vụ của môn học bản thân tôi đang giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân tôi nhận thấy việc truyền thụ chính xác những tri thức, đồng thời cần phải củng cố và hoàn thiện tri thức thường xuyên 1 tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn. Qua đó rèn kỹ năng, kỹ xảo góp phần phát huy tính cực của học sinh, nhằm định hướng phát triển năng lực cho các em. Trong các hình thức tổ chức dạy học môn Giáo dục công dân ở đó hình thức lên lớp là chủ yếu. Trong loại bài giảng này bao gồm một số yếu tố liên kết chặt chẽ với nhau. Đó là: Ôn lại tri thức cũ, học tri thức mới, hệ thống hóa khái quát hóa tri thức, hướng dẫn học tập tri thức mới. Trong đó loại bài củng cố để hoàn thiện tri thức, rèn kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh không kém phần quan trọng. Mục đích của hệ thống hóa, củng cố để hoàn thiện tri thức, rèn kỹ năng, kỹ xảo sau khi học xong một chương, một phần hoặc toàn bộ chương trình giáo viên và học sinh cần phải được chuẩn bị chu đáo. Việc củng cố kiến thức cho học sinh trong quá trình giảng dạy của giáo viên là hết sức cần thiết. Nó xuất phát từ lý luận dạy học, thực tiễn giảng dạy và học tập. Củng cố tri thức cũ để tiếp thu tri thức mới, tạo tiền đề và khả năng thu nhận tri thức cao hơn, rộng hơn cho học sinh từ đó có tác dụng rèn kỹ năng, kỹ xảo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Hiện nay trong môn Giáo dục công dân đổi mới phương pháp củng cố kiến thức chưa được nghiên cứu nhiều. Xuất phát từ thực tế dạy học môn học này không có mặt trong các kỳ thi quan trọng như thi tốt nghiệp hay thi đại học nên học sinh thường học chỉ để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức đằng sau mỗi bài học. Nói đến những hành vi lệch lạc trong giới trẻ hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng đây là hệ quả của việc chỉ quan tâm đến việc dạy chữ mà thiếu quan tâm đến giáo dục đạo đức cho giới trẻ trong thời gian dài từ gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì vậy, việc học môn GDCD rơi vào tình trạng dạy và học đối phó. Với kinh nghiệm giảng dạy môn giáo dục công dân tôi không tham vọng đòi hỏi học sinh phải nhớ được tất cả các tri thức của môn học một cách lâu dài. Do đó phải chọn lọc những tri thức thật quan trọng - những tri thức có tác dụng chỉ đạo lâu dài tình cảm và hành vi của học sinh là rất cần thiết. Cho nên tôi rất 2 tâm đắc khi chọn đề tài: “Đổi mới hình thức củng cố theo định hướng phát triển năng lực trong giảng dạy môn Giáo dục công dân THPT” 2.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1. Mục tiêu: - Tổng kết, khái quát hóa kiến thức của một chủ đề, một cụm bài, một phần trong giảng dạy GDCD . - Lấy ví dụ cụ thể về việc ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm đồ họa, phần mềm Mindmap để củng cố bài học trong chương trình GDCD thêm sinh động, đạt hiệu quả cao trong củng cố bài học theo định hướng phát triển năng lực. - Khuyến khích học sinh, xây dựng tình huống, đóng vai, làm việc theo nhóm trong củng cố bài học theo định hướng phát triển năng lực. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của đề tài làm vai trò bước củng cố trong giờ lên lớp với GDCD ở THPT. Từ đó, học sinh có thể ghi nhớ nội dung của môn học một cách thoải mái nhẹ nhàng, từ đó giúp các em rèn kỹ năng, phát triển các năng lực . Để đạt được mục đích trên, sáng kiến cần phải thực hiện hai nhiệm vụ sau: Một là, sử dụng một số phương pháp trong kỹ thuật dạy học bản đồ tư duy. Hai là, hướng dẫn học sinh sử dụng phần mềm tin học trong đồ họa để xây dựng các ví dụ minh họa hoặc xây dựng tình huống để đóng vai trong một số tiết ngoại khóa cho phù hợp. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1.Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận là xuất phát từ lý luận dạy học, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, chủ nghĩa Mác - 3 Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những nhân tố có liên quan đến sáng kiến. 3.2. