Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua các giờ đọc hiểu văn bản văn học...

Tài liệu Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua các giờ đọc hiểu văn bản văn học

.DOC
21
216
86

Mô tả:

RÈN LUYỆN NĂNG LỰC PHẢN BIỆN CHO HỌC SINH QUA GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Xu thế tất yếu của GD là đào tạo những con người có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Điều đó có nghĩa phản biện là năng lực quan trọng của mỗi con người trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay. Ngày nay nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như Anh, Mĩ dã chú trọng đề cao, tạo điều kiện cho học sinh phát huy tư duy phản biện, thậm chí coi nó như một môn học chính thức. Đối với giáo dục Việt Nam những năm gần đây chúng ta cũng đã chú trọng tới vấn đề này. Trong quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do bộ trưởng GD-ĐT ban hành kèm theo thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày 06/4/2012, chươmng II, điều 7, mục 2c có nói: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện ”. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo dạng đề mở những năm gần đây cũng đã minh chứng rằng giáo dục của chúng ta đang hướng tới phát triển kĩ năng phản biện cho học sinh. 2. Học sinh ngày nay luôn có nhu cầu tự bộc lộ mình, nhất là trong những tình huống được động viên, khích lệ, có hứng thú. Các em không thích lối tư duy thụ động, phụ thuộc vào người khác. Cũng không muốn bị áp đặt bởi cách hiểu của người khác. Các em thích tìm lí lẽ của riêng mình, có cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách cảm, cách nghĩ táo bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Nhưng do quan niệm truyền thống, lạc hậu nên nhiều khi vô tình chúng ta đã cản bước tiến của các em. Chúng ta đã vội vàng phủ nhận những lí lẽ mới mẻ hoặc nặng nề hơn là “kết tội ”. Chính điều đó khiến cho môn văn trở nên nhạt nhẽo trong tâm hồn học sinh. Và quan trọng hơn là chúng ta không kích thích được sự phát triển của năng lực tư duy phản biện cần có của học sinh hiện nay. 3. Tác phẩm văn học là sản phẩm của quá trình sáng tạo. Việc truyền dạy và cảm nhận nó tất nhiên cũng là một nghệ thuật. Nhưng tác phẩm văn học vốn đa nghĩa. Việc cảm nhận và đánh giá một tác phẩm nghệ thuật cũng thay đổi theo thời gian và theo thị hiếu của từng người. Có những tác phẩm với người này là một kiệt tác, nhưng với người khác lại chẳng gây được ấn tượng đặc biệt gì. Có những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngày sau chưa hẳn thế hoặc ngược lại, ngày trước bị phê phán kịch liệt nhưng ngày nay người ta lại đồng tình, đồng cảm. Hơn thế, văn học cũng tuân thủ theo quy tắc riêng của nó. Không phải những tác phẩm ra đời sau có thể phủ nhận, hoặc đem lại nhiều giá trị mới mẻ hơn những tác phẩm ra đời trước. Thực tế cho thấy rằng người đọc sẽ tìm thấy những giá trị mới mẻ của một tác phẩm văn học dù là xưa hay nay, mới ra đời hay ra đời từ lâu nếu có cách nhìn mới. Văn học rất cần có những cách nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên và học sinh có cơ hội để bày tỏ quan điểm của mình. Đây chính là lợi thế để rèn luyện năng lực phản biện của học sinh trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học ở trường THPT. Nhưng trên thực tế bấy lâu nay chúng ta vẫn đang dạy học một chiều. Nghĩa là vẫn “bắt” học sinh cảm nhận theo cách chúng ta đã hiểu. Tất nhiên chúng ta đã đổi mới phương pháp dạy học một cách mạnh mẽ. Điều đó đã có hiệu quả. Nhưng những câu hỏi theo phương pháp dạy học được coi là tích cực như gợi mở hay nêu vấn đề thì cũng vẫn mang tính “có sẵn”, nghĩa là cho học sinh lối tư duy theo con đường sẵn có mà ít cho các em tranh luận, phản biện theo cách của mình. Điều này không chỉ làm giảm đi sức hút của môn văn mà còn làm mai một tư duy lập luận phản biện ở những học sinh ưu tú. 4. Mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc. Vậy nên việc rèn luyện và phát huy khả năng tư duy phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết: “Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công hơn trong cuộc sống ”(Bùi Thế Nhưng). Hơn nữa nếu chúng ta muốn học sinh, sinh viên của mình có đủ bản lĩnh, tự tin để tham gia các chương trình đào tạo tiên tiến trên thế giới thì việc rèn luyện năng lực phản biện cho họ ngay từ khi còn ở cấp THPT là điều thiết thực và quan trọng. Vì những lí do trên nên chúng tôi lựa chọn đề tài “Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua các giờ đọc hiểu văn bản văn học”. Đây không phải là vấn đề bây giờ mới được bàn đến. Song hi vọng với cái nhìn và phạm vi ứng dụng cụ thể cho phân môn đọc hiểu của bộ môn Ngữ Văn, chúng tôi sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng những đòi hỏi thiết thực của giáo dục hiện nay. II. PHẠM VI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. 1. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài bàn đến việc rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh ở cấp THPT. Đây là một vấn đề thiết thực và cần tiến hành đồng bộ ở nhiều môn học. Hơn nữa cần được rèn luyện một cách thường xuyên thì mới có hiệu quả, bởi nó thuộc về năng lực chứ không phải do thiên bẩm. Nhưng trong khả năng của người viết, tôi chỉ xin đề xuất một số cách rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học, một phân môn được coi là nhạy cảm nhất của bộ môn Ngữ Văn. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài nhằm tìm cách phát huy tối đa năng lực phản biện của người dạy và người học trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học. Đồng thời tạo ra được một không khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn cho việc chiếm lĩnh tri thức văn học trong trường phổ thông. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Phương pháp nghiên cứu chính: - Phương pháp thể nghiệm. - Phương pháp khảo sát, thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau: Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực phản biện và hứng thú học tập môn Ngữ Văn của học sinh THPT ở một số trường. Bước 2: Dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện ở một số lớp. Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học. Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn: 1. Phản biện và năng lực phản biện: Phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập luận, biện bác của mình để chỉ ra những điểm đúng/sai, hợp lí/bất hợp lí, khả thi/ Bất khả thi....của đối tượng vấn đề được đưa ra. Mục đích của phản biện nói chung là mang lại nhận thức đúng đắn, sâu sắc về đối tượng và từ đó co giải pháp phù hợp, hiệu quả tác động lên đối tượng. Năng lực phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lí chỉ ra các ngụy biện/ ngụy tạo, cảnh báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện nhu cầu phản tỉnh, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng, vấn đề trong chuyên môn. Năng lực phản biện là năng lực phát hiện ra những bất cập, bất hợp lí... để có thể nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. (Nguyễn Thành Thi, Cần rèn luyện năng lực phản biện trong học tập cho học sinh, sinh viên, Tạp chí khoa học văn hóa và du lịch, số 13, tháng 9 năm 2013). Từ năng lực phản biện sẽ giúp học sinh hình thành tư duy phản biện. Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích đánh giá một thông tin đã có theo cách nhìn khác cho vấn đề đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Tư duy phản biện có tính chủ động, do đó khi một người có tư duy phản biện họ sẽ tự nảy ra câu hỏi, tự tìm các thông tin liên quan, quan sát nhìn nhận, đánh giá vấn đề hơn là học hỏi thụ động từ người khác. Như vậy việc rèn luyện tư duy phản biện sẽ kích thích tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo hứng thú mới cho họ trong quá trình tìm kiếm, chiếm lĩnh tri thức. 2. Ý nghĩa của rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh: Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh là giúp học sinh vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, cố gắng hướng tới những cái mới trong khoa học, thoát ra những rào cản của lối mòn tư duy, cố gắng tìm ra cái mới, kích thích các em tự đặt ra những câu hỏi và trả lời chúng theo cách nghĩ của mình. Còn khi phản bác ý kiến của người khác các em sẽ biết trình bày lập luận một cách thuyết phục, rõ ràng, chặt chẽ. Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh cũng chính là rèn luyện cho các em khả năng lập luận, tìm hiểu vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau. Nó giúp các em tránh được tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời hợt xuôi chiều trong khoa học, ngăn chặn tình trạng học vẹt, đọc vẹt. Vì vậy quá trình tích lũy kiến thức của học sinh cũng sẽ có hiệu quả cao hơn. Đồng thời còn rèn luyện cho các em các con đường tư duy khoa học, cách giải quyết vấn đề khác nhau một cách linh hoạt và hiệu quả. Rèn luyện năng lực phản biện còn giúp học sinh tự nắm vững được tình hình học tập của chính mình. Học sinh biết mình còn có những chỗ thiếu sót hoặc sai lầm nào để bổ sung hoặc sửa chữa, xác lập mục tiêu học tập mới. Đồng thời trong quá trình tranh luận của mình học sinh sẽ hoàn thiện thêm kĩ năng nói trước đám đông, kĩ năng thu hút người nghe, kĩ năng trình bày vấn đề khoa học...Nó cũng sẽ kích thích hứng thú học tập của học sinh, bởi vì các em luôn muốn là người chiến thắng trong các cuộc tranh luận. Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh còn giúp các giáo viên thu được những thông tin phản hồi hữu ích để điều chỉnh phương pháp dạy học của mình. Thông qua việc phản biện của trò, người dạy sẽ phân loại được đối tượng . Qua đó có sự điều chỉnh dạy học phù hợp cho mỗi đối tượng khác nhau. 3. Khả năng phản biện của học sinh THPT. Học sinh THPT đã có sự phát triển khá toàn diện về trí tuệ. Các em cố cách nhìn nhận vấn đề khá mới mẻ và nhiều khi “hồn nhiên”, nhưng rất thú vị. Thầy giáo Bùi Thế Nhưng đã có phát hiện về khả năng phản biện của học sinh như: Trong giờ dạy học truyện cổ tích “Tấm Cám”, một học sinh đã đưa ra ý kiến cho rằng Tấm không phải là người hiền lành như dân gian nói. Tấm đã trả thù Cám một cách dã man “bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào người. Cám chết”. Những tưởng đây là một phát hiện mới của học sinh ngày nay về nhân vật cổ tích. Nhưng một học sinh khác phản biện ngay: Tấm vẫn là người hiền lành. Cám và dì ghẻ đã hãm hại Tấm nhiều lần. Đó là hành vi thực hiện tội ác đến cùng. Tấm chết nhiều lần mà vẫn không tha. Nhưng Tấm vẫn nhẫn nhịn hết lần này đến lần khác, cùng lắm chỉ là những lời nhắc nhở Cám. Cho đến khi không thể thay đổi được tham vọng của Cám, Tấm mới bắt Cám trả giá bằng chính tham vọng của mình. Như vậy Cám chết là bởi bản chất tham lam và bị trừng trị theo đúng quy luật của cuộc sống. Như vậy nghĩa là em học sinh ấy đã đánh giá một tác phẩm văn học dân gian từ vị trí con người hiện đại, ở đố tội ác không được phép hoành hành, nó phải bị trừng trị ngay tức khắc. (Bùi Thế Nhưng, Khả năng phản biện của học sinh THPT trong học văn). Trong quá trình dạy học của mình tôi cũng nhiều lần gặp phải tình huống tương tự. Chẳng hạn khi dạy cho học sinh lớp 10 văn bản “Trao duyên”, tôi đang dẫn dắt để các em cảm nhận được bi kịch đau đớn của Kiều thì một học sinh xin phép được phản bác. Em cho rằng trong đoạn trích này nếu Kiều đau 10 phần thì Thúy Vân khổ 8,9 phần. Thứ nhất Thúy Vân và Kim Trọng không có tình ý với nhau. Thứ hai Kim Trọng là người yêu của chị, nếu Thúy Vân kết duyên cùng chàng, liệu có hạnh phúc không?. Thứ ba, Thúy Vân còn trẻ, nàng có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực của mình với người khác, sao lại đẩy nàng vào chỗ phải hi sinh hạnh phúc cả đời vậy. Thứ tư, Thúy Kiều gán duyên cho Thúy Vân có thể giúp thúy Kiều thanh thản khi “cậy em trả nghĩa chàng Kim” nhưng vô tình đẩy cả Vân Và Trọng vào bi kịch của cuộc sống hôn nhân không tình yêu...Nhưng điều em thấy tiếc nhất là ai cũng bênh vực Kiều, ca ngợi Kiều, mà chẳng ai thấu hiểu cho Thúy Vân cả. Đây cũng chính là cách nghĩ táo bạo của học sinh, cũng là cách nhìn của con người hiện đại về tình yêu và hôn nhân. Bởi hôn nhân hiện đại không có sự gán ghép, đổi trao hay “nhờ cậy”. Hoặc khi dạy văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu cho học sinh 12, tôi vô cùng bất ngờ trước cái lí lẽ sắc sảo của học sinh. Khi tôi đang dẫn dắt học trò khám phá vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài thì một học sinh xin phép được phản bác lại. Em cho rằng việc người đàn bà cứ chịu đựng những trận đòn của chồng không phải là cách hi sinh cho các con mà khiến cho vấn đề gia đình phức tạp hơn. Bằng chứng là thằng Phác càng trở nên căm hận cha, sẵn sàng đánh cha, giết cha để bảo vệ mẹ. Điều đó có nghĩa là nhân cách của nó đã bị tổn thương nghiêm trọng. Một học sinh còn “hài hước” hơn khi hỏi rằng: “Thưa cô tác phẩm này ra đời có phải nhằm mục đích tuyên truyền dân số và kế hoạch hóa gia đình không ạ. Vì em thấy trong truyện nhắc nhiều đến chuyện đẻ nhiều nên đói khổ”. Quả là cách nhìn thú vị của học sinh hiện đại. Điều đó cho thấy rằng các em luôn có khả năng xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, luôn muốn đặt ra những câu hỏi và tìm câu trả lời cho mình. Nếu gặp những trường hợp như vậy mà chúng ta vội vàng phủ nhận hoặc phán quyết các em “án tử” thì chẳng hóa ra chúng ta đã thủ tiêu con đường nhận thức chân lí mới mẻ của các em sao. II. Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học. 1. Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình huống phản biện. Việc tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh là vô cùng quan trọng. Bởi vì lúc này mới bắt đầu tiết học, tư duy của các em có thể đang để tâm đến kiến thức của giờ học trước, hoặc cũng có thể đang phân tán vì những trò chơi trong giờ giải lao. Để lôi kéo được các em chú ý đến bài học cần đến sự khéo léo dẫn dắt của người tổ chức. Thông thường các giáo viên sẽ dùng lời dẫn để kéo học sinh nhập cuộc. Lời dẫn của giáo viên càng hấp dẫn, mới mẻ, sáng tạo càng có khả năng nhanh chóng xác định tâm thế sư phạm cho học sinh tập trung chú ý và có ý thức huy động hứng thú cá nhân vào các bài học. Nếu trong lời dẫn tạo nên tình huống phản biện cho học sinh thì nó sẽ vừa kích thích được sự tò mò vừa khơi dậy tính hiếu thắng trong tâm lí học sinh. Vì vậy các em sẽ thoát nhanh ra khỏi ức chế ban đầu và tiếp nhận yêu cầu mới. Chẳng hạn khi dạy bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, có thể dẫn dắt: Hàn Mặc Tử là một tài thơ đặc biệt trong phong trào Thơ mới. Đương thời dư luận đánh giá tài năng của ông rất khác nhau. Có ý kiến cho rằng: “Hàn Mặc Tử? Thơ với thẩn! Toàn nói nhảm”. Còn Chế Lan Viên thì quả quyết: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại cái của thời kì này một chút gì đáng kể - đó chính là Hàn Mặc Tử”. Em tán đồng quan điểm nào? Hãy chứng minh quan điểm của mình qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Hoặc khi dạy bài “Tràng giang” của Huy Cận có thể nêu ra những cách hiểu khác nhau về bài thơ để khơi gợi hứng thú phản biện ở học sinh: Có ý kiến cho rằng Tràng giang là bài thơ thể hiện sự rung động của con người trước thiên nhiên cảnh vật? Còn ý kiến khác lại khẳng định: Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước âm thầm mà sâu sắc? Em tán đồng ý kiến nào? Vì sao? Để chứng minh được ý kiến của mình, chúng ta sẽ tìm hiểu bài thơ. Tạo được tâm thế nhập cuộc là tạo được những tình huống sư phạm đặc thù mà giáo viên thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú tiềm tàng và động cơ học tập tích cực, khơi dậy khát khao giao cảm với thế giới nghệ thuật, khơi dậy nhu cầu giao tiếp và đối thoại với nhà văn một cách tự nhiên, nhu cầu tực bộc lộ của bản thân, và năng lực sáng tạo trong quá trình tiếp nhận. Tình huống đó không chỉ dùng để mở đầu bài học mà còn duy trì một cách thích hợp xuyên suốt toàn bộ quá trình tiếp nhận, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá tác phẩm. Tất nhiên không phải lúc nào, bài nào chúng ta cũng làm được như thế này. Để tạo được tình huống phản biện cần phải ở những tác phẩm có nhiều cách hiểu khác nhau thì mới có hiệu quả. 2. Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện. Đây là khâu quan trọng nhất của giờ học theo hướng phát triển năng lực phản biện. Lúc này học sinh sẽ trình bày quan điểm của mình trước tập thể và quan trọng hơn là các em trực tiếp đối thoại với các bạn học sinh khác để bảo vệ quan điểm của mình. Học sinh sẽ đưa ra hàng loạt những lí lẽ, dẫn chứng và sắp xếp chúng theo một trật tự hợp lí để thuyết phục những người khác tán đồng quan điểm với mình. Cũng trong hoạt động này, học sinh có thể sẽ phải trả lời những câu hỏi do các bạn khác đặt ra. Điều này đòi hỏi các em phải có một thói quen tư duy biện chứng rõ ràng, khả năng ứng biến mau lẹ trước các tình huống phát sinh, và tất nhiên là phải hiểu về tác phẩm văn học một cách tường tận. Hơn thế học sinh còn cần phải biết cách quan sát, đánh giá thái độ của những người nghe xung quanh mình để điều chỉnh ngữ điệu, thái độ, lời văn... cho phù hợp. Thiết nghĩ con đường này sẽ cho học sinh nhiều bài học để trưởng thành hơn cả về trong tri thức lẫn cuộc sống. Trong quá trình tổ chức học sinh phản biện, giáo viên phải làm tốt vai trò là người tham dự - chia sẻ hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến” vượt ra khỏi khuôn khổ quy định. Trên thực tế đây là lúc giáo viên thu nhận được nhiều thông tin phản hồi nhất. Giáo viên vừa có thể nắm bắt được mức độ hiểu bài của học sinh để xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa quan sát được thái độ, hứng thú học tập của các em. Kỹ năng phản biện là hệ thống các kĩ năng trong từng khâu của quá trình để đưa ra một phản biện, bao gồm những kĩ năng chủ yếu: tư duy độc lập, phân tích – tổng hợp, lập luận, đánh giá... Với kỹ năng phản biện, giáo viên sẽ khuyến khích học sinh sử dụng các kĩ năng lập luận . Học sinh sẽ học cách nghiên cứu bằng cách đưa ra các lí giải hợp lí cho câu trả lời. Tổ chức tranh luận phản biện sẽ diễn ra theo các bước: Bước 1: Tổ chức cho các em làm việc theo từng nhóm. Nhóm này bao gồm những em có cùng quan điểm. Giáo viên tuyệt đối không lựa chọn mà để các em tự quyết định mình sẽ thuộc nhóm nào. Bước 2: Tổ chức cho các em thảo luận, làm việc cùng nhau để tìm ra các ý phản biện và sắp xếp chúng theo một trật tự lôgic. Ở bước này các em không chỉ học tập kiến thức, ghi nhớ bài học mà còn học tập được phương pháp làm việc theo nhóm sao cho hiệu quả nhất. Tất nhiên, giáo viên sẽ phải quan sát tổng thể quá trình làm việc của từng em, nếu không sẽ xảy ra tình trạng chỉ có một vài học sinh khá trong nhóm làm việc, số còn lại thì “ngồi chơi xơi nước”. Bước 3: Các nhóm cử đại diện trình bày vấn đề mà mình đã chọn. Sau khi trình bày, các bạn trong nhóm khác có thể nêu câu hỏi yêu cầu được giải đáp. Bước 4: Giáo viên và học sinh cùng chốt lại vấn đề trọng tâm. Việc tổ chức tranh luận này không nhất thiết là hình thức tranh luận theo nhóm. Có thể sử dụng cách tranh luận giữa các cá nhân học sinh với nhau, hoặc tranh luận giữa giáo viên và học sinh. Chẳng hạn trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức của bài học, ở một trường hợp nào đó, giáo viên khéo léo, cố ý nói sai vấn đề, hoặc dẫn một ý kiến nào đó chưa thỏa đáng để học sinh phát hiện ra và tranh luận. Nếu một lần học sinh chưa phát hiện ra thì có thể cố tình nhấn mạnh điểm sai thêm lần nữa. Nếu vài ba lần học sinh vẫn chưa phát hiện được thì giáo viên gợi khéo: hình như có vấn đề gì đó chưa ổn ở đây, các em có thấy thế không? Như thế sẽ lôi kéo học sinh phát hiện vấn đề. Khi học sinh phản biện đúng, có sức thuyết phục thì công nhận, bổ sung vào bài học, coi đó như là công lao, phát hiện mới mẻ, sáng tạo của học sinh. Trong quá trình tổ chức phản biện sẽ có nhiều tình huống nảy sinh, vì vậy trong quá trình thiết kế bài dạy, giáo viên nên có sự dự kiến tình huống và cách xử lí, tránh để rơi vào tình trạng bị động. Giáo viên cũng cần phải có kiến thức vững vàng để lí giải những khúc mắc cho học sinh một cách thấu đáo. Nhất là phải có quan điểm rõ ràng: đồng tình hay phản đối, đúng hay sai...Sau mỗi lần phản biện nên chốt lại ý trọng tâm để học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức. 3. Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển năng lực phản biện. Năng lực phản biện không thể có ngay lập tức mà cần đến một quá trình. Vì vậy cần cho học sinh thường xuyên luyện tập. Với hệ thống bài tập về nhà hoặc đổi mới hình thức kiểm tra, việc rèn luyện và phát triển năng lực phản biện cho học sinh sẽ có kết quả cao hơn. Việc chuẩn bị bài của học sinh hiện nay còn mang tính đối phó. Các em thường chép theo các sách hướng dẫn học bài, thậm chí không cần đọc văn bản mà vẫn có thể soạn bài, hoặc đọc câu hỏi yêu cầu trước rồi lướt nhanh xem câu trả lời ở đâu và ghi vào vở soạn. Việc chuẩn bị bài như thế đương nhiên sẽ không thể có hiệu quả. Vì vậy giáo viên nên có một số bài tập cho cả 2 giai đoạn, trước và sau khi đọc hiểu văn bản. Giáo viên cũng có thể dựa vào những câu trả lời của học sinh để so sánh mức độ hiểu bài của các em ở những giai đoạn khác nhau. Hệ thống bài tập không cần nhiều, có khi chỉ cần một vài bài với các dạng thức khác nhau như: bài tập trình bày một vấn đề, giải thích một vấn đề, tìm dẫn chứng cho luận điểm, sắp xếp các ý... Hoặc cao hơn có thể yêu cầu các em hoàn thiện một đề tài khoa học nhỏ. Đổi mới kiểm tra, đánh giá là yêu cầu bức thiết hiện nay. Mấy năm gần đây luôn có những dạng đề mới khích thích hứng thú sáng tạo và khả năng phản biện của học sinh. Chẳng hạn đề thi khối C năm 2012 như sau: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu. Đề thi đại học khối C năm 2013: Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa – Nam Cao) không đáng trách chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) vừa đáng thương lại vừa đáng trách. Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên. Qua đó có thể thấy rằng, chúng ta đã rất chú trọng đến yêu cầu đào tạo những học sinh ưu tú, có tư duy sáng tạo và năng lực phản biện. Điều này là hợp với xu thế phát triển của giáo dục trong nước và thế giới. 4. Khích lệ, động viên, mở đường. Trong quá trình dạy học cần có sự khích lệ, động viên. Thái độ này của giáo viên sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tất cả học sinh. Đặc biệt là những học sinh nhút nhát, rụt rè, thụ động, ít tham gia phát biểu, đối thoại. Nhiều học sinh có tư duy phản biện rất tốt, nhưng do tích cách nhút nhát, không thích thể hiện mình nên các em ít tham gia xây dựng ý kiến. Cũng có nhiều học sinh do sợ nói sai sẽ bị thầy, cô phê phán nên cũng không dám nói. Chính vì thế giáo viên nên khéo léo khích lệ các em bằng thái độ chân thành. Chẳng hạn trước một tình huống phản biện khó hãy động viên học sinh: Các em cứ mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình, nếu sai chúng ta sẽ bàn bạc lại. Nhưng biết đâu suy nghĩ trong đầu các em bây giờ lại là một phát kiến vĩ đại. Nếu không nói ra thì thật đáng tiếc. Hoặc khích lệ: Đừng sợ nói sai, hãy sợ chúng ta không dám nói. Hoặc: Cố lên nào, chúng ta sắp tìm ra chân lí... Thậm chí khích lệ bằng phần thưởng cũng là một cách vô cùng hiệu quả. Những lúc như thế các em sẽ cảm thấy tự tin hơn và đang có đồng minh bên cạnh. Tất nhiên việc này đòi hỏi sự chân thành từ phía giáo viên. Khen hay chê đều là một nghệ thuật. Nếu khen không đúng lúc sẽ trở thành “ba phải”, nếu chê không biết cách sẽ làm các em sợ hãi, lần sau không dám nói. Cho nên giáo viên nên biết cách “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. 5. Tạo không khí đối thoại tự do, dân chủ. Giờ dạy học văn phải tạo được không khí cảm xúc, sự đồng cảm, giao cảm, cộng hưởng xúc cảm giữa nhà văn – giáo viên – học sinh. Học sinh “trò chuyện” với nhà văn thông qua tác phẩm trung gian. Giáo viên là người hướng dẫn tổ chức cho cuộc đối thoại đó thật sự tự nhiên, bình đẳng, làm sao lôi cuốn và lay động được từng học sinh trong lớp học. Đó chính là hạt nhân của quá trình dạy học tác phẩm văn chương trên lớp. Mọi ý kiến của học sinh đều được trân trọng. Không khí đối thoại tự do dân chủ sẽ giúp cho quá trình học tập có hiệu quả cao hơn. Để tạo được không khí đó, giáo viên với vai trò tổ chức, tham vấn, chia sẻ luôn phải tỏ ra công tâm, khách quan trong đánh giá vấn đề. Cần khéo léo gợi mở vấn đề, tạo không khí học tập, kích thích tính tò mò hoặc tính hiếu thắng ở các em. Không nên đưa ra những phán quyết mạnh mẽ với những ý kiến trái chiều của các em, mà hãy tìm cách khích lệ, động viên để các em nói hết lập luận của mình. Tất nhiên việc này sẽ rất mất thời gian, nhưng đừng vì thế mà e ngại, lo lắng. Hãy lắng nghe và tôn trọng những ý kiến của các em và hãy dùng nghệ thuật sư phạm, kinh nghiệm giảng dạy để điều tiết bài học. 6. Phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học để rèn luyện ở học sinh năng lực phản biện: Mỗi một phương pháp, kĩ thuật dạy học đều có nhưng ưu điểm và hạn chế nhất định. Hơn nữa không có phương pháp nào phù hợp cho tất cả mọi đối tượng và mọi bài học. Vì thế việc kết hợp các phương pháp kĩ thuật dạy học khác nhau trong một giờ dạy là cần thiết. Có thể áp dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học như: - Dạy học nêu vấn đề có khuyến khích đối thoại phản biện: Dùng các câu hỏi nêu vấn đề, trong những câu hỏi ấy chứa đựng các ý kiến trái ngược nhau để học sinh đối thoại theo từng quan điểm. Chẳng hạn khi dạy “Tràng giang” có thể nêu vấn đề: Theo em, “Tràng giang” có phải là bài thơ hiện đại mang màu sắc cổ điển không? - Qua kĩ thuật tạo kịch tính phát sinh nhu cầu phản biện. Nghĩa là trong khi dạy học giáo viên có tình tạo nên một tình huống sai lệch nào đó khiến cho học sinh cảm thấy không phù hợp, không thể tán đồng mà buộc họ phải lên tiếng tranh luận. Có thể đưa ra câu hỏi khi dạy bài “Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”: Trong bi kịch mất nước của nước Âu Lạc, chỉ có Mị Châu có lỗi nên Rùa Vàng mới gọi nàng là giặc, An Dương Vương mới chém chết nàng. - Phân vai phản biện: nghĩa là cho học sinh đóng vai người nêu ý kiến và người bác bỏ ý kiến để phản biện lẫn nhau. - III. Bên cạnh đó có thể dùng các phương pháp, kĩ thuật khác như: xây dựng thực hiện hệ thống bài tập xây dựng luận chứng, phản biện luận chứng, bài tập luyện thủ thuật hùng biện.. GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM Đọc văn TÂY TIẾN Quang Dũng A- Mức độ cần đạt: - Cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên miền Tây và nét hào hoa, dũng cảm, vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ. - Nắm được mhững đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu. B- Trọng tâm kiến thức, kĩ năng: 1) Kiến thức: - Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội nhưng mĩ lệ, trữ tình và hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa. - Bút pháp lãng mạn đặc sắc, ngôn từ giàu tính tạo hình. 2) Kĩ năng: - Đọc hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại. - Rèn luyện kĩ năng cảm thụ thơ. C- Tiến trình lên lớp: 1- Ổn định: 2- Kiểm tra bài cũ: 3- Bài mới: “Tây Tiến giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài thì càng sáng, càng lấp lánh và hấp dẫn. Đó là một bài thơ kì diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng...Một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và trong kí ức mỗi người”. Em có tán đồng ý kiến này không? Vì sao? Hoạt động của thầy và trò Hoạt động 1: Hướng dẫn tìm hiểu tác giả, tác phẩm.. ? Trình bày khái quát vài nét về nhà thơ Quang Dũng. Nội dung bài học I- Tiểu dẫn: Tác giả: - Tên khai sinh: Bùi Đình Diệm (1921-1988) - Là một trí thức hào hoa, lãng mạn. - Có tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh,.. → là một nghệ sĩ đa GV chốt lại vấn đề, nhấn mạnh chất tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng. Ông đã mang cái chất hào hoa của người Hà Nội và của cả xứ Đoài, quê hương ông, để làm chất men say lãng mạn ở Tây Tiến và nhiều bài thơ khác tài. - Là một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. - Tác phẩm chính: Những làng đi qua, Đôi mắt người Sơn Tây... (Tranh và nhạc của Quang Dũng) 2- Tác phẩm: - Hoàn cảnh sáng tác: cuối 1948, ở Phù Lưu Chanh, khi rời xa đơn vị cũ. (Trình chiếu hình ảnh trên máy và thuyết minh) + Ở giai đoạn quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp. + Trong khí thế hào hùng của toàn dân tộc - Quang Dũng, đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến - xa đơn vị cũ - nhớ → Tây Tiến. - Đoàn binh Tây Tiến: + Tên binh đoàn: Tây Tiến- là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào & đánh tiêu hao lực - Gv cho hs tiếp tục dựa vào lượng quân đội Pháp ở thượng Lào & Tây Bắc Bộ VN. phần tiểu dẫn tìm: + Tiến về phía Tây ? Hoàn cảnh sáng tác? - Nhan đề: Nhớ Tây Tiến -> Tây Tiến. Nhớ Tây Tiến: hướng người đọc đến cảm xúc toàn bài, đó là nỗi nhớ. GV giới thiệu vài nét về Tây Tiến: cảm xúc lặn xuống chiều sâu, chỉ còn đoàn binh Tây Tiến và vùng một niềm đau đáu, một ấn tượng bủa vây, ám Tây Bắc. ảnh: Tây Tiến. (Trình chiếu trên máy và II- Đọc hiểu: thuyết minh) 1.Nhớ về những chặng đường hành quân: Núi rừng miền Tây xa xôi, hoang vu dữ dội & đầy hiểm trở đe doạ. + Với những địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lat, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu,..Mỗi nơi là một kỉ niệm, một ấn tượng đậm nét. Nêu tình huống phản biện: Có ý kiến nói rằng: nhan đề “Nhớ Tây Tiến” cụ thể và ý nghĩa hơn “Tây Tiến” . Hãy tranh luận với ý kiến trên? + Hình ảnh . Dốc khúc khuỷu . Cồn mây, súng ngửi trời. . Ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống. . Sương lấp → Hình ảnh thơ khiến cho người đọc hình dung rõ con đường hành quân vất vả, gian lao, đầy hiểm trở của người lính Tây Tiến. + Sử dụng từ láy: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút giàu giá trị tượng hình, thanh trắc liên tục: câu thơ gân guốc, giàu tính tạo hình. + Nhịp thơ: 4/3 như trở thành giao định rạch ròi hai hướng lên xuống của vô vàn con dốc tạo thành con đường hành quân + Thanh điệu: Trắc – bằng đan xen tạo nên sự cân bằng cảm giác: đang gập ghềnh trắc trở với những thanh trắc bỗng nhẹ nhàng thư thái bởi những thanh bằng.  Thiên nhiên miền Tây không chỉ dữ dội mà còn rất trữ tình: + Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. + Hoa về trong đêm hơi.  Ngoài ra Tây Tiến còn là một vùng đất thấm đẫm tình người: cơm lên khói, mùa em thơm nếp xôi.  Người lính Tây Tiến: + Hồn nhiên, tinh nghịch: súng ngửi trời, cọp trêu người (chất lính ). + Dãi dầu sương gió: gục lên súng mũ bỏ quên đời. Tiểu kết: Sức hấp dẫn chủ yếu của đoạn thơ đầu là vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ của núi rừng Tây Bắc trải theo chặng đường hành quan của người lính Tây Tiến. Bút pháp lãng mạn ưa cực tả và thủ pháp đối lập đã tạo ra trng đoạn thơ bên cạnh những mảng vẽ đậm, bạo tay là những nét mảnh mai, hư thực. Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc hiểu. Thao tác 1: Tìm hiểu về nỗi nhớ những chặng đường hành quân. Nêu tình huống: Có ý kiến cho rằng: Thiên nhiên miền Tây hiện lên trong đoạn thơ thật dữ dội, hoang sơ. Ý kiến khác lại cho rằng thiên nhiên miền Tây thật thơ mộng, mĩ lệ. Ý kiến của em như thế nào? (Trình chiếu trên máy và thuyết minh) HS tìm ra các ý để phản biện: - Đoàn quân TT đã hành quân qua những nơi nào Những kỉ niệm nào đã được nhắc đến - Thiên nhiên miền Tây dữ dội, hiểm trở hiện lên qua hình ảnh nào - Tìm những từ láy và phân tích hiệu quả biểu đạt của 2-Nỗi nhớ về những đêm liên hoan lửa trại và chiều sương Châu Mộc: a. Những đêm hội đuốc hoa: + Bừng lên:. Tưng bừng (không khí rộn ràng, náo nhiệt) . Bừng sáng (ánh sáng làm cả một vùng đất như được thắp sáng lên) . Bừng tỉnh (không khí náo nhiệt làm cả núi rừng miền Tây vốn yên ắng như được tỉnh giấc) + “Kìa em”: cảm xúc ngạc nhiên, thích thú như phát hiện ra một điều kì lạ. + “Xiêm áo”, “khèn”: âm nhạc lạ, trang phục lạ, con người lạ..., những người lính như ngỡ ngàng, say đắm trong lễ hội => cảm xúc lãng mạn như được thăng hoa. - Người lính TT: say cảnh, say người → chan hoà màu sắc, âm thanh tha thiết. b. Những chiều sương cao nguyên Châu Mộc: Đoạn thơ hiện lên với ấn tượng từ một bức tranh tuyệt đẹp với hình ảnh, đường nét,chi tiết, màu sắc và tạo nên sự cân đối hài hòa: + hồn lau: không gian thơ mộng, mang cả linh hồn + dáng người trên độc mộc: khỏe khoắn, trẻ trung. +hoa đong đưa: yểu điệu, làm duyên. + Thiên nhiên tựa hồ cũng tình tứ, cũng có linh hồn như con người. + Dường như thiên nhiên và con người có sự sóng đôi, tạo nên chất thơ đằm thắm. Cảnh vừa thơ mộng, tĩnh lặng, vừa thoáng chút xao xác trong tâm hồn người qua những nét vẽ tinh tế, tài hoa. +Điệp từ: “có thấy”, “có nhớ”...tạo nên chiều sâu của nỗi nhớ GV tiểu kết: Tây Tiến của những buổi liên hoan văn nghệ quân dân, của những chiều sương mơ hồ bảng lảng đã để lại cảm giác nhung nhớ, bâng khuâng trong lòng người. Khác với đoạn thơ thứ nhất, ở đây QD chủ yếu sủ dụng những nét vẽ mềm mại, tinh tế. Cái “tinh tế toát ra từ cốt cách hào hoa, phong nhã và một thi tài hiếm có” ð nó - Ngắt nhịp của đoạn thơ như thế nào. Cách ngắt nhịp ấy có hiệu quả nghệ thuật gì. - Sự phối hợp thanh điệu trong bài thơ có hiệu quả gì? Câu hỏi tranh luận: Câu thơ “anh bạn dãi dầu không bước nữa. Gục lên súng mũ bỏ quên đời” nói về cái chết của người lính trên đường hành quân một cách trần trụi, nghiệt ngã? Học sinh tranh luận. TIẾT 02 Thao tác 2: Tìm hiểu nỗi nhớ về những đêm liên hoan lửa trại và chiều sương Châu Mộc: Nêu vấn đề: Đoạn thơ đã khơi dậy một đêm hội đuốc hoa đầy chất nhạc. Em hãy chứng minh điều đó? Nêu vấn đề: Người xưa thường nói “thi 3.Nhớ về đồng đội - những chiến binh Tây Tiến: * Vẻ đẹp hào hùng: - Hình vóc dáng vẻ >< nội lực bên trong - Khí thế dũng mãnh oai hùng: mắt trừng, dữ oai hùm → xây mộng chiến công, bảo vệ bình yên cho biên cương tổ Quốc. - Tinh thần hi sinh quên mình vì TQ: + Sử dụng từ Hán Việt trang trọng: biên cương, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành → sự hi sinh, mất mát đau thương, giọng điệu trang trọng + Chiến trường - chẳng tiếc đời xanh: quên mình, dâng hiến, tất cả vì lí tưởng đẹp đẽ. + anh về đất: sự hi sinh lặng lẽ hoá thân vào đất nước để trở thành bất tử. + Khúc độc hành của dòng sông Mã: thay mặt cho nhân dân đưa người lính về cõi vĩnh hằng * Vẻ đẹp hào hoa: - Tâm hồn mơ mộng, lãng mạn: gửi mộng, mơ Hà Nội dáng kiều thơm. - Đời sống tâm hồn phong phú. - Tinh thần lạc quan, nhìn hiện thực gian khổ bằng cái nhìn lạc quan, hài hước * “Vẻ đẹp tráng sĩ” của người lính Tây Tiến (vẻ đẹp của đấng trượng phu, giàu tính ước lệ): - Dáng vẻ oai phong lẫm liệt, hào khí ngất trời. - Mang chí khí của người chinh phu . - Sự hi sinh anh hùng. - Hình tượng người lính xuất hiện trong một không gian tiền sử, cổ xưa. *Vẻ đẹp hiện đại của những “anh bộ đội cụ Hồ”: - Mang chất lính trẻ trung, tinh nghịch. - Mang tâm hồn lãng mạn , mộng mơ. - Nhạy cảm trước những vẻ đẹp phương xa, xứ lạ. - Mang khát vọng lập chiến công hiển hách. trung hữu họa” (trong thơ có họa). Bốn câu thơ này của Quang Dũng có phải là một bức họa không? - Mang tinh thần Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh của thời đại. - Sự gần gũi gắn bó với nhân dân => tình quân dân sâu đậm. Thao tác 3: Tìm hiểu hình tượng người lính TT. Học sinh nhập vai phản biện: HS1: Phản biện vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến. HS2: Phản biện vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến. HS3: Phản biện chất tráng sĩ trong hình ảnh người lính Tây Tiến. HS4: Phản biện chất lính “bộ đội cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp của người lính Tây Tiến. (Trình chiếu trên máy Thao tác 4: Tìm hiểu lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây Bắc Bài tập về nhà: Phải chăng đoạn thơ là khúc vĩ thanh tạo nên sức đồng vọng, lan tỏa cho thế hệ sau? GV tiểu kết: Hồi kí về đoàn binh Tây Tiến là những trang hào hùng và bi trâng. QD đã không né tránh hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh, nhưng cái khốc liệt ấy vẫn mang âm hưởng hào hùng, bi tráng. Nó thôi thúc lòng người trong lời giục giã “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, trong âm hưởng dội vang hồn thiêng sông núi của “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Và tất cả hóa thành bất tử cùng với bức tượng đài về người lính Tây Tiến trong lời ước hẹn “Ai lên.....” 4. Lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây Bắc: “Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” - Cách nói khẳng định: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”  tô đậm cái không khí chung của một thời Tây Tiến với lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày về, một đi không trở lại (nhất khứ bất phục hoàn) - Đường lên Tây Tiến: “thăm thẳm, chia phôi”: nỗi xót xa khi đã xa đồng đội, khi nghĩ đến đường lên Tây Tiến xa xôi, vời vợi. - Nhà thơ khẳng định tâm hồn mình thuộc về Tây Tiến: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” + Mùa xuân ấy: thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại  mốc thương nhớ vĩnh viễn trong trái tim những người Hs về nhà làm bài, gv sẽ kiểm tra. lính Tây Tiến một thời + Cách nói đối lập: Sầm Nứa >< về xuôi (tâm hồn) (thể xác)  Sự gắn bó sâu nặng với đoàn quân Tây Tiến: dù đã rời xa nhưng tâm hồn, tình cảm vẫn đi cùng đồng đội, vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi đã đi qua => Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm buồn nhưng tinh thần chẳng về xuôi làm toát lên vẻ hào hùng của cả đoạn thơ. Hoạt động 3: Hướng dẫn tổng kết: Nêu vấn đề: Vì sao nói “Tây Tiến” là bài thơ viết III- Kết luận: về một thời nhưng là bài thơ Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa và phong độ của mọi thời? hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc hoạ vào thơ ca dân tộc một bức tượng đài bất tử , bi tráng về người lính vệ quốc trong kháng chiến chống Pháp. + GV chốt lại. D- Củng cố, dặn dò: Bài tập về nhà: - Phân tích cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến với hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu. - Từ lí tưởng của những người lính tây Tiến, hãy viết bài văn nói về lí tưởng của thanh niên ngày nay IV. Kết quả thể nghiệm: Trong hai năm học tôi đã tiến hành nhiều phương pháp dạy học khác nhau để phát triển năng lực phản biện cho học sinh. Và kết quả thu được rất khả quan. Số lượng học sinh khá giỏi tăng lên rõ rệt. Cụ thể: Năm học Xếp loại Lớp Số bài kiểm tra Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém 20142015 20152016 SL % SL % SL % SL % SL % 11A13 40 5 12.5 22 55.0 11 27.5 2 5.0 0 0.0 11A14 44 6 13,6 23 52,3 13 29,5 2 4,5 0 0.0 12A13 40 9 22,5 27 67,5 4 10 0 0.0 0 0.0 12A14 44 11 25 30 68,2 3 6.8 0 0.0 0 0.0 Đây là kết quả của những bài kiểm tra có dạng đề nhằm phát huy năng lực phản biện cho học sinh. Tôi nhận thấy sau năm học, các em có sự tiến bộ rõ rệt. Đặc biệt là không khí các giờ học văn luôn rất hào hứng, sôi nổi. Các em đã nhập cuộc một cách say sưa và mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình. Ngay cả một số em nhút nhát, ít nói thì nay cũng có phần mạnh dạn hơn. Khả năng lập luận của các em càng ngày càng chặt chẽ. Các lí lẽ cũng sắc sảo hơn. Đây là một tín hiệu vui cho dạy học văn hiện nay. Qua điều tra hứng thú học tập của học sinh chúng tôi còn thu được những kết quả ngoài sự chờ đợi. Trong 84 học sinh của 2 lớp A13 và A14 thì có tới 71 học sinh, chiếm 84,5%, thích bài học theo hướng tranh luận, phản biện. Theo các em giờ học như vậy các em sẽ không cảm thấy nhàm chán, mà luôn có hứng thú để “tranh cãi” với các bạn, kiến thức cũng dễ nhớ hơn, về nhà có động lực để soạn bài chứ không soạn theo kiểu đối phó nữa. Chính bản thân các em còn nhận thấy khả năng lập luận và vốn ngôn ngữ của mình ngày càng trở nên phong phú hơn. Học sinh thích không khí thoải mái, tự do dân chủ trong tiết học. Họ tin tưởng và gần gũi với giáo viên của mình hơn. KẾT LUẬN Sau thời gian nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học là điều cấp thiết và khả thi. Phản biện là năng lực mang lại nhiều lợi ích trong các lĩnh vực chuyên môn học thuật và ứng dụng cuộc sống. Năng lực phản biện không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện. Nhà trường thông qua các môn học, nhất là môn Ngữ Văn, tích cực rèn luyện kĩ năng này cho học sinh để các em chuẩn bị tốt hành trang cho cấp học cao hơn. 2. Năng lực phản biện cần được rèn luyện có phương pháp, kĩ thuật. Giáo viên nên áp dụng linh hoạt và kết hợp chúng để đem lại hiệu quả tốt nhất. Nhà trường cũng nên đa dạng hóa các hoạt động học tập (như ngoại khóa) để học sinh có cơ hội cọ xát, thể nghiệm. 3. Để có một giờ dạy học với mục đích rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh cần có một số nhân tố tiền đề như: Có tri thức sâu rộng về vấn đề mình đang bàn đến, có niềm tin mạnh mẽ vào tính đúng đắn, sức thuyết phục của lẽ phải trong lập luận của mình, có đủ dũng khí để không ngại ngùng khi va chạm và nói lên quan điểm của mình, có nhiệt tình, tâm huyết với môn học, giờ học và đặc biệt là có kĩ năng thuần thục được tôi luyện qua thử thách cùng văn học trong quá trình dài. MỤC LỤC. MỞ ĐẦU I. II. Lí do chọn đề tài........................................................... Phạm vi, mục đích nghiên cứu............................................. 1. Phạm vi nghiên cứu........................................................... 2. Mục đích nghiên cứu................................................................. 3. Phương pháp nghiên cứu............................................ 1 2 2 3 3 NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận và thực tiễn 4
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan