Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trung học phổ thông bằng câu hỏi liên tưởn...

Tài liệu Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trung học phổ thông bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm chí phèo của nam cao (sách giáo khoa ngữ văn 11 ban cơ bản)

.PDF
98
433
58

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC VŨ THỊ MẬN RÈN LUYỆN TƢ DUY VĂN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BẰNG CÂU HỎI LIÊN TƢỞNG, TƢỞNG TƢỢNG TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NAM CAO (SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 BAN CƠ BẢN). LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN Chuyên ngành : LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số : 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học : GS.TS Nguyễn Thanh Hùng HÀ NỘI - 2010 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài "Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh Trung Học Phổ Thông bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao (Sách giáo khoa Ngữ văn 11 ban Cơ Bản), em đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ đạo rất nhiệt tình; sự quan tâm, động viên rất lớn của GS.TS Nguyễn Thanh Hùng - người thầy trực tiếp hướng dẫn đề tài luận văn của em. Em còn nhận được sự giảng dạy nhiệt tình, tâm huyết của các thầy cô giáo chuyên ngành Lí luận và phương pháp giảng dạy Ngữ Văn - Trường Đại Học Giáo Dục - Đại học Quốc Gia Hà Nội. Sự giảng dạy của các thầy cô đã cung cấp cho em có phương pháp tư duy, lý luận khoa học, cũng như những kiến thức bổ ích giúp em vận dụng vào đề tài luận văn. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc, chân thành tới GS.TS Nguyễn Thanh Hùng cùng các thầy cô giáo chuyên ngành Lí luận và phương pháp giảng dạy Ngữ Văn - Trường Đại Học Giáo dục - Đại học Quốc Gia Hà Nội. Hà Nội, tháng 11 năm 2010 Tác giả Vũ Thị Mận DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. SGK: Sách giáo khoa 2. THPT: Trung học phổ thông MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .................................................................... 8 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 11 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 5. Đóng góp mới của luận văn .................................................................. 6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 12 12 12 13 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ........................................ 1.1. Tư duy văn học .................................................................................. 1.1.1 Tư duy ............................................................................................. 1.1.2. Tư duy văn học ............................................................................... 1.2. Rèn luyện tư duy văn học bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng ....... 1.2.1. Liên tưởng, tưởng tượng ................................................................ 1.2.2. Các loại câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm văn chương ............................................................................................... 1.2.3.Những điều cần lưu ý khi giáo viên xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm văn chương ..................................... 1.2.4. Những điều cần lưu ý khi giáo viên sử dụng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình lên lớp .......................................................... Chƣơng 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN TƢ DUY VĂN HỌC CHO HỌC SINH THPT BẰNG CÂU HỎI LIÊN TƢỞNG, TƢỞNG TƢỢNG .................................................................. 2.1. Thực tiễn tư duy văn học của học sinh THPT và vấn đề rèn luyện tư duy văn học .............................................................................................. 2.1.1.Thực tiễn tư duy văn học của học sinh THPT qua sự liên tưởng, tưởng tượng .............................................................................................. 2.2.2.Thực tiễn vấn đề rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT qua sự liên tưởng, tưởng tượng ....................................................................... 