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp lôgíc và lịch sử, so sánh, sử dụng tài liệu trên sách, báo, mạng internet và các phương pháp khác. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 1. Dạy học dựa trên năng lực. 1.1. Khái niệm dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là dạy học theo chuẩn và định hướng kết quả/sản phẩm đầu ra - kết quả đầu ra cuối cùng của quá trình dạy học là HS vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học vào giải quyết tình huống trong cuộc sống, nghề nghiệp. 1.2.Các đặc trưng của phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực 1.2.1.Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp hoc sinh khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn... 1.2.2. Chú trọng rèn luyện cho học sinh những tri thức, phương pháp để học sinh biết cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những tri thức đã có, biết cách suy luận để tìm tòi kiến thức mới. Các tri thức phương pháp thường là các quy tắc, quy trình, phương thức hành động tuy nhiên cũng cần coi trọng cả các quy tắc có tính chất dự đoán, giả định. Rèn cho học sinh các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hóa, khái quát hóa, quy từ lại về quen...để dần dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của họ. 1.2.3.Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm “Tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”. Điều đó làm cho bản thân mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học trở thành giao tiếp thầy- trò, trò- trò 5 nhằm vận dụng sự hiểu biết của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết nhiệm vụ học tập chung. 1.2.4. Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi bài tập. Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải, theo hướng dẫn hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót. Như vậy, dạy học dựa trên năng lực là Dạy học phải gắn với thực tiễn. Sử dụng các phương pháp dạy học đảm bảo nguyên tắc học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Phương pháp kỹ thuật dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên- học sinh, theo hướng cộng tác nhằm phát triển các năng lực ở học sinh. 2.Quan niệm về củng cố tri thức cho học sinh trong giảng dạy môn Giáo dục công dân THPT. 2.1. Quan niệm về củng cố tri thức môn Giáo dục công dân. Trong giảng dạy bất cứ một môn khoa học nào giáo viên cũng không thể bỏ qua việc củng cố kiến thức đã học cho học sinh. Trong mỗi giờ lên lớp giáo viên đã phải thường xuyên củng cố kiến thức cho học sinh sau khi vừa giảng bài xong hoặc học sinh đã tiếp thu ở bài trước. Ở đây trong phạm vi của đề tài tôi muốn đề cập đến việc củng cố kiến thức cho học sinh sau khi đã học xong một khối lượng tri thức xác định trong một khoảng thời gian xác định. Khối lượng tri thức đó có thể là một vài bài, một chương, một phần hay toàn bộ chương trình. Mỗi một môn khoa học có một cách củng cố kiến thức cho học sinh khác nhau điều này tùy thuộc vào đặc trưng, cấu tạo chương trình, nội dung 6 kiến thức cần thiết đối với học sinh trung học phổ thông của từng bộ môn khoa học. Riêng môn Giáo dục công dân chương trình học của bộ môn không tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh mà bao gồm một số phân môn. Trong mỗi phân môn đó, nội dung kiến thức cũng chỉ chứa đựng một vài vấn đề cần thiết đối với học sinh trước khi học bước vào đời. Môn Giáo dục công dân lớp 10 được chia thành hai phần. Phần I: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Phần II: Công dân với đạo đức. Môn Giáo dục công dân lớp 11 được chia thành hai phần: Phần I: Công dân với kinh tế. Phần II: Công dân với các vấn đề chính trị xã hội. Khối 12 là toàn bộ chương trình pháp luật. Tùy theo nội dung kiến thức, cấu trúc chương trình của từng phân môn của từng khối lớp mà giáo viên phải vạch ra kế hoạch thực hiện việc củng cố kiến thức sao cho phù hợp với nội dung chương trình phân môn, đối tượng học sinh ở từng khối lớp. Thông qua củng cố tri thức cũ học sinh hiểu được mối liên hệ chặt chẽ giữa các tri thức đã tiếp thu được, hiểu biết chắc chắn hơn, sâu sắc hơn từ đó tạo ra tiền đề và khả năng vận dụng tốt các kiến thức đó vào trong thực tiễn, rèn kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Với tri thức mang tính khái quát và trừu tượng cao như môn Giáo dục công dân, việc củng cố tri thức tạo ra cơ sở hình thành, nâng cao từng bước phương pháp tư duy khoa học, thế giới quan, nhân sinh quan, tăng cường khả năng tư duy khái quát cho học sinh. Chính trong quá trình củng cố kiến thức cho học sinh cũng là quá trình giáo viên tự nâng cao trình độ, nghệ thuật sư phạm. Trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể sử dụng các hình thức như hệ thống hóa, ôn tập, thảo luận, xê-mi-na, tham quan thực tế… 2.2. Một số hình thức củng cố kiến thức cho học sinh. 2.2.1. Hệ thống hóa kiến thức. Hệ thống hóa kiến thức là cách thức tập hợp, sắp xếp các kiến thức học sinh đã tiếp thu theo một kết cấu lôgic xác định phản ánh nội dung kiến thức trong chương trình môn Giáo dục công dân của một khối lớp ở trường trung học phổ thông. Mục đích của hệ thống hóa kiến thức là củng cố kiến thức cho 7 học sinh trên cơ sở vạch ra mối liên hệ hữu cơ, làm tiền đề giữa các kiến thức. Các kiến thức được tiếp thu trước là tiền đề, là nền tảng để tiếp thu kiến thức tiếp sau đó. Các kiến thức tiếp thu sau làm phong phú hơn, sâu sắc hơn các kiến thức tiếp thu trước. Tìm ra mối liên hệ khăng khít giữa các kiến thức cơ bản là điều kiện cần thiết giúp học sinh nắm vững kiến thức trong phạm vi nhất định và có khả năng mở rộng chúng. Đây là điều rất quan trọng trong khi giảng dạy môn giáo dục công dân - một môn học cung cấp trang bị cho học sinh dù là bước đầu, phương pháp biện chứng trong tư duy và hành động. Hệ thống hóa kiến thức không phải là sự liệt kê đơn giản các kiến thức học sinh đã tiếp thu, lại càng không phải là sự liệt kê đơn giản đầu đề của các bài, các đề mục nhỏ, mặc dù phải dựa vào chúng để tìm ra kiến thức cơ bản và mối liên hệ của chúng. Nếu giáo viên hệ thống hóa từ bài 1 đến bài 9 của chương trình giáo dục công dân lớp 10 chỉ bằng cách nhắc lại các đề mục trong đó mà bỏ qua một số đề mục như: Triết học là gì, triết học với đời sống, thế giới quan, phương pháp luận, vật chất, ý thức, vận động, phát triển,…thì kết quả của hệ thống hóa kiến thức sẽ chẳng thu lại được là bao. Không những thế mà còn làm cho học sinh không có hứng thú học tập, hạ thấp vai trò khoa học của tri thức bộ môn. Trong hệ thống hóa kiến thức, nội dung cơ bản của kiến thức thể hiện ở các phạm trù, khái niệm, quy luật. Vì thế cần phải xây dựng một hệ thống phạm trù, khái niệm mặc dù ở môn Giáo dục công dân hệ thống đó không đầy đủ. Có những phạm trù khái niệm được nêu ra vật chất, ý thức ở bài 1 chương trình GDCD lớp 10 nhưng lại không giảng dạy. Do đó trong khi hệ thống hóa giáo viên có thể phải giảng giải sơ qua để học sinh hiểu được ít nhiều kiến thức về các khái niệm đó và tạo ra một hệ thống tri thức tương đối đầy đủ hơn. Tìm ra một hệ thống tri thức của môn Giáo dục công dân là việc làm không hề đơn giản và dễ dàng, ở đây đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ khái quát, trừu tượng cao và sự cố gắng lớn, nắm chắc toàn bộ chương trình bộ môn ở một khối lớp. Những điều nêu trên cho chúng ta thấy rằng trong hệ thống hóa kiến thức giáo viên có thể bỏ qua nhiều chi tiết không quan trọng, 8 không cần thiết ở các bài giảng, những kiến thức có thể được suy ra từ kiến thức cơ bản khác. Song giáo viên phải giúp học sinh biết suy luận từ kiến thức đó. Ví dụ: Sau khi học xong bài 4,5,6 chương trình GDCD lớp 10 các em cần nắm được nội dung và biết vận dụng các quy luật về sự phát triển của thế giới vật chất, hiểu được nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng vận động phát triển của sự vật hiện tượng. Củng cố nội dung cơ bản của ba quy luật triết học giáo viên phân công nhiệm vụ cho ba nhóm mỗi nhóm tìm hiểu nội dung của một quy luật thông qua câu chuyện Vượt Vũ Môn. Để có hệ thống hóa tốt người giáo viên phải dựa vào chương trình môn học thể hiện ở sách giáo khoa, giáo viên bám sát vào tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Giáo dục công dân trung học phổ thông; Chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Song điều này không có nghĩa là bắt buộc giáo viên phải tuyệt đối tuân theo. Giáo viên có thể tự mình tìm ra cách hệ thống hóa tối ưu phù hợp với nội dung giảng dạy theo chương trình và đối tượng học sinh, đặc biệt là những tri thức mới được đưa vào chương trình môn học. Chẳng hạn như tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào chương trình môn Giáo dục công dân lớp10, lớp11, lớp12. Chương trình môn học Giáo dục công dân nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản và thiết thực, những kiến thức đó cũng được giới hạn ở một phạm vi nhất định. Mục đích của hệ thống hóa là vạch ra sự liên kết hữu cơ giữa các kiến thức của một số bài, một chương một phần hay toàn bộ chương trình. Cho nên giáo viên phải có cách nhìn toàn diện, tổng hợp, khái quát toàn bộ kiến thức học sinh đã, đang và sẽ học. Từ đó giáo viên mới có thể tìm ra được cách hệ thống hóa kiến thức tốt nhất, giúp học sinh hiểu và nắm được kiến thức. Phát hiện ra mối liên hệ và tác động qua lại, sự vận động và phát triển của các phạm trù, khái niệm sẽ làm cho trình độ nhận thức của học sinh từng bước được nâng cao và đó chính là cơ sở để hình thành phát triển tư duy lý luận. 9 Chẳng hạn, những kiến thức về sự phát triển của tự nhiên và sự phát triển của xã hội bổ sung cho những kiến thức về sự phát triển của thế giới, làm cho kiến thức này được mở rộng và đào sâu. Sự phát triển của tự nhiên và xã hội tuân theo những quy luật phát triển chung nhất của thế giới, góp phần làm cho thế giới ngày càng phong phú, đa dạng, phát triển. Ngược lại sự phát triển của thế giới tạo ra những tiền đề thiết yếu cho sự phát triển của tự nhiên và xã hội, trong đó có con người. Không có sự phát triển của tự nhiên và xã hội bên ngoài sự phát triển của thế giới khách quan. Cũng không có sự phát triển của thế giới khách quan bên cạnh sự vận động của tự nhiên và xã hội. Hệ thống hóa kiến thức như vậy giáo viên sẽ hình thành ở học sinh cách xem xét của bất kỳ sự vật hiện tượng nào hay quá trình nào của bất kỳ sự tác động qua lại với nhau, do đó dần dần hình thành ở họ tư duy biện chứng. Thông thường giáo viên sử dụng phổ biến phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp trực quan bằng sơ đồ hay mô hình hóa để hệ thống hóa kiến thức. Ngoài ra chúng ta cần phải kết hợp với nhiều phương pháp khác như đàm thoại. Trong giờ giảng cùng với việc ôn lại kiến thức đã học giáo viên cần mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh. Chẳng hạn, giáo viên có thể giảng thêm về các quy luật, các quy luật đó là chung nhất và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tư duy và hành động của mình con người đều phải tuân theo, vận dụng chúng vào thực tiễn nhằm mục đích cải tạo thế giới khách quan phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người. Để học sinh tham gia tích cực vào bài giảng giáo viên đặt ra những câu hỏi hướng vào việc vạch ra mối liên hệ hữu cơ giữa các kiến thức cơ bản hình thành và phát triển tư duy khoa học ở mỗi học sinh. Mặt khác, nếu sử dụng mô hình hóa, trong giờ giảng giáo viên cần lý giải rõ ràng để học sinh thấy rõ quan hệ biện chứng giữa các khái niệm. Ví dụ: Khi sử dụng mô hình hóa về sự vận động của vật chất trong không gian và thời gian theo năm hình thức được sắp xếp theo thứ tự từ hình thức vận động thấp đến hình thức vận động cao giáo viên cần lý giải để học sinh nắm 10 được vật chất luôn luôn vận động theo các hình thức đó. Các hình thức vận động có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện nhất định. Hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm hình thức vận động thấp, không thể có diễn biến trường hợp ngược lại. Vì vậy khi xem xét các sự vật hiện tượng, quá trình của thế giới khách quan phải xem xét chúng trong trạng thái vận động, chứ không thể trạng thái đứng im. Muốn bài giảng hệ thống hóa tốt giáo viên phải chuẩn bị tốt không chỉ cho bản thân mà cho cả học sinh. Đối với học sinh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách tập hợp, sắp xếp các kiến thức cơ bản trong mỗi bài đã học thành một hệ thống theo chương trình sao cho có thể thấy rõ mối liên hệ giữa các kiến thức. Giáo viên có thể phân công học sinh thành từng nhóm để các em chuẩn bị từng cụm bài được chu đáo, kỹ càng, sâu sắc hơn. Chẳng hạn như học xong bài 13: Công dân với cộng đồng các em sẽ phải thấy được rõ trách nhiệm của công dân với cộng đồng. Để khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng, phát huy năng lực của học sinh giáo viên giao cho các nhóm cùng xây dựng một kịch bản và đóng kịch tình huống do giáo viên gợi ý là có một vụ tai nạn giao thông bản thân các em là người được chứng kiến, các em sẽ xử lý như thế nào? Nhiệm vụ của học sinh là sẽ phải phân công nhiệm vụ cho từng bạn trong mỗi nhóm. Thông qua đó mỗi học sinh sẽ vận dụng nội dung của bài học để nhận xét, đánh giá những hành vi sống có trách nhiệm với cộng đồng, đồng thời những hành vi vô trách nhiệm sẽ bị lên án và phê phán. Trong đóng vai sẽ phát triển được các năng lực tiềm tàng trong mỗi học sinh như năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo,năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư nhận thức và điều khiển hành vi phù hợp với pháp luật và các chuẩn mực đạo đức. Trên cơ sở đó khi lên lớp giáo viên tổng hợp lại sự chuẩn bị của học sinh tạo ra hệ thống hoàn chỉnh, kiến thức cơ bản, có điều kiện về thời gian nâng cao nhận thức cho các em. Sự chuẩn bị như vậy sẽ góp phần rất quan trọng phát huy năng lực tư duy độc lập, tính tích cực chủ động của học sinh, vừa củng cố được kiến thức, lại vừa nâng cao tầm hiểu biết cho các em. 11 - Các em sẽ tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn. - Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn; biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt động học tập của bản thân và bạn bè. - Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; xây dựng và thực hiện các kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế. 2.2.2. Ôn tập. Hệ thống hóa và ôn tập có liên quan với nhau rất chặt chẽ. Nhờ có hệ thống hóa giúp cho học sinh mang lại hiệu quả trong học tập. Ôn tập là hình thức củng cố, bổ xung hoàn chỉnh kiến thức đã học và giúp học sinh nắm vững và vận dụng các kiến thức đó vào thực tiễn. Mỗi môn học có cách ôn tập riêng của mình tùy thuộc vào đặc trưng của môn học. Ôn tập môn toán giúp cho học sinh nắm được các định lý, tiên đề…Còn ôn tập với môn Giáo dục công dân nhằm giúp học sinh nắm vững và hiểu các phạm trù, khái niệm, quy luật mang tính trừu tượng, khái quát cao rất khó hiểu và biết vận dụng chúng vào việc nhận thức và giải thích những vấn đề trong đời sống của các em và diễn ra xung quanh các em. Đương nhiên những kiến thức đó là những kiến thức cơ bản, thiết thực và chỉ yêu cầu học sinh biết giải thích, nhận thức những vấn đề cụ thể, không quá phức tạp của cuộc sống hàng ngày. Ôn tập phải được thường xuyên phải được nhắc đi nhắc lại. Song ôn tập ở đây là ôn tập sau khi đã học được một phần chương trình, chứ không phải ôn tập từng bài. Ôn tập giúp cho việc nhớ và hiểu sâu kiến thức. Càng nhớ kiến thức bao nhiêu thì càng có điều kiện hiểu sâu kiến thức bấy nhiêu. Ngược lại càng hiểu sâu kiến thức bao nhiêu thì học sinh càng nhớ sâu kiến thức bấy nhiêu. Nhớ đi tới hiểu sâu kiến thức, tức là có thể tự mình diễn đạt chính xác tri 12 thức cơ bản bằng ngôn ngữ của bản thân. Để làm được điều đó thì học sinh phải hiểu sâu kiến thức cơ bản, trước tiên là học sinh phải nhớ chính xác nội dung cơ bản của kiến thức. Mặt khác, giáo viên phải đưa ra những tình huống cụ thể trong thực tiễn gần gũi với học sinh và hướng dẫn các em dùng những kiến thức đã học để giải thích nó, giúp học sinh từng bước hiểu sâu kiến thức. Đối với kiến thức trừu tượng và khái quát cao của môn Giáo dục công dân việc hiểu và nhớ kiến thức cơ bản không phải là điều dễ dàng nên trong ôn tập giáo viên cần phải nghiêm túc tuân thủ theo nguyên tắc: Lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành. Ôn tập không có nghĩa là nhắc lại hoàn toàn tất cả những kiến thức đã học, không có nghĩa là hệ thống hóa kiến thức, mà chỉ nhắc lại những kiến thức cơ bản, khái quát hơn. Cho nên trong ôn tập giáo viên cần chọn lọc kiến thức cơ bản sao cho kiến thức đó bao quát được kiến thức khác. Muốn làm được điều đó giáo viên phải dựa vào nội dung chương trình môn học. Giáo viên có thể dùng các hình thức khác nhau để ôn tập. Ôn tập có thể bằng cách nhắc lại những kiến thức cơ bản như định nghĩa, khái niệm, phạm trù, nêu lại những quy luật, luận điểm khó. Giáo viên có thể hướng dẫn và cùng học sinh phân tích, chứng minh một luận điểm. Cũng có thể ôn tập dưới hình thức so sánh các sự vật, hiện tượng, quá trình từ đó làm nổi bật bản chất của chúng. Chẳng hạn trong chương trình Giáo dục công dân lớp 11, cụm bài Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh so sánh bản chất của Chủ nghĩa tư bản với Chủ nghĩa xã hội… Thực tế cho thấy, một bài ôn tập của môn Giáo dục công dân đạt hiệu quả khi giáo viên biết lựa chọn những kiến thức trọng tâm, trong đó bao hàm được nhiều kiến thức khác hoặc từ chúng có thể suy ra những kiến thức. Đồng thời trên cơ sở đó giáo viên có thể đặt ra cho học sinh các bài tập vận dụng, để giải quyết nó học sinh phải vận dụng tổng hợp những kiến thức đã học. Trong giờ ôn tập, giáo viên cần động viên học sinh tham gia chủ động và tích cực. Nhưng muốn làm được như vậy, trước khi ôn tập giáo viên cần nêu ra cho học sinh một hệ thống câu hỏi và bài tập vận dụng, trong đó bao gồm 13 toàn bộ những kiến thức cơ bản hoặc phải vận dụng những tri thức tổng hợp. Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn các em cách trả lời các câu hỏi và bài tập, giúp các em có phương pháp tư duy khoa học. Nếu sự chuẩn bị của thầy và trò đều tốt thì trên lớp giáo viên chỉ còn làm nhiệm vụ tổng kết, bổ xung khắc sâu tri thức cho học sinh thông qua sự tổng kết đó. Giờ ôn tập chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao. Như vậy đổi mới hình thức củng cố để hoàn thiện tri thức, rèn kỹ năng, kỹ xảo theo định hướng phát triển năng lực trong giảng dạy môn Giáo dục công dân có ý nghĩa giáo dục to lớn là giúp cho học sinh tiếp thu bài một cách sâu sắc, hiểu được bản chất của vấn đề. Từ đó các em biết cách dựa vào lý luận đã học để giải thích hiện tượng thực tế và ngược lại biết dựa vào hiện tượng đời sống thực tế để rút ra kết luận như nội dung bài học, dần dần hình thành niềm tin vào môn học, hình thành ý thức trách nhiệm công dân. 2.3. Thực trạng về dạy và học môn Giáo dục công dân hiện nay Giáo dục công dân (GDCD) trong chương trình giáo dục phổ thông đóng vai trò to lớn trong việc giáo dục học sinh ý thức và hành vi người công dân, góp phần trang bị cho học sinh năng lực để tự điều chỉnh bản thân trong xã hội hiện đại... Tuy nhiên, vấn đề dạy và học bộ môn này trong nhà trường hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất cập. Học sinh dường như không mấy mặn mà với môn Giáo dục công dân. Có nhiều lý do khác nhau để lý giải thực tế này, nhưng chủ yếu hầu hết học sinh đều quan niệm môn học này là môn phụ. Hơn nữa, môn học này không có mặt trong các kỳ thi quan trọng như thi tốt nghiệp hay thi đại học nên học sinh thường học chỉ để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức đằng sau mỗi bài học. Chính vì vậy, việc học và dạy môn GDCD chưa đạt được kết quả như mong muốn. Thời lượng dành cho môn GDCD chỉ có 1 tiết/ tuần mà kiến thức thì nhiều nên học sinh càng cảm thấy ngại học. Không những thế, giáo viên không 14 có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ cho học sinh một nội dung, vấn đề nào đó mà học sinh có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn. Thời gian không nhiều, thời lượng chương trình trong sách giáo khoa phải đảm bảo nên việc dạy học mang nặng tính “cưỡi ngựa xem hoa”, làm sao để trả bài đầy đủ. Hiện nay, cả người quản lý và người dạy đều chưa nhận thức hết tầm quan trọng của bộ môn đã góp phần quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách của học sinh. Môn GDCD chưa được xem như một công cụ để hỗ trợ cho học sinh, đem kiến thức học được trong nhà trường vận dụng, giải quyết những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống. Nội dung, chương trình của môn học GDCD còn nhiều điều chưa hợp lý, nặng giáo dục chính trị, nhẹ giáo dục kỹ năng sống, coi trọng lý thuyết, chưa chú ý vận dụng, thực hành, chưa yêu cầu thể hiện qua việc làm và hành vi cụ thể trong đời sống. Nhiều bài học trong sách giáo khoa GDCD còn khô khan, gượng ép, chưa phù hợp với đặc điểm tâm lí, tình cảm của học sinh. Mặt khác, một số kiến thức triết học, kinh tế, chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học... còn khá trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh phổ thông, chưa chú ý đúng mức tính liên thông, tích hợp nội dung dạy học môn GDCD với các môn học khác. Bên cạnh đó, kết quả việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá chưa rõ, chủ yếu vẫn dạy chay, thuyết trình, đọc chép, độc thoại một chiều; rao giảng đạo lý; lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn giảng dạy, thiếu sáng tạo trong tổ chức các hoạt động dạy học. Không những thế, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập còn nặng về hình thức, phổ biến vẫn là kiểm tra kiến thức, chưa chú trọng kiểm tra đánh giá năng lực, phẩm chất của học sinh. Rõ ràng, Giáo dục công dân là môn học quan trọng, cần thiết, là nền tảng để người công dân làm người, thực hiện bổn phận đối với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên. Thông qua đó, không chỉ trang bị cho người học những tri thức đạo đức mà điều quan trọng là rèn luyện 15 cho học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi quan hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội... Theo PGS.TS Ngô Đình Xây – Ban Tuyên giáo T.Ư - bất kỳ ở đâu và ở bất kỳ thời đại nào, vấn đề giáo dục đạo đức công dân bao giờ cũng phải được chú ý và là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động và sự hưng thịnh của một quốc gia, một chế độ. Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, vấn đề giáo dục đạo đức công dân, đặc biệt cho lứa tuổi học sinh càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Không phải ngẫu nhiên mà tại Liên Hợp Quốc, UNESCO đã tổ chức hội thảo với tiêu đề “Giáo dục đạo đức phải trở thành vấn đề quan trọng” qua đó khẳng định vai trò quan trọng của việc tăng cường trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở tất cả các khu vực trên toàn cầu. Cũng chính vì lẽ đó mà từ năm 2011, UNESCO đã thúc đẩy việc thành lập Hiệp hội quốc tế về đạo đức. Thực trạng dạy và học, nội dung, chương trình... của môn GDCD còn nhiều bất cập, cho thấy môn học làm người chưa được nhìn nhận và quan tâm đúng mức. Đặc biệt khi ngành Giáo dục đang thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông cũng như đổi mới chương trình giáo dục đạo đức – công dân sau năm 2015. Trong tổ chức dạy học môn Giáo dục công dân ở bước củng cố là một trong năm bước lên lớp nhưng trong thực tế giảng dạy giáo viên thường không chú trọng bước củng cố bài học, thực hiện qua loa, thậm chí còn bị cắt xén. Trong bước củng cố thì hệ thống hóa và ôn tập có liên quan với nhau rất chặt chẽ. Nhờ có hệ thống hóa giúp cho học sinh mang lại hiệu quả trong học tập. Ôn tập là hình thức củng cố, bổ xung hoàn chỉnh kiến thức đã học và giúp học sinh nắm vững và vận dụng các kiến thức đó vào thực tiễn, rèn kĩ năng, định hướng phát triển năng lực . 3. Các giải pháp đổi mới hình thức củng cố theo định hƣớng phát triển năng lực trong một số chủ đề môn Giáo dục công dân THPT. 16 BÀI 1: THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT VÀ PHƢƠNG PHÁP LUẬN BIỆN CHỨNG I. Mục tiêu bài học: 1.Về Kiến thức: - Nhận biết được chức năng của thế giới quan, phương pháp luận của Triết học. - Nhận biết được nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. - Nêu được chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. 2.Về Kỹ năng - Nhận xét, đánh giá những biểu hiện quan điểm duy vật hoặc duy tâm, phương pháp luận biện chứng hoặc phương pháp luận siêu hình trong cuộc sống hàng ngày. 3. Về Thái độ - Có ý thức trau dồi thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. II. Hệ thống bài tập củng cố: 1. Theo em thế giới quan duy tâm là gì ? Thế giới quan duy vật là gì ? Em hãy vẽ sơ đồ vấn đề cơ bản của triết học ? Vấn đề cơ bản của TH Mối quan hệ giữa VC-YT VC YT YT VC TGQ duy tâm TGQ duy vật 17 Không nhận thức đƣợc TG Nhận thức đƣợc TG Khẳng định: TGQ duy vật có vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, nâng cao vai trò của con người đối với giới tự nhiên và sự tiến bộ của xã hội. Ngược lại thế giới quan duy tâm thường là chỗ dựa về lí luận cho lực lượng xã hội đã lỗi thời kìm hãm sự phát triển của xã hội. 2. Nhà triết học người Anh G. Béc- cơ-li (1658- 1753) cho rằng : “Tồn tại là cái được cảm giác”.(Có nghĩa là không có sự vật nằm ngoài cảm giác,mọi sự vật chỉ tồn tại trong chừng mực người ta cảm giác được nó). Theo em ông có thế giới quan nào ? Vì sao ? - Đây là TGQ duy tâm - Bởi vì ông cho rằng cảm giác là cái có trước sự vật hiện tượng phụ thuộc vào cảm giác, nếu sự vật hiện tượng quá nhỏ bé mà các giác quan không cảm nhận được thì cũng có nghĩa là sự vật hiện tượng ấy không có thực, không tồn tại trong thế giới này. - Quan điểm này của G. Béc- cơ-li là sai lầm. 3. Có học sinh cho rằng: " Muốn học giỏi phải chăm đi lễ chùa trời phập sẽ phù hộ". Theo em quan niệm đó đúng hay sai? làm thế nào để có thế giới quan duy vật đúng đắn? Mỗi chúng ta cần phải trang bị cho mình tri thức khoa học. Vì tri thức càng phong phú, dồi dào bao nhiêu thì càng hình thành niềm tin một cách đúng đắn, trong sáng bấy nhiêu. Nó càng có tác dụng định hướng đúng đắn cho các hoạt động của con người. Ngược lại, chúng ta không tích cực trang bị tri thức khoa học cho mình. Nếu vốn hiểu biết của chúng ta nghèo nàn thấp kém, nông cạn thì niềm tin sẽ không có cơ sở vững chắc, dẫn đến hành động của chúng ta sẽ không hợp lý, hiệu quả không cao, thậm chí dẫn đến sai lầm. 18 CỤM BÀI: NGUỒN GỐC, CÁCH THỨC, KHUYNH HƢỚNG VẤN ĐỘNG PHÁT TRIỂN CỦA SỰ VẬT HIỆN TƢỢNG I. Mục tiêu bài học 1. Về kiến thức - Nêu được khái niệm mâu thuẫn theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - Biết được sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc khách quan của mọi sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng - Nêu được khái niệm chất và lượng của sự vật, hiện tượng. - Biết được mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng. - Nêu được khái niệm phủ định, phủ định biện chứng và phủ định siêu hình. - Biết được phát triển là khuynh hướng chung của sự vật và hiện tượng. 2. Về kĩ năng Biết phân tích một số mâu thuẫn trong các sự vật và hiện tượng Chỉ ra được sự khác nhau giữa chất và lượng, sự biến đổi của lượng và chất. - Liệt kê được sự khác nhau giữa phủ định biện chứng và phủ định siêu hình. - Mô tả được hình “xoắn ốc” của sự phát triển. 3. Về thái độ -Có ý thức tham gia giải quyết một số mâu thuẫn trong cuộc sống phù hợp với lứa tuổi -Có ý thức kiên trì trong học tập và rèn luyện, không coi thường việc nhỏ, tránh các biểu hiện nôn nóng trong cuộc sống. - Phê phán thái độ phủ định sạch trơn quá khứ hoặc kế thừa thiếu chọn lọc đối với cái cũ. - Ủng hộ cái mới, bảo vệ cái mới, cái tiến bộ. Trong các chủ đề 4, 5, 6 trong chương trình giáo dục công dân lớp 10 có mối quan hệ mật thiết với nhau. Yêu cầu về kiến thức các em phải hiểu được nội 19 dung ba quy luật về sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Từ đó các em hình thành các kỹ năng phân tích một số các mâu thuẫn trong cuộc sống, có ý thức kiên trì trong học tập, biết ủng hộ cái mới, bảo vệ cái mới, cái tiến bộ. II. Hệ thống bài tập củng cố 1. Sơ đồ: Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật hiện tƣợng Sự vật hiện tƣợng (chứa đựng hai mặt đối lập) Thống nhất – Đấu tranh Mâu thuẫn Giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh Sự vật, hiện tƣợng mới 2.Em hãy vẽ bức tranh thể hiện mâu thuẫn của bản thân em trong học tập 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan