Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Sach_tom tat vn 6.4.15 final

.PDF
32
307
114

Mô tả:

Dự án Hỗ trợ giảm nghèo đa chiều khu vực đô thị thành phố Hồ Chí Minh Tóm tắt tổng quan PHAÂN TÍCH NGHEØO ÑOÂ THÒ Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 2009 và 2012 Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12/2014 LỜI CẢM ƠN Ấn phẩm Phân tích nghèo đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 2009 và 2012 được soạn thảo trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ giảm nghèo đa chiều khu vực đô thị thành phố Hồ Chí Minh do Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ với cơ quan chủ quản là Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và cơ quan thực hiện dự án là Ban Chỉ đạo Chương trình Giảm nghèo, tăng hộ khá thành phố. Ấn phẩm phân tích dựa trên kết quả hai cuộc Khảo sát Nghèo đô thị năm 2009 và 2012 do Cục Thống kê thành phố Hà Nội và Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh thực hiện dưới sự tài trợ của UNDP cho thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thông qua Dự án “Đánh giá sâu về nghèo đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh” từ năm 2008-2011. Ấn phẩm cũng đã tham khảo, kế thừa các kết quả từ báo cáo về kết quả Khảo sát nghèo đô thị 2009: “Đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh năm 2009”. Báo cáo này do Tiến sĩ Jonathan Haughton (Đại học Suffolk – Hoa kỳ), Tiến sĩ Nguyễn Phong và Tiến sĩ Lê Thị Thanh Loan thực hiện. Chúng tôi xin chân thành cám ơn các tổ chức và cá nhân trên đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành báo cáo này. Kết quả chi tiết của báo cáo có thể tiếp cận trực tuyến tại website Ban Chỉ đạo Chương trình Giảm nghèo, tăng hộ khá thành phố www. bcdctgiamngheo.hochiminhcity.gov.vn. BAN BIÊN TẬP Nội Dung LỜI GIỚI THIỆU TÓM TẮT TỔNG QUAN 1 Nhân khẩu học 3 Giáo dục 4 Y tế 6 Việc làm và lực lượng lao động 8 Thu nhập và chi tiêu 10 Nhà ở 12 Đồ dùng lâu bền 13 Nghèo 14 Đối phó với những khó khăn 17 Tham gia hoạt động xã hội 19 Khuyến nghị 21 TÓM TẮT TỔNG QUAN PHÂN TÍCH NGHÈO ĐÔ THỊ Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 2009 và 2012 Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 2 thành phố lớn nhất Việt Nam. Trong năm 2012, dân số tại 2 thành phố này dao động từ 6,8 – 7,7 triệu người, chiếm khoảng 16% dân số cả nước. Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2008 (VHLSS-08), chỉ 2,4% dân số Hà Nội và 0,3% dân số thành phố Hồ Chí Minh đang sống dưới chuẩn nghèo quốc gia so với 15% dân số Việt Nam đang sống dưới chuẩn nghèo quốc gia. Kết quả về tỷ lệ nghèo thấp tại các thành phố lớn này đã bị phê phán là VHLSS-08 đã khảo sát thiếu các đối tượng di cư, là các đối tượng được cho là tương đối nghèo. Khảo sát nghèo đô thị năm 2009 (UPS-09) đã được thực hiện nhằm làm rõ hơn các vấn đề này. Phiếu khảo sát được sử dụng có nội dung như phiếu khảo sát của VHLSS, nhưng được chú ý đặc biệt nhằm đảm bảo để cuộc khảo sát có thể bao phủ hết nhóm đối tượng di cư đang sinh sống tại hai thành phố bằng cách chọn nhiều đối tượng này hơn vào mẫu khảo sát. Số mẫu khảo sát cá nhân đang sinh sống một mình cũng được tăng lên. Cuộc khảo sát đã đưa ra một kết quả rất bất ngờ là nếu phúc lợi của người dân được đo lường thông qua thu nhập hoặc chi tiêu bình quân đầu người thì nhóm di cư sẽ không nghèo hơn nhóm dân thành thị. Mặt khác, nếu áp dụng phương pháp đo nghèo đa chiều thì nhóm di cư sẽ nghèo hơn nhóm dân thành thị, và nghèo đã lan rộng hơn tại thành phố Hồ Chí Minh so với Hà Nội. 1 Khảo sát nghèo đô thị năm 2012 (UPS-12) đã được thực hiện để theo dõi sự tiến triển của nghèo đói và phúc lợi tại hai thành phố chính này. Khảo sát nghèo đô thị năm 2012 đã lấy mẫu theo phương pháp phân tầng, mẫu được chọn riêng cho Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh: đầu tiên, tất cả các phường, xã của hai thành phố được chia thành hai tổ ưu tiên và không ưu tiên: tổ ưu tiên gồm những xã/phường có tỷ lệ hộ nghèo cao, tỷ lệ dân số KT4 cao, có tỷ lệ tăng dân số cao và có nhiều xí nghiệp với số lao động từ 300 lao động trở lên; tổ không ưu tiên gồm những phường/xã còn lại. Sau đó, sử dụng danh sách địa bàn điều tra của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 để lập danh sách địa bàn điều tra của từng tổ ưu tiên và không ưu tiên. Địa bàn điều tra mẫu của từng tổ được chọn theo xác suất tỷ lệ thuận với quy mô dân số. Sau đó, một mẫu ngẫu nhiên của 12 - 15 hộ gia đình (cộng thêm một số cá nhân) đã được rút ra từ mỗi địa bàn của 160 địa bàn điều tra mẫu. Thông tin chi tiết về cỡ mẫu được thể hiện trong Bảng ES1. Khảo sát nghèo đô thị 2009 chỉ khảo sát Hà Nội “cũ”, trước khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính trong năm 2008, do đó để đảm bảo tính so sánh, chúng tôi chỉ sử dụng kết quả khảo sát Hà Nội “cũ” từ Khảo sát nghèo đô thị 2012. Các số liệu trong báo cáo này đã tính theo quyền số chọn mẫu. Tóm tắt tổng quan này đưa ra các kết quả khảo sát chính; các thông tin chi tiết có trong báo cáo chính và phụ lục thống kê. Chú thích chuyên môn: Trong báo cáo này chúng tôi sẽ gọi những người có hộ khẩu tại Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh là dân thường trú. Tất cả những người còn lại sẽ là dân di cư, là những cư dân của thành phố nhưng đăng ký hộ khấu thường trú tại các tỉnh, thành phố khác. Chúng tôi cũng chia các hộ gia đình thành 5 nhóm có số hộ bằng nhau, sử dụng thu nhập bình quân đầu người để xếp các hộ từ nhóm nghèo nhất (Nhóm 1) đến nhóm giàu nhất (Nhóm 5). 2 Bảng ES1. Số hộ gia đình và cá nhân được phỏng vấn trong UPS-09 và UPS-12 Tổng cộng Số địa bàn điều tra Số hộ gia đình 2009 2012 (tất cả) 2012 (chỉ Hà Nội “cũ”) Số nhân khẩu 2009 2012 (tất cả) 2012 (chỉ Hà Nội “cũ”) Hà Nội 160 TP. Hồ Chí Minh Dân thường trú Dân di cư 80 80 3.349 2.903 2.273 1.637 1.400 770 1.712 1.503 1.503 1.610 2.258 1.702 1.739 645 571 8.208 9.073 6.828 4.197 4.616 2.371 4.011 4.457 4.457 5.859 7.641 5.479 2.349 1.432 1.349 Ghi chú: Hà Nội “cũ” là Hà Nội trước khi mở rộng địa giới hành chính trong năm 2008 NHÂN KHẨU HỌC Có những điểm khác nhau trong mô tả sơ lược về nhân khẩu học của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh: tại Hà Nội, hộ gia đình hơi lớn hơn (3,4 so với 3,1 người), tỷ lệ nữ trong dân số lại thấp hơn (50% so với 53%), tỷ lệ người trên 13 tuổi đã lập gia đình cao hơn (67% so với 58%), và mỗi thành viên đang làm việc của hộ phải hỗ trợ nhiều người phụ thuộc hơn (0,64 so với 0,48). Ngoài ra, còn có một sự khác biệt nổi bật: tại thành phố Hồ Chí Minh số lượng dân di cư tương đối nhiều. Khảo sát nghèo đô thị 2009 đã phân loại 11% người dân Hà Nội là dân di cư, trong khi đó tại thành phố Hồ Chí Minh là 21%; trong Khảo sát nghèo đô thị 2012, các tỷ lệ này lần lượt là 5% và 16%. Tỷ lệ người di cư qua cuộc khảo sát trong năm 2012 tương đối nhỏ. Nguyên nhân có thể là do sự thay đổi về mẫu hay cũng có thể là do một số người di cư trước đây đã có được giấy phép cư trú nên không còn xếp vào nhóm di cư. 3 Tỷ lệ phần trăm của mẫu trong nhóm 20% 16% 12% 8% 4% 0% 0-4 5-9 10-1415-1920-2425-2930-3435-3940-4445-4950-5455-59 60+ Đăng ký thường trú Di cư (Đăng ký tạp tp, tỉnh khác) Hình ES1. Phân tích về mẫu UPS-12 theo độ tuổi và tình trạng đăng ký hộ khẩu Nhóm dân di cư có 3 điểm chính khác biệt so với nhóm dân thường trú như sau. Họ đa phần là thanh niên: 70% ở độ tuổi 15-39, trong khi tỷ lệ ở nhóm này của dân thường trú là 38%, theo Hình ES1. Hộ gia đình có số lượng thành viên nhỏ hơn, bình quân là 2,4 người so với 3,9 người của nhóm thường trú. Và dân di cư có tỷ lệ phụ thuộc thấp hơn: mỗi thành viên đang làm việc trong hộ chỉ hỗ trợ 0,23 thành viên không làm việc, trong khi tỷ lệ này của dân thường trú là 0,58. GIÁO DỤC Hà Nội là trung tâm giáo dục lớn. Mặc dù có dân số ít hơn thành phố Hồ Chí Minh 10%, Hà Nội vẫn có số lượng học sinh tương đương và số lượng sinh viên đại học lớn hơn một phần năm so với thành phố Hồ Chí Minh, và điều này đúng với cả hai năm 2009 và 2012. Sự nhấn mạnh vào giáo dục này đã có bằng chứng trong Khảo sát nghèo đô thị 2009, và một lần nữa 4 được thấy rất rõ trong các phát hiện của Khảo sát nghèo đô thị 2012, như tóm tắt trong Bảng ES2. Mặc dù tỷ lệ người biết chữ cao và tương đương ở hai thành phố nhưng tỷ lệ người lớn có bằng cao đẳng hay đại học của Hà Nội cao gần gấp đôi thành phố Hồ Chí Minh (29,2% so với 15,6%), và các hộ gia đình ở Hà Nội có xu hướng chi cho giáo dục nhiều hơn (2,1 triệu đồng bình quân đầu người mỗi năm, so với 1,5 triệu đồng). Bảng ES2. Tiếp cận và kết quả giáo dục % người lớn Tỷ lệ biết chữ (%) Tổng cộng Báo cáo 2009: Tổng cộng Hà Nội TP. HCM Nam Nữ Dân thường trú Dân di cư Nhóm 1 (nghèo) Nhóm 5 (giàu) Không có bằng cấp Cao đẳng/ Đại học Đào tạo nghề Tỷ lệ đi học (đúng tuổi) 97,5 9,0 1,6 20,0 98,5 96,6 98,3 97,1 98,3 96,8 97,5 97,3 91,7 98,8 9,4 3,4 11,7 6,8 11,0 8,9 9,6 15,2 2,4 2,0 1,4 1,2 1,9 1,6 1,7 0,4 2,7 17,0 29,2 15,6 22,3 18,0 21,5 10,6 3,0 43,7 96,6 99,6 98,0 98,8 98,3 98,7 93,8 Chi cho giáo dục (triệu đồng /người /năm) % được miễn giảm học phí 1,7 30,7 2,1 1,5 1,9 1,0 1,0 2,8 27,0 31,7 30,2 30,5 34,0 30,2 31,2 34,4 32,1 Chú thích: Người lớn: dân số từ 15 tuổi trở lên Tỷ lệ đi học đúng tuổi: bao gồm tất cả các cấp từ mẫu giáo cho tới trung học phổ thông Dân di cư biết chữ như dân thường trú nhưng họ ít có trình độ cao đẳng hoặc đại học hơn (10,6% so với 21,5%), và con cái họ cũng có ít khả năng được đi học hơn (tỷ lệ đi học đúng tuổi là 93,8% so với 98,7%). Có một nghịch lý là dân di cư ít có khả năng cho con đi học ở các trường công lập hơn dân thường trú (82% so với 90%), nhưng chi bình quân cho giáo dục lại ít hơn; nguyên nhân có thể là do các hộ gia đình di cư có ít trẻ em trong độ tuổi đi học hoặc chỉ chi cho những khoản bắt buộc. 5 Còn có sự khác biệt về giới trong trình độ học vấn: phụ nữ ít biết chữ hơn nam giới, bỏ học trước khi tốt nghiệp nhiều hơn đáng kể, và có bằng cao đẳng hay đại học trở lên ít hơn (18% so với 22,3%); Sự chênh lệch này tương tự như trong Khảo sát nghèo đô thị năm 2009 (15% so với 20%), mặc dù trình độ giáo dục đang tăng lên khá nhanh ở cả hai giới. Trong tất cả các sự khác biệt giữa các hộ nghèo (Nhóm 1 của phân bố thu nhập bình quân đầu người) và hộ giàu (Nhóm 5), có lẽ nổi bật nhất là về trình độ học vấn. Có 15% người nghèo rời trường học mà không có bằng cấp nào so với 2% của người giàu; và chỉ có 3% người nghèo có bằng cao đẳng trở lên so với 44% của người giàu. Điều này nhất quán với quan niệm cho rằng giáo dục chính là con đường thoát nghèo. Nhưng người giàu cũng có khả năng hơn trong chi trả chi phí giáo dục cho con em mình: chi cho giáo dục cao gấp ba lần so với người nghèo, từ đó có khả năng hơn trong hỗ trợ con em họ học cao hơn (người giàu có bằng cấp cao hơn người nghèo), giúp truyền kết quả giáo dục cao cho các thế hệ sau. Y TẾ Có gần ½ số người (46%) khai báo bị ốm/bệnh, chấn thương trong năm trước cuộc khảo sát, trong số này 72% đã đi khám, chữa bệnh. Số người khai báo bị ốm/bệnh, chấn thương cao hơn mức trung bình là ở Hà Nội (50%), là dân di cư (52%), và là phụ nữ (49%), nhưng tình trạng ốm/bệnh, chấn thương lại không chênh lệch xét theo tình trạng khá giả của hộ gia đình. Trong trường hợp bệnh tật hoặc chấn thương, dân thường trú được chăm sóc tốt hơn dân di cư (75% so với 53%), và phụ nữ được chăm sóc tốt hơn nam giới (75% so với 68%). 6 Bảng ES3. Tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế Tỷ lệ dân số trong năm qua: (%) Sử dụng dịch vụ y tế Chung Báo cáo 2009 Tổng cộng 38,4 Hà Nội TP. HCM Bị ốm/bệnh hay chấn thương Nếu ốm/bệnh, đã được chăm sóc Phần trăm của người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho việc Điều trị 66,8 Khám 23,7 Các hộ gia đình có bảo hiểm (%) 46,1 71,5 65,1 66,5 62,7 40,8 37,2 50,4 44,0 69,8 72,4 58,6 71,1 28,5 21,1 70,4 62,5 Nam Nữ 34,3 42,2 43,4 48,5 67,7 74,6 69,1 65,0 23,3 23,9 65,5 64,7 Dân thường trú Dân di cư 39,1 32,9 45,2 52,2 74,6 53,0 67,6 60,3 23,4 26,0 67,7 48,0 Nhóm 1 (nghèo) Nhóm 5 (giàu) 38,9 41,6 44,5 44,7 78,9 73,0 77,2 51,9 12,8 40,7 55,6 79,2 62,3 Hầu hết các lần đến các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế là để điều trị nhưng cũng có mục đích khác là tiêm phòng và khám bệnh. Mặc dù khoảng 2/5 các hộ giàu và hộ nghèo sử dụng các dịch vụ y tế trong năm 2012, nhưng chỉ có 13% nhóm hộ nghèo đến khám và kiểm tra tổng quát định kỳ – trong khi tỷ lệ này ở nhóm hộ giàu là 41%. 7 VIỆC LÀM VÀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Theo Khảo sát nghèo đô thị 2012, tỷ lệ người dân từ 6 tuổi trở lên có tham gia hoạt động kinh tế là 58%, có nghĩa là họ có thể đang có việc làm hoặc đang tìm kiếm công việc. Thông tin về độ tuổi tham gia lực lượng lao động được thể hiện trong Hình ES2: tỷ lệ người tham gia lao động vượt quá 90% trong độ tuổi 25-40, và giảm mạnh trong độ tuổi 55. Tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 17% đối với những người trên 60 tuổi, Trong hầu hết các độ tuổi, tỷ lệ tham gia lao động của người di cư cao hơn so với dân thường trú (xem Hình ES2), đặc biệt là thanh thiếu niên, và những người trên 55 tuổi. Trong số các đối tượng không tham gia lao động, 2,8% cho biết họ không thể tìm được công việc; trong các trường hợp khác các đối tượng không tham gia lao động vì họ còn nhỏ hay đang còn đi học (50%), đã nghỉ hưu (26%), hoặc là nội trợ (14%). Tỷ lệ nam giới tham gia lao động cao hơn nữ giới (63% so với 54%), và nhóm hộ giàu có tỷ lệ tham gia lao động cao hơn nhóm hộ nghèo (66% so với 47%) - đây là yếu tố giải thích cho nguyên nhân tại sao một số hộ gia đình đang sống trong cảnh nghèo. Hình ES2. Lực lượng tham gia lao động theo độ tuổi và tình trạng hộ khẩu (%) 120 100 80 60 Dân thường trú Dân di cư 40 20 0 10-14 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60+ 8 Các thông tin hữu ích về việc làm được thể hiện trong Bảng ES3. Điều đầu tiên cần lưu ý là những thay đổi từ năm 2009 là khiêm tốn, nhưng khi có những thay đổi thì thay đổi đó nhìn chung là tích cực, ví dụ: những quyền lợi đi kèm với việc làm tăng lên, có nhiều hợp đồng lao động dài hạn được ký kết hơn. Có sự khác biệt rõ rệt trong cơ cấu lao động giữa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh: tại Hà Nội, tỷ lệ người lao động có bằng đại học nhiều hơn (31% so với 17%), tỷ lệ làm việc trong ngành công nghiệp hay xây dựng thấp hơn (25% so với 32%), và tỷ lệ làm việc cho nhà nước cao hơn (33% so với 14%). Nguyên nhân là do Hà Nội là thủ đô hành chính và chính trị, còn thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp và thương mại của Việt Nam. Bảng ES4. Trình độ lao động, loại, khu vực và quyền lợi Trình độ đại học Tổng cộng Báo cáo 2009: Tổng cộng Nhân viên văn phòng Chủ doanh Làm nghiệp công Làm việc trong lĩnh vực công nghiệp hay xây dựng Làm việc cho nhà nước Làm việc cho nhà đầu tư nước ngoài Phần trăm trên tổng số người tham gia hoạt động kinh tế (%) 21 30 3 72 30 20 7 Hợp đồng dài hạn Hưởng quyền lợi từ việc làm Thời gian làm việc/ tuần 28 48 49 18 28 5 66 35 19 9 22 41 51 Hà Nội TP HCM 31 17 39 26 4 3 69 73 25 32 33 14 7 6 37 25 51 46 45 51 Nam Nữ 22 20 30 30 4 3 76 68 33 27 22 18 5 8 31 26 50 45 50 49 Dân thường trú Dân di cư 24 9 33 13 4 2 70 80 26 50 23 5 6 8 32 13 49 42 48 54 Nhóm 1 (nghèo) Nhóm 5 (giàu) 3 7 2 62 29 9 3 10 25 47 48 57 6 77 27 33 8 50 68 49 9 Trái ngược với dân thường trú, tỷ lệ lao động di cư có bằng đại học rất thấp (9% so với 24%) và có xu hướng làm việc trong ngành công nghiệp hay xây dựng (50% so với 26%), hiếm khi làm việc cho cơ quan nhà nước (5% so với 23%), và ít khi được ký hợp đồng làm việc dài hạn (13% so với 32%). Như đã nêu trong Báo cáo Khảo sát nghèo đô thị 2009, công việc của những lao động di cư có tay nghề kém tại các nhà máy thường không được đảm bảo lâu dài. Sự chênh lệch giữa những người trong nhóm nghèo nhất và những người trong nhóm giàu khá lớn. Hầu như không có người lao động nào thuộc nhóm nghèo có bằng đại học, tỷ lệ trở thành nhân viên văn phòng rất thấp, chỉ có ¼ được hưởng các chế độ phúc lợi đi đôi với công việc, và chỉ 10% có hợp đồng làm việc dài hạn. Đối với nhóm này, việc làm của họ vân còn bấp bênh, không ổn định. THU NHẬP VÀ CHI TIÊU Dân di cư có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn dân thường trú (bình quân 3,94 triệu đồng/ tháng, so với 3,74 triệu đồng), theo Bảng ES5. Kết quả này đáng ngạc nhiên khi quan niệm phổ biến về dân di cư là nhóm có tay nghề tương đối thấp với trình độ giáo dục không cao, và khi kết quả của Khảo sát nghèo đô thị 2009 cho thấy dân di cư kiếm được ít tiền hơn dân thường trú. Nguyên nhân là do các hộ gia đình di cư có tỷ lệ phụ thuộc thấp; hơn nữa, lao động di cư làm việc trung bình 54 giờ mỗi tuần, so với 48 giờ của dân thường trú (xem Bảng ES4). 10 Bảng ES5. Đặc điểm của mức thu nhập và chi tiêu Bình quân thu nhập/ người/ tháng (Nghìn đồng) Tiền Bình quân chi tiêu/ người/ tháng lương (Nghìn đồng) của người lao % thu động nhập chân tay Tổng Lương Nhà Giáo Sức từ tiền (Nghìn số thực ở dục khỏe lương đồng) Tổng cộng Báo cáo 2009 Tổng cộng 3.782 62 4.037 2.472 1.393 440 143 71 2.404 57 2.241 1.853 1.010 287 118 143 Hà Nội TPHCM 3.931 3.710 58 64 3.723 4.173 2.812 2.308 1.565 1.311 509 407 178 127 107 54 Nam Nữ 3.774 3.793 61 63 4.283 3.447 2.501 2.429 1.392 1.395 455 419 140 148 77 63 Dân thường trú Dân di cư 3.747 3.942 58 78 3.976 4.281 2.302 3.216 1.383 1.446 332 909 157 85 78 42 Nhóm 1 (nghèo) 1.253 7.904 60 61 3.552 4.972 1.298 4.093 822 2.049 192 877 81 234 41 106 Nhóm 5 (giàu) Dân di cư có mức chi tiêu nhiều hơn đáng kể (bình quân đầu người) so với dân thường trú (3,2 triệu đồng so với 2,3 triệu đồng). Sự khác biệt này có thể được lý giải theo một thực tế là dân di cư thường có xu hướng thuê hơn là sở hữu nhà ở (xem Bảng ES5) và chi cho nhà ở gấp ba lần so với dân thường trú. Dân di cư cũng gửi nhiều tiền về nhà (363.000 đồng bình quân đầu người/tháng, chiếm gần 10% thu nhập người tháng), trong khi dân thường trú hiếm khi có một khoản chi phí như vậy (8.000 đồng bình quân đầu người tháng, chiếm 0,2% thu nhập). Số liệu từ Khảo sát nghèo đô thị 2012 cho thấy thu nhập (bình quân đầu người) tại Hà Nội cao hơn tại thành phố Hồ Chí Minh (3,93 triệu đồng so với 3,71 triệu đồng). Trong Khảo sát nghèo đô thị 2009 tại hai thành phố tỷ lệ này gần như bằng nhau. Xu hướng này được xác nhận bởi các dữ liệu 11 về chi tiêu, và mức chi tiêu hiện tại ở Hà Nội cao hơn ở thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù kết quả đã được khảo sát trong năm 2009 là ngược lại. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức chi tiêu được báo cáo có thể thấp vì nó chỉ chiếm 65% mức thu nhập được báo cáo. Chi tiêu của nhóm nghèo nhất vượt quá thu nhập được báo cáo, nhưng bằng hơn một nửa thu nhập của nhóm giàu nhất. NHÀ Ở Các thông tin được thu thập bởi hai cuộc khảo sát nghèo đô thị cho thấy đã có những cải thiện quan trọng về tình trạng nhà ở từ năm 2009 đến năm 2012 (theo Bảng ES6). Trong tất cả các nhóm, tỷ lệ người dân sống trong khu nhà chật hẹp có diện tích bình quân nhỏ hơn 7 m2 /người đã giảm. Tuy nhiên vẫn còn 51% người di cư vẫn đang sống trong điều kiện như vậy. Nguồn nước máy đang trở thành mức đánh giá tiêu chuẩn. Hiện có 80% dân số ở Hà Nội và 69% dân số ở thành phố Hồ Chí Minh được sử dụng nguồn nước máy. Chỉ có 4% hộ gia đình nấu ăn với nhiên liệu truyền thống. Hầu hết các hộ gia đình ở Hà Nội đều sở hữu nhà, trong khi tình trạng thuê nhà là phổ biến hơn ở thành phố Hồ Chí Minh. Điều này phần lớn phản ánh mật độ dân di cư cao hơn tại thành phố Hồ Chí Minh và 86% dân di cư đang thuê nhà ở (so với 5% của dân thường trú). Mặt khác, các số đo các vấn đề “phiền toái” giữa năm 2009 đến 2012 đều kém đi, với các hộ gia đình phàn nàn nhiều hơn về tiếng ồn, bụi, lũ lụt, trộm cắp, và cắt điện. Năm 2009, tỷ lệ người dân Hà Nội phản ánh về tiếng ồn, bụi, và cắt điện nhiều hơn người dân thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tỷ lệ phản ánh về tình trạng lũ lụt hay trộm cắp lại ít hơn. Dân di cư và dân thường trú khai báo gặp phải các tình trạng trên với mức độ tương đương nhau. Cả hai nhóm hộ gia đình giàu và nghèo đều phản ánh về tiếng ồn, nhưng các hộ nghèo bị ảnh hưởng nặng hơn về các vấn đề môi trường sống, như tình trạng trộm cắp. 12 Bảng ES6. Đặc điểm nhà ở và môi trường sống Diện tích ở <7 m2/ người Tổng cộng Báo cáo 2009: Tổng cộng Hà Nội TP. HCM Nam Nữ Dân thường trú Dân di cư Nhóm 1 (nghèo) Nhóm 5 (giàu) Thuê nhà Nguồn nước máy riêng Nấu nướng bằng than hay củi Tỷ lệ của các hộ gia đình (%) 12 20 73 4 29 15 25 20 24 14 51 24 14 23 8 26 22 18 5 86 11 24 58 80 69 70 76 78 50 67 83 7 4 4 4 4 4 2 6 0 Những vấn đề ảnh hưởng đến các hộ gia đình Tiếng ồn Khói/ Bụi Cúp điện Lũ lụt Trộm cướp 34 26 25 17 19 22 38 32 36 31 34 37 34 34 23 32 23 27 23 27 20 27 25 14 31 22 26 24 25 25 31 20 15 16 18 18 15 17 19 21 14 14 16 21 22 16 19 20 26 15 ĐỒ DÙNG LÂU BỀN Tỷ lệ các hộ gia đình sở hữu đồ dùng lâu bền có giá trị ngày càng tăng như xe máy (91%), TV màu (90%), điện thoại di động (91%), và máy giặt (50%). Trong tất cả các đồ dùng lâu bền được liệt kê trong Bảng ES7, chỉ có tỷ lệ sở hữu xe đạp giảm từ năm 2009 đến năm 2012. Mô hình sở hữu nói chung khá giống nhau tại hai thành phố, mặc dù các hộ gia đình sở hữu máy điều hòa không khí tại Hà Nội (nơi mùa hè khá nóng), và có kết nối Internet (có thể thể hiện trình độ giáo dục cao hơn) tương đối nhiều hơn. Đối với một số loại đồ dùng lâu bền, gồm xe máy, TV và các loại bếp điện, tỷ lệ sở hữu của các hộ nghèo và các hộ giàu cao như nhau; trong trường hợp khác, đáng chú ý là tỷ lệ sở hữu máy tính, kết nối internet, và máy giặt của nhóm nghèo thấp hơn rất nhiều so với nhóm giàu. Ngoại trừ điện thoại di động, hộ gia đình di cư ít sở hữu đồ dùng lâu bền. Điều này đặc biệt đúng với các đồ dùng có giá trị cao như điều hòa không khí và máy giặt, máy tính và internet. Mặt khác, khoảng cách đã thu 13 hẹp đáng kể từ năm 2009 đến năm 2012, ví dụ, năm 2009 chỉ có 40% người di cư sở hữu TV màu so với 70% vào năm 2012; và sở hữu xe máy của người dân di cư đã tăng từ 47% lên 83% trong cùng thời kỳ này. Bảng ES7. Tóm tắt về tình trạng sở hữu đồ dùng lâu bền Xe máy Tổng cộng Báo cáo 2009 Tổng cộng Xe đạp TV màu Máy tính Tỷ lệ của các hộ gia đình % 91 33 90 41 Kết nối Inte rnet 27 Máy điều hòa Máy giặt Nồi cơm điện Điện thoại di động 33 50 93 91 78 42 79 37 25 25 42 83 87 Hà Nội TPHCM 90 91 40 30 91 89 48 38 37 22 52 23 60 45 97 92 91 91 Nam Nữ 93 87 35 31 91 88 42 40 28 25 33 32 50 49 95 92 93 89 Dân thường trú Dân di cư 93 83 36 20 95 70 46 20 31 12 38 8 58 13 95 57 91 93 Nhóm 1 (nghèo) Nhóm 5 (giàu) 85 84 51 24 91 91 20 64 10 48 14 53 31 67 95 94 57 94 NGHÈO Sử dụng chuẩn nghèo ở mức 2 USD một người một ngày - một trong những tiêu chuẩn được quốc tế sử dụng rộng rãi - Bảng ES8 cho thấy 3% dân số của hai thành phố đang sống trong cảnh nghèo khó trong năm 2009, và 1% trong năm 2012. Trong cả hai năm, tỷ lệ hộ nghèo ở Hà Nội cao gấp đôi ở thành phố Hồ Chí Minh. Tỷ lệ dân di cư sống trong nghèo khó tương đương với dân thường trú. Bảng ES8 cũng cho thấy tình trạng nghèo ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146