RỪNG NA UY
Haruki Murakami
Trịnh Lữ dịch
Tên sách: Rừng Na Uy
Tác giả: Haruki Murakami
Người dịch: Trịnh Lữ
Thể loại: Văn học nước ngoài
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 2006
Khổ: 13x20.5 cm
--------------------Nguồn: Vnthuquan
Sửa chính tả (TVE): tovanhung
Chuyển
sang
ebook
(TVE):
tovanhung
(Ebook được thực hiện đúng với bản
in)
Ngày hoàn thành: 3/9/2006
http://www.thuvien-ebook.com
Lời người dịch
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Lời người dịch
Mối tình sâu sắc nhất của bạn có gắn
liền với một bài hát nào không? Một
cảnh trí nào không? Như một căn phòng
trong đêm mưa mùa hạ? Một chiều thu
ngoài bìa rừng hoang vắng? Rừng Na-uy
là tên một bài hát của nhóm nhạc Beatles
nổi tiếng. Lời cả có những câu "Tôi từng
có một cô gái, mà có lẽ đúng hơn là cô
ấy đã từng có tôi… Cô dẫn tôi vào
phòng và bảo tôi ngồi đâu cũng được,
nhưng tôi thấy chẳng có chiếc ghế
nào… Khi tỉnh dậy tôi chỉ có một mình,
con chim ấy đã bay đi rồi…" Giai điệu
và cấu trúc bài hát rất giản dị. Những sự
kiện làm biến đổi cả cuộc đời ta thường
gắn liền với những cái ngẫu nhiên giản
dị. Ký ức khi đã trưởng thành thường
cũng chỉ xúc động vì những điều giản dị.
Và Rừng Na-uy là một câu chuyện tình
yêu giản dị.
Giản dị như sự thật.
Như bốn mùa.
Như Sống/Chết.
Như đại thi hào Ấn Độ Rabindranath
Tagore đã viết về con tim biết yêu: "Cái
giàu cái nghèo của nó là vô biên, niềm
vui nỗi buồn của nó là trường cửu." Cái
giản dị của Rừng Na-uy là cái giản dị chỉ
có được khi người viết đã vượt lên hết
những làm dáng có bản chất kĩ thuật vốn
rất khó tránh trong sáng tác để chỉ bồi
hồi kể lại những gì đang tuôn trào từ sâu
thẳm cõi lòng mình.
Rừng Na-uy không lãng mạn. Nó
không lí tưởng hoá và do vậy không bị
lừa mị bởi chính những lí tưởng ấy của
mình. Nó dũng mãnh như mũi tên vừa
bay ra khỏi cánh cung. Thẳng từ cõi lòng
bộc trực và chân xác của kiếp người.
Đọc lời thoại trong Rừng Na-uy, tôi chỉ
mong mình cũng nói được như thế với
người mình yêu mến. Bị lôi cuốn theo
những ý nghĩ và xúc cảm trong Rừng Nauy, tôi cũng chỉ mong mình dám nghĩ
được thành lời những gì vẫn cuộn tròn
trong lòng mình như vậy. Đọc Rừng Nauy, tôi chợt nhớ ra rằng hình như mình đã
chỉ quen lừa mị bản thân, lừa mị người
khác, để bôi trơn mọi mối quan hệ xã hội
vốn chỉ xoay quanh và bị chi phối bởi
tiền bạc, quyền lợi, danh vọng… Hình
như tôi đã quên mất, hoặc đã luôn có ý
thức đè nén tất cả những gì gọi là tự
nhiên và cao cả của chính mình, hình như
tất cả những "người bạn", "người yêu"
kia chẳng phải vậy chút nào, vì đã có
bao giờ tôi dám nói thẳng lòng mình với
họ và biết chắc rằng họ cũng đã nói thẳng
lòng họ với mình. Hình như tôi cũng đã
chẳng phải là mình, vì đã khi nào tôi
thực sự dám nhìn nhận những khiếm
khuyết méo mó của mình, có ý thức công
nhận chúng và biết vui với chúng, cũng
như công nhận và vui với những khiếm
khuyết của mọi người.
Con chim sắp chết, tiếng hót bi
thương; con người hấp hối, lời nói chân
thành. Tại sao vậy? Chỉ có sự chết mới
cứu vãn được loài người khỏi nghiệp
chướng dối trá hay chăng? Đọc Rừng
Na-uy, tôi thấm thía được một chân lí
giản đơn, rằng "sự chết không là đối
nghịch của sự sống, mà là một phần của
sự sống". Sống, tức là nuôi dưỡng Chết.
Sự chết không phải là chấm dứt, cũng
chẳng phải là bắt đầu. Nó ở ngay đây rồi,
được chính sự sống nuôi dưỡng.
Và tôi hiểu được tại sao chỉ những
nhân vật trung thực trong trắng và dũng
cảm trong Rừng Na-uy mới tự kết liễu
cuộc đời mình. Họ còn quá trẻ và không
đủ kiên nhẫn để hy vọng cuộc đời này sẽ
nuôi dưỡng được một cái chết tự nhiên
xứng đáng. Và tôi cũng hiểu tại sao nhiều
nhà văn lớn của Nhật Bản như Osamu
Dazai và Yasunari Kawabata cũng đã
chọn cái chết để khỏi phải chứng kiến
cái đẹp và cái cao cả đang bị thời cuộc
làm nhục.
Cuộc khủng hoảng của thế hệ trẻ Nhật
Bản cuối thập kỷ 1960 trong Rừng Na-uy
không phải chỉ là sự đớn đau của linh
hồn và thân xác đang phải vượt ngưỡng
ngây thơ, mà còn là sự thất vọng lớn lao
trước những biến đổi ngu xuẩn của thời
cuộc: phép lạ kinh tế của một đế quốc
quân chủ thất trận đang khiến cho lòng tin
mù quáng vào Thiên Hoàng bị thay thế
bởi tín ngưỡng có tính toán vào sức
mạnh của đồng tiền và những ước lệ xã
hội kèm theo.
Tôi đọc Rừng Na-uy và nhớ đến
Hemingway, Paul Bowls, Kerouac…
đến những thế hệ trí thức trẻ tuổi Âu Mỹ
sau hai cuộc thế chiến vẫn được gọi là
The lost generations - những thế hệ bị tha
hoá với chính sự thắng thế và hưng thịnh
vật chất của phương Tây, không tìm thấy
chỗ đứng của mình trong chốn phồn thực
hãnh tiến ấy. Tôi nhớ đến Kundera và cái
nhẹ bỗng không thể chịu đựng nổi của
kiếp người trong vòng xoáy của những
cuộc đổi thay bạo lực. Và tôi cũng nhớ
đến câu nói của Alexei Tolstoi: "Những
cuộc chiến tranh rồi sẽ chấm dứt, những
cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét, và sẽ
chỉ còn lại mãi mãi tấm lòng dịu dàng và
êm ái của em."
Trong Rừng Na-uy, thân xác là nơi
trú ngụ và phương tiện biểu cảm tự nhiên
nhất của tình yêu. Không những hoàn toàn
không phải là một "dâm thư", mà ngược
lại, Rừng Na-uy là cuốn tiểu thuyết bắt
người đọc phải nhận thức được sự ngu
xuẩn của mọi thứ dâm tính trong thị
trường văn chương, phim ảnh, và trong
chính ý nghĩ của con người. Rừng Na-uy
chinh phục được độc giả toàn thế giới vì
nó đã giúp giới trẻ (và cả những người
không còn trẻ nữa) nhận ra cái cao cả
theo nghĩa triết học và tự nhiên của tình
yêu. Cái cao cả không còn núp bóng lí
tưởng và lãng mạn, mà công khai trực
tiếp trong tấm lòng trung thực dũng mãnh
của tuổi trẻ.
Đọc Rừng Na-uy rồi, tôi chắc bạn sẽ
nghĩ nhiều về bản thân mình. Về người
mình yêu. Về bạn bè. Về bố mẹ anh chị
em trong nhà. Bạn sẽ nghĩ, và sẽ nhớ đến
lời những nhân vật trong Rừng Na-uy, và
thực sự cảm thấy sung sướng vì máu
nóng đang chảy trong huyết quản bạn, vì
bạn đang sống, vì tình yêu là có thực. Và
bạn sẽ muốn chạy đến với người mình
yêu mến nhất để nói rằng bạn hỡi, chúng
ta hãy trung thực với nhau, cùng làm
quen và chấp nhận những bất toàn của
nhau, vì chỉ có vậy chúng ta mới có thể
tìm thấy bình yên và hạnh phúc.
Nhân vật chính trong Rừng Na-uy tên
là Toru Wantanabe.
Tôi đã thấy cái tên Toru và
Watanabe này ở vài tác phẩm khác của
Murakami. Tự nhiên tôi giật mình:
Murakami tuổi Kỷ Sửu, mà trong tử vi
Tây Phương thì tuổi Sửu là Taurus - vị
thần bò dũng mãnh đầy nhục cảm trong
thần thoại Hy Lạp mà tôi vẫn bắt gặp
trong tranh vẽ của Picasso. Toru phải
chăng là một biến âm dí dỏm của Taurus
theo lối Murakami? (Rừng Na-uy dí dỏm
lắm, bạn cứ đọc mà xem).
Và Watanabe phải chăng là âm thanh
vọng lại từ mấy từ tiếng Anh: "Want to
be" - muốn được tồn tại, muốn sống,
muốn thành được như thế? Có lẽ sự chân
thực và tình yêu dũng mãnh của nhân vật
Toru Watanabe đối với cả bản ngã và
tha nhân trong Rừng Na-uy cũng chính là
mơ ước của tác giả. Thế mới thật là tiểu
thuyết! Đọc Rừng Na-uy rồi, tự nhiên ta
thấy mình tự nhủ rằng nào, hãy mạnh mẽ
lên như thần bò huyền thoại, và hãy biết
"want to be". Ấy là một vài xúc cảm
riêng tư của tôi khi đọc và dịch Rừng
Na-uy.
Còn bạn, cuộc đời của bạn là cả một
cõi riêng tư khác biệt, và bạn sẽ còn tìm
được nhiều cái hay cái lạ nữa khi đọc
Rừng Na-uy. Từng nghĩa trong tiểu
thuyết cũng như xiêm y mỹ nhân, lớp lang
của nó hấp dẫn đến đâu là tuỳ ở lòng
người lần mở, và khi ta tưởng đã đến nơi
thì hoá ra mới chỉ là bắt đầu. Cái duyên
của Murakami là ông động được đến tơ
lòng sâu kín của tất cả mọi người. Mong
rằng những ân hưởng văn chương và
cuộc đời mà tôi đã nhận được từ ông vẫn
nguyên vẹn trong từng con chữ Việt mà
tôi đã lựa chọn để kể lại Rừng Na-uy
cho bạn nghe với tấm lòng bồi hồi trân
trọng của mình.
TRỊNH LỮ
Chương 1
Lúc ấy tôi đã ba mươi bảy tuổi, đang
ngồi thắt chặt dây an toàn khi chiếc 747
kềnh càng nhào xuống qua tầng mây dày
dặc về phía sân bay Hamburg. Những
trận mưa tháng Mười một lạnh lẽo thấm
đâm mặt đất, khiến mọi vật ảm đạm như
trong một bức tranh phong cảnh Hà Lan
ngày xưa: đám nhân viên mặt đất trùm áo
mưa, mảnh cờ u rũ trên nóc một toà nhà
vuông vức trong sân bay, một tấm biển
quảng cáo xe BMW. Chao ôi, lại nước
Đức đây rồi.
Khi máy bay đang lăn bánh trên mặt
đất, tiếng nhạc nhè nhẹ bắt đầu trôi ra từ
hệ thống loa trên trần: một bản hoà tấu
không lời ca khúc "Rừng Na-uy" của
nhóm Beatles. Giai điệu ấy bao giờ cũng
khiến toàn thân tôi run rẩy, nhưng lần
này, nó làm tôi choáng váng hơn bao giờ
hết.
Tôi cúi xuống, hai tay ôm mặt, cố giữ
cho đầu mình khỏi nứt ra. Chẳng mấy
chốc một chiêu đãi viên người Đức đến
hỏi bằng tiếng Anh xem tôi có sao không.
"Không sao," tôi nói, "tôi chỉ hơi
chóng mặt."
"Ông chắc vậy không?"
"Vâng, chỉ vậy thôi. Cám ơn cô."
Cô ta mỉm cười bỏ đi, và âm nhạc
chuyển sang một điệu hát của Billy Joel.
Tôi ngồi thẳng lên và nhìn qua cửa sổ về
phía những đám mây đen đang lơ lửng
trên Biển Bắc, nghĩ đến những mất mát
trong cuộc đời mình: những thời đã qua
không bao giờ trở lại, những bạn bè đã
chết hoặc biệt vô âm tín, những cảm xúc
mãi mãi không còn nữa.
Máy bay đã đến cửa lên xuống.
Người ta bắt đầu tháo dây an toàn và kéo
hành lý xuống từ khoang trên ghế ngồi,
trong khi đó tôi chỉ thấy mình ngoài đồng
cỏ. Tôi ngửi thấy cả mùi cỏ, cảm thấy
gió mơn man trên mặt, nghe thấy tiếng
chim kêu. Mùa thu 1969, lúc ấy tôi sắp
hai mươi.
Cô chiêu đãi viên trở lại. Lần này thì
cô ngồi xuống cạnh tôi và hỏi xem tôi có
ổn cả không.
"Tôi không sao, cám ơn cô, "tôi nói
và mỉm cười. "Chỉ thấy hơi bâng khuâng
vậy thôi."
"Tôi hiểu chuyện đó," cô nói. "Tôi
cũng thế, lâu lâu lại bị một lần."
Cô đứng lên và mỉm cười với tôi, vẻ
thật đáng yêu.
"Vậy nhé, xin chúc ông một chuyến
[1]
đi tốt đẹp. Auf Wiedersehen"
"Auf Wiederseben."
Mười tám năm đã trôi qua, nhưng tôi
- Xem thêm -