2.2. Thực tiễn việc sử dụng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy 14 14 14 18 29 29 học tác phẩm văn chương ......................................................................... 2.3. Đánh giá chung về thực tiễn .............................................................. 46 38 41 42 44 44 44 45 47 2.3.1. Ưu điểm.......................................................................................... 47 2.3.2. Nhược điểm .................................................................................... 47 2.3.3. Nguyên nhân của tình trạng trên ..................................................... 48 2.3.4. Cách khắc phục .............................................................................. 49 Chƣơng 3: THIẾT KẾ VÀ THỂ NGHIỆM DẠY HỌC TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NAM CAO ............................................................ 51 3.1. Thiết kế giáo án thể nghiệm ............................................................... 3.1.1. Mục đích thiết kế ............................................................................ 3.1.2. Nội dung thiết kế .......................................................................... 3.1.3. Ý nghĩa giáo án thể nghiệm ............................................................ 51 51 51 51 3.1.4. Hình thức đánh giá thiết kế giáo án thể nghiệm .............................. 51 3.1.5 Thiết kế giáo án thể nghiệm ............................................................. 3.1.6 Tự đánh giá thiết kế thể nghiệm ....................................................... 52 79 3.2. Thể nghiệm sư phạm ......................................................................... 3.2.1. Mục đích, ý nghĩa của thể nghiệm sư phạm .................................... 80 80 3.2.2. Đối tượng và địa bàn thể nghiệm .................................................... 80 3.3.3. Phương pháp tiến hành thể nghiệm ................................................. 3.3.4. Nội dung thể nghiệm ...................................................................... 3.3.5. Đánh giá kết quả thể nghiệm .......................................................... 80 81 81 3.3.6. Kết luận chung về quá trình thể nghiệm.......................................... 82 84 KẾT LUẬN ............................................................................................. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... PHỤ LỤC 87 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Từ việc đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học hướng đến tư duy học sinh Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế tri thức. Thế giới đang hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp, lấy tri thức làm động lực phát triển. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi sâu sắc nội dung phương pháp giáo dục trong các nhà trường, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ cao. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy,việc đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục Việt Nam đã giành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà nước, các ban ngành, các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm.Và trong việc đổi mới phương pháp giáo dục, mục đích rèn luyện tư duy học sinh đều được đề cập đến. Trong Luật Giáo Dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 06 năm 2005 tại Điều 5 nêu rõ “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên"[1,tr. 19]. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nêu " Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo ở người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều" [12,tr. 97] Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020 của Bộ Giáo Dục- Đào Tạo có quan điểm chỉ đạo “ Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức có bản lĩnh 1 trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng làm việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hoá vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của giáo viên”.Từ quan điểm đúng đắn đến những định hướng, yêu cầu cụ thể, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đều hướng tới rèn luyện tư duy cho học sinh nghĩa là thông qua việc học tập, học sinh biết cách suy nghĩ,nhận thức, phát hiện và khám phá . Điều này trở thành một nguồn động lực mạnh mẽ, tác động trực tiếp, làm thay đổi về chất hoạt động giáo dục trong nhà trường, trong đó có môn Ngữ Văn. Giáo viên Ngữ Văn cần xác định học sinh là chủ thể thẩm mĩ trong quá trình học tập và phải hướng đến rèn luyện tư duy văn học cho học sinh đặc biệt là khi dạy học tác phẩm văn chương. M.Gorki từng kêu gọi nhà văn, nhà giáo “ Cần phải làm cho trẻ em thấy rõ ngay từ bé mới 6,7 tuổi sức mạnh thần diệu của tư duy, phải giảng giải cho các trẻ em hiểu ý nghĩa của những hiện tượng xã hội là cho các em dần dần thấy được khả năng của chính mình”. Còn thủ tướng Phạm Văn Đồng nhắc nhở anh chị em giáo viên rằng “ Chúng ta phải xem lại cách dạy văn trong nhà trường phổ thông chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ thì không chỉ việc dạy văn không hay mà sự đào tạo cũng không hay. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả sự suy nghĩ đó theo cách của mình như thế nào cho tốt” [21, tr. 396] Như vậy từ việc đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học nói chung đến đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn nói riêng, vấn đề tư duy học sinh luôn được đề cập như một mục đích trong giáo dục. 2 1.2.Từ mục tiêu thay đổi lại chương trình, sách giáo khoa Ngữ Văn với vấn đề tư duy học sinh Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc Hội và chỉ thị số 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa phổ thông, đổi mới phương pháp dạy học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã cho triển khai biên soạn bộ chương trình và sách giáo khoa trung học phổ thông mới. Việc thay sách lần này được xem như một dấu mốc quan trọng trong quá trình cải cách không ngừng của giáo dục nước nhà.Cũng từ đây quan điểm dạy học hiện đại phát huy vai trò chủ thể học sinh, phát huy được khả năng tư duy sáng tạo độc lập của học sinh đã quán xuyến, chi phối một cách toàn diện tất cả các khâu, các phương diện của quá trình dạy học. Ngày 18 tháng 8 năm 2003, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã quyết định tổ chức dạy thí điểm chương trình và sách giáo khoa mới.Từ đây sách giáo khoa Ngữ Văn ra đời thay thế cho ba quyển sách Văn học, Làm văn, Tiếng Việt . Đồng thời tên gọi bộ môn Ngữ Văn xuất hiện. Sau đó chương trình Ngữ Văn Trung học phổ thông mới được thực hiện trên toàn quốc từ năm học 2006-2007 phản ánh những thành tựu tiên tiến của các ngành khoa học Tiếng Việt, Văn học và Làm văn những năm đầu thế kỷ XXI, phản ánh thành tựu của các ngành Tâm lí học, Lí luận dạy học hiện đại và phản ánh quan điểm dạy học hướng vào người học.“Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn” xác định một trong những mục tiêu của môn Ngữ Văn là : “Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ; phương pháp học tập tư duy,” [4, tr. 5]. Như vậy từ việc thay đổi lại sách giáo khoa, chương trình để rồi xác định mục tiêu môn Ngữ Văn thấy rõ được hơn tầm quan trọng của việc rèn luyện tư duy học sinh. 3 1.3. Từ đặc trưng của tác phẩm văn học và vấn đề rèn luyện tư duy văn học Được coi là ngành nghệ thuật “ trò diễn bằng ngôn từ”, tác phẩm văn học thể hiện đời sống tinh thần qua hình tượng. Bêlinxki, nhà phê bình Nga nổi tiếng thế kỷ XIX viết “ Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà thơ nói bằng các hình tượng và bức tranh.” [ 14, tr.26 ]. Hình tượng là phương tiện đặc thù của tác phẩm văn học để phản ánh hiện thực khách quan, nó là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. PGS Nguyễn Viết Chữ nhận định “ Có thể nói rằng: hình tượng quyết định sự tồn vong của nghệ thuật văn chương.” [8, tr. 21].Và với vị trí là môn nghệ thuật thì kiểu tư duy đặc thù của môn Ngữ Văn thiên về tư duy hình tượng chứ không phải kiểu tư duy lôgic .Vậy khi đứng trước một tác phẩm giàu hình tượng học sinh có muôn hình vạn trạng cách cảm nhận, suy nghĩ , phát hiện, khám phá nghĩa là có sự tư duy văn học khác nhau. Điều quan trọng là giáo viên Ngữ Văn cần phải biết đọc hình tượng, nói hình tượng để rèn cho học sinh nghe hình tượng, nói hình tượng, viết hình tượng, nghĩa là rèn cho học sinh biết tư duy văn học góp phần khám phá giá trị tác phẩm một cách đúng đắn. Mặt khác lí luận văn học hiện đại đã chỉ ra cấu trúc đa tầng của tác phẩm văn chương. Trong một tiết học Ngữ Văn, giáo viên không thể khai thác cạn kiệt toàn bộ cái hay, cái đẹp của cấu trúc đa tầng ấy mà phải kích thích thể nào để hình tượng nghệ thuật được phát triển và âm vang mãi trong tâm hồn học sinh. Đấy phải chăng là vấn đề tư duy văn học của học sinh. Những thành tựu về lí thuyết tiếp nhận văn học cũng cho thấy, tác phẩm “như một máy thu có nhiều dải sóng mà người nhận là kẻ chỉnh sóng để bắt được đúng chương trình mà mình mong đợi”. Cũng theo lí thuyết này, tác phẩm văn học như là một đối tượng tiếp nhận: nó là một quá trình tồn tại qua nhiều giai đoạn: ý đồ, tưởng tượng, văn bản, sự khách thể hoá ý đồ trong một cấu trúc có tính kí hiệu, sự cảm thụ của người thưởng thức.Vậy ở đây vừa có sự biến đổi của hình thức tác phẩm vừa có quá trình biến đổi của chính nó phụ 4 thuộc vào sự cảm nhận của người đọc và sự biến đổi của hiện thực xung quanh. Vì thế, tác phẩm không phải là hiện thực được “vật chất hoá” hoàn bị và đông cứng trong tính trọn vẹn của nó. Trái lại, bất cứ tác phẩm nào cũng gồm một phần có thực, khách quan và một phần khác do người đọc phát hiện. Điều này giúp chúng ta nhận thức được rằng tác phẩm văn học chính là “một đề án tiếp nhận”, “một mã nghệ thuật”, “một sơ đồ”… mà những đề án đó chỉ được thực hiện nhờ sự phát hiện có sự sáng tạo riêng hay nói đúng hơn là tư duy văn học của người đọc. 1.4. Từ vai trò của câu hỏi trong dạy học tác phẩm văn chương Thực tế giảng dạy cho thấy trong quá trình lên lớp thì việc gắn kết các khâu ở bài giảng, sự phối hợp hoạt động giữa thầy và trò; tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh được thể hiện đều tập trung xung quanh việc đặt câu hỏi, bài tập của thầy. Đặc biệt ở môn Ngữ Văn tính liền mạch thường được chú trọng trong khi dạy học tác phẩm văn chương thì việc đặt câu hỏi của thầy và việc trả lời của trò càng được quan tâm. Câu hỏi sẽ có tác dụng kết nối các khâu trong quá trình dạy học. Mặt khác việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ thống câu hỏi có tác dụng phát huy trí lực, khơi dậy sự tò mò tìm hiểu, hứng thú tiếp nhận của học sinh, học sinh chủ động khám phá kiến thức. Trong trong giờ dạy tác phẩm văn chương, câu hỏi được đưa ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh chú ý suy nghĩ trả lời, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, tạo nên bầu không khí văn chương. Khi đó học sinh thực sự trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất nhiều. Bài học không đi vào lối mòn kiểu thuyết trình nặng về giảng văn truyền thống: Thầy nghĩ, thầy cảm nhận rồi thầy nói cái nghĩ, cái cảm ấy của mình, học sinh nghe rồi ghi lại cái nghĩ, cái cảm ấy của thầy. Hệ thống câu hỏi được tiến hành trong giờ dạy tác phẩm văn chương cũng giúp học sinh hình thành và rèn luyện phương pháp tự tìm hiểu, tự khám phá và cảm nhận 5 về một tác phẩm văn học. Giáo viên cần nhận thức được có bao nhiêu học sinh thì có bấy nhiêu cách suy nghĩ, cảm nhận văn chương. Giáo viên không thể áp đặt tất cả mọi điều vào trong đầu óc học sinh. Vậy làm cách nào để giáo viên khơi dậy sự suy nghĩ, tư duy tích cực nơi học sinh để học sinh chiếm lĩnh tác phẩm. Không còn cách thức nào khác là giáo viên phải sử dụng hệ thống câu hỏi. Nó cũng giúp giáo viên xây dựng phương án dạy học tối ưu, thích hợp với hoàn cảnh và đối tượng dạy học. Khi nghiên cứu đặc điểm của tư duy người ta nhận thấy rằng tư duy chỉ nảy sinh khi gặp hoàn cảnh có vấn đề. Đó là những tình huống mà ở đó nảy sinh những mục đích mới và những phương tiện, phương pháp hoạt động cũ đã có trước đây trở nên không đủ ( mặc dù là cần thiết) để đạt được mục đích đó. Nhưng muốn kích thích được tư duy thì hoàn cảnh có vấn đề phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ tư duy của cá nhânnghĩa là cá nhân phải xác định được cái gì đã biết, cái gì chưa biết cần phải tìm và có nhu cầu tìm kiếm.Trong quá trình dạy học thì hệ thống câu hỏi được sử dụng chính là hoàn cảnh có vấn đề góp phần quan trọng rèn luyện tư duy học sinh. 1.5. Từ góc độ tâm lí học với câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm văn chương Theo Tâm lý học, mỗi biểu hiện của tình cảm đều gắn với động cơ hoạt động của con người. Tình cảm không tự nhiên bột phát, mà nó thường bộc lộ trong một điều kiện cụ thể, có tính xác định. Hoàn cảnh có vấn đề sẽ làm nảy sinh cảm xúc. Cảm xúc càng hưng phấn mạnh mẽ, trí nhớ càng được huy động tối đa và theo đó hình dung liên tưởng, tưởng tượng được mở rộng và tăng cường khả năng nhạy bén. Đồng thời khi hình dung liên tưởng, tưởng tượng được đẩy mạnh, sức hút dẫn đối tượng( người đọc) vào tác phẩm càng lớn thì cảm xúc của chủ thể tiếp nhận càng nhân lên dồi dào.Trong hệ thống câu hỏi được giáo viên Ngữ Văn sử dụng thì loại câu hỏi liên tưởng, tưởng 6 tượng đáp ứng tốt nhất điều đó. Câu hỏi nhằm phát huy liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của học sinh là một bộ phận trong hệ thống các câu hỏi sáng tạo của quá trình dạy học tác phẩm văn chương; đó là những câu hỏi dựa trên đặc trưng của tư duy văn học, hướng vào mục đích khai thác tính nghệ thuật của tác phẩm, tính lôgíc khoa học của kiến thức trên cơ sở phù hợp với khả năng tự phát triển của học sinh. Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng nhằm mục đích gợi mở, vận dụng trí nhớ, lựa chọn và huy động tối đa kinh nghiệm cá nhân, hướng học sinh vào hiện thực tâm lý của tác phẩm bằng những yêu cầu trả lời kiến thức, xác lập mối quan hệ giữa tác phẩm với nội dung bài học. Điều quan trọng là loại câu hỏi này vừa đảm bảo bám sát đặc trưng bộ môn vừa phát huy tối ưu nhất việc rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT. Loại câu hỏi này càng phát huy trí lực, khả năng của học sinh trong thời đại ngày nay. Dưới ánh sáng của tâm lý học hiện đại còn cho thấy: Học sinh bậc THPT đã hoàn toàn làm chủ nhận thức của mình, cảm giác và tri giác đạt đến độ phát triển cao, tri giác chủ động chiếm ưu thế và đạt tới mức rất cao, sự quan sát trở nên có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và toàn diện hơn. Ở lứa tuổi này học sinh có tính độc lập, tích cực thể hiện sự sáng tạo lớn, có sức khái quát cao và có xu hướng đi sâu giải thích các nguyên nhân, các hiện tượng, có kết luận sâu sắc và học sinh nhanh chóng tiếp thu cái mới cũng như các phạm trù đạo đức, thẩm mĩ… Tất cả tạo tiền đề cho tư duy lí luận phát triển 1.6. Từ hiệu quả đạt được khám phá sâu sắc hơn giá trị tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao trong quá trình dạy học. Tác phẩm “ Chí Phèo” của Nam Cao được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, được giảng dạy bằng nhiều phương pháp và tưởng tác phẩm này không còn mảnh đất trống để thế hệ sau nghiên cứu. Song từ thực tiễn giảng dạy tác phẩm này khi giáo viên sử dụng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng học sinh được rèn luyện tốt về tư duy văn học, học sinh khám phá sâu sắc hơn giá trị 7 tác phẩm “Chí Phèo” đồng thời dẫn đến hiệu quả về việc đổi mới phương pháp dạy học. Xuất phát từ những lý do như đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn đề tài “ Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh Trung học phổ thông bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao (Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 ban Cơ Bản)”. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu - Nghiên cứu tư duy văn học của học sinh không còn là vấn đề quá mới mẻ. Ở từng giai đoạn lịch sử giáo dục khác nhau, tương ứng với nhiệm vụ, mục tiêu, với nội dung, chương trình, định hướng phương pháp cụ thể của bộ môn mà vấn đề này được đề cập đến trên những phương diện khác nhau, với quan điểm khác nhau. Song dù trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến và dưới góc độ nào thì tầm quan trọng của việc rèn luyện tư duy cho học sinh nói chung và tư duy văn học nói riêng cũng đều được khẳng định. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra các biện pháp hướng đến rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trong đó có nhắc đến việc sử dụng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng. + Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học (GS Phan Trọng Luận) đề cập đến vấn đề rèn tư duy qua giảng dạy văn học một cách có hệ thống. GS nhận định “ Trong giáo dục và giảng dạy vấn đề tư duy cũng là vấn đề được đặt ra từ lâu, nhưng nhận thức được sâu sắc vai trò quan trọng cũng như vận dụng được khả năng của nó vào trong hoạt động thực tế sư phạm hằng ngày, nhất là trong giảng dạy lại là chuyện còn khó khăn, lúng túng về mặt lí luận cũng như thực hành” [35, tr. 3] . Từ những vấn đề chung cả về lí luận và thực tiễn - tư duy với chức năng của nhà trường, đưa ra hướng tiếp cận bằng quan niệm dạy học đúng đắn, công trình đã triển khai bàn đến các phương diện như bồi dưỡng và rèn luyện tư duy lôgic qua giảng dạy văn học, bồi dưỡng và rèn luyện tư duy hình tượng cho học sinh. Trong đó nhiều vấn đề cụ thể gắn với công việc giảng dạy văn học trong nhà trường được đề cập, phân tích như cải 8 tiến giáo án, cải tiến cấu tạo giờ dạy, hứng thú học tập và nhận thức, công khai hoá quá trình lĩnh hội và vận dụng kiến thức, cá biệt hoá công việc học tập, giáo dục thói quen hoạt động tự lập. Bên cạnh đó các phương diện đặc thù của tư duy văn học cũng đã được đưa ra bàn bạc trong mối liên hệ với hoạt động giảng văn trong nhà trường: đặc trưng của văn học và bộ môn văn học, quá trình cảm thụ và năng lực cảm thụ văn học, kĩ năng sáng tác văn học, năng lực cảm thụ cái đẹp trong đời sống. Tác giả đã nhấn mạnh đến việc làm sao để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm phát huy năng lực cảm thụ văn học và tư duy hình tượng cho học sinh, lưu ý việc đảm bảo cân bằng giữa phân tích lôgic và cảm thụ. Gần đây trong chuyên luận "Văn chương bạn đọc sáng tạo", GS Phan Trọng Luận tiếp tục bàn đến vấn đề năng lực văn học, việc định hướng phát triển chúng cho học sinh phổ thông. Nhìn chung tất cả những vấn đề được bàn đến là để phục vụ nhằm nâng cao hiệu quả của công việc giảng văn của người giáo viên đến học sinh trong cơ chế giảng văn. Trong công trình của mình tuy GS Phan Trọng Luận chưa bàn sâu đến vai trò của hệ thống câu hỏi đặc biệt là loại câu hỏi liên tưởng tưởng tượng nhằm rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT nhưng những vấn đề lí luận trong các công trình của GS giúp ích cho chúng tôi rất lớn trong việc tìm hiểu về tư duy văn học. + Giáo trình phương pháp dạy- học văn: Các tác giả đã dành một chương để bàn về hệ thống cấc trúc năng lực văn cần hình thành cho học sinh. Đây cũng được coi là nguồn tài liệu bổ ích cho chúng tôi khi nghiên cứu về tư duy văn học. + Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương (TS Nguyễn Trọng Hoàn) thực sự là nguồn tài liệu bổ ích cho đề tài của chúng tôi. Công trình đưa ra một hướng tiếp cận bài bản về vấn đề rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh trong dạy học tác phẩm văn chương.Từ những tiền đề khoa học của hoạt động tâm lí, tâm lý sáng tạo nghệ thuật, tính chất 9 đặc thù của tư duy cảm thụ và tiếp nhận văn học, đến việc khảo sát hiện tượng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh, tác giả đi sâu phân tích đối tượng, mục đích, xác định phương thức tiếp nhận thẩm mĩ, cơ chế liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm văn chương.Quan trọng hơn trong khi đưa ra những giải pháp cụ thể rèn luyện tư duy sáng tạo, TS Nguyễn Trọng Hoàn đã đề cập đến giải pháp xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương. + Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường (PGSTS Nguyễn Viết Chữ) khi bàn về phương pháp, biện pháp trong dạy học văn đã đề cập đến việc tìm hiểu tác phẩm văn chương qua hệ thống câu hỏi và có chú ý đến hệ thống câu hỏi liên tưởng và tưởng tượng. Theo tác giả trong hệ thống câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng có hệ thống câu hỏi hình dung, tưởng tượng, tái hiện và hệ thống câu hỏi hình dung, tưởng tượng, tái tạo. + Câu hỏi và bài tập với việc dạy- học tác phẩm văn chương trong nhà trường( Nguyễn Quang Cương). Tác giả nhấn mạnh:“ Hệ thống câu hỏi và bài tập văn học sẽ đóng một vai trò rất to lớn trong việc hình thành và rèn luyện kĩ năng tự tiếp nhận, tự phân tích và đánh giá tác phẩm văn học- một kĩ năng hết sức cần thiếtt cho học sinh cả khi còn ngồi trên ghế nhà trường cũng như khi đã bước vào đời” [9, tr. 5].Trong công trình của mình, tác giả đã nghiên cứu về hệ thống câu hỏi trong SGK Văn học và việc vận dụng chúng theo tinh thần đổi mới dạy học, hệ thống bài tập văn học và việc hình thành năng lực tiếp nhận tác phẩm văn chương cho học sinh… + Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học ở trường phổ thông trung học (Nguyễn Thị Thanh Hương) khi đề cập đến các phương pháp và biện pháp cụ thể để hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm văn học trong nhà trường THPT, tác giả có bàn đến việc xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm từng bước tạo ra bầu không khí văn chương trong lớp học. Từ đó câu hỏi sẽ thúc đẩy quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học ở mỗi học sinh 10 + Văn học giáo dục thế kỉ XXI ( GS Phan Trọng Luận) trong chương “Tiếp tục giải bài toán khó”, khi GS bàn đến vấn đề cấu trúc năng lực văn thì năng lực liên tưởng trong tiếp nhận văn học cũng được đề xuất. Các công trình trên cung cấp về mặt lí thuyết các biện pháp rèn luyện tư duy cho học sinh, việc sử dụng câu hỏi như một phương pháp dạy học văn trong nhà trường và có bàn đến loại câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng. Song các công trình trên hoặc là bàn theo chiều rộng hoặc chỉ điểm xuyết về câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng nhằm rèn luyện tư duy văn học cho học sinh. Ở đề tài này chúng tôi muốn đi hệ thống và tìm hiểu sâu hơn về tư duy văn học; hiện tượng liên tưởng, tưởng tượng; về loại câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng nhằm giúp giáo viên nhìn nhận rõ hơn về vai trò của loại câu hỏi này trong việc rèn luyện tư duy nói chung và rèn luyện tư duy văn học nói riêng cho học sinh THPT. + Các loại giáo án, thiết kế bài giảng tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao đề cập đến phương pháp giảng dạy tác phẩm cũng như cung cấp hệ thống câu hỏi trong khi giảng dạy nhưng chưa chú ý tới việc sử dụng loại câu hỏi liên tưởng tưởng tượng. Ở đề tài này chúng tôi áp dụng việc sử dụng loại câu hỏi liên tưởng tưởng tượng trong việc dạy học tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao một cách cụ thể. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Câu hỏi liên tưởng tưởng tượng trong dạy học tác phẩm văn chương. - Tư duy văn học của học sinh THPT. - Tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao (SGK Ngữ văn 11 ban Cơ bản của GS Phan Trọng Luận). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Các loại câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng; cách thức soạn câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong day học tác phẩm văn chương SGK Ngữ Văn ban Cơ bản 11 và việc sử dụng câu hỏi liên tưởng,tưởng tượng khi lên lớp góp phần rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT. - Câu hỏi liên tưởng tưởng tượng và cách thức sử dụng khi dạy học tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao ( SGK Ngữ Văn 11 ban Cơ bản của GS Phan Trọng Luận ). 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Đề xuất cách thức góp phần rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao (SGK Ngữ văn 11 ban Cơ bản). 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu loại câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng khám phá giá trị tác phẩm góp phần rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT 5. Đóng góp mới của luận văn - Giúp đồng nghiệp xây dựng cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về hệ thống câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng góp phần rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương. - Giúp đồng nghiệp vận dụng hệ thống câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng vào dạy học tác phẩm văn chương một cách hiệu quả. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Thống kê - Nghiên cứu tài liệu - So sánh - Phân tích - Quan sát, phỏng vấn, điều tra. 12 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo. nội dung chính của luận văn được trình bày trong ba chương Chƣơng 1 : Cơ sở lí luận của đề tài. Chƣơng 2 : Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện tư duy văn học cho học sinh THPT bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng. Chƣơng 3: Thiết kế và thể nghiệm dạy học tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. 13 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tƣ duy văn học 1.1.1 Tư duy 1.1.1.1.Khái niệm tư duy Theo từ điển Tiếng Việt tư duy là "giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí" [49,tr. 1070]. Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong những đặc tính của vật chất phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lí thuyết Karl Marx cho rằng " Vận động kiểu tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển vào và được cải tạo/ tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh". Tóm lại , tư duy là quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất bên trong của sự vật hiện tượng, những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.Về mặt bản chất, kết quả của quá trình tư duy là sự phản ánh thế giới khách quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. V.I.Lênin đã từng chỉ ra rằng:"Thế giới là một sự vận động có quy luật của vật chất và nhận thức của chúng ta- sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên- thì chỉ có thể phản ánh tính quy luật đó mà thôi" [14, tr.17-18] 1.1.1.2.Tư duy và ngôn ngữ Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là một câu hỏi lâu đời. Trong qúa khứ có hai quan điểm bao quát: một là nắm được vấn đề ngôn ngữ chỉ đơn thuần là phương tiện truyền bá hoặc chỉ là vỏ bọc bên ngoài của tư duy; hai là xác nhận dòng ngôn ngữ và tư duy là một, tư duy chỉ là lời nói không có âm thanh. Thực tế các nhà nghiên cứu đã khẳng định tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Tư duy của con người gắn liền với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm 14 phương tiện. Trong giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, Sassure nói rằng khi chưa có ngôn ngữ thì con người không thể phân biệt được hai khái niệm khác nhau( nghĩa là chưa có tư duy). Khi ấy tư duy cũng như âm thanh chỉ là một thể liên tục, không định hình. Trên quá trình phát triển lao động, ngôn ngữ xuất hiện giữa hai cái thực thể không định hình này và chia cắt cả hai thành những đơn vị phân lập như ta cắt hai mặt của một tờ giấy. Như thế ngôn ngữ và tư duy cùng xuất hiện một lúc. Mác cũng khẳng định" ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy" và " ý tưởng không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ được". Cả những khi người ta suy nghĩ thầm lặng bằng cái gọi là ngôn ngữ bên trong thì mối quan hệ ấy vẫn khăng khít với nhau. Vậy ngôn ngữ và tư duy là một thể thống nhất. Trong thực tế ngôn ngữ loài vật dù có hoàn thiện đến đâu cũng chỉ là một hệ thống tín hiệu thông báo có tính chất bản năng. Trái lại ngôn ngữ của loài người gắn bó khăng khít với tư duy và do cái nguyên lí sáng tạo ấy chi phối nên không bị lệ thuộc vào một điều kiện bên ngoài nào kiềm toả nổi. Nó luôn luôn đổi mới để đáp ứng mọi yêu cầu diễn đạt và có thể nói như Herder " Con người là một tạo vật sinh ra với ngôn ngữ" Giữa ngôn ngữ và tư duy luôn có mối tương quan lẫn nhau. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong những hoạt động đa dạng của tư duy. Về phần này, riêng ở mặt thông hoá, ngôn ngữ cũng có tính chất ưu việt hơn so với các hệ thống thông tin khác mà con người sử dụng. Nhờ có khả năng diễn đạt tiềm tàng vô tận ấy mà ngôn ngữ không chỉ giới hạn ở chỗ trao đổi tư tưởng, tình cảm giữa con người với nhau. Trong những hoạt động của tư duy trừu tượng, nó vẫn giữ vai trò đặc biệt cần thiết. Vì trong thực tế hằng ngày, suy nghĩ là mình nói với mình. Trong những lĩnh vực hết sức trừu tượng như toán học, nhà nghiên cứu cũng phải dùng đến ngôn ngữ, Einstein cũng đã thừa nhận: " Không có nhà bác học nào suy nghĩ bằng công thức". Người ta suy nghĩ bằng từ, bằng cái gọi là " tiếng nói bên trong". Nhờ ngôn ngữ nên những thao tác muôn màu vẻ của tư duy mới thực hiện và phát triển được. Trong thời đại 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan