Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ 1919 ...

Tài liệu Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ 1919 - 1945, lớp 12 trung học phổ thông ( chương trình chuẩn )

.PDF
117
274
104

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ------------------- NGUYỄN TIẾN TRÌNH RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 - 1945, LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 8 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................ 15 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ....................................... 15 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................. 16 6. Ý nghĩa của đề tài ..................................................................................... 17 7. Giả thuyết khoa học .................................................................................. 17 8. Cấu trúc luận văn...................................................................................... 17 Chƣơng 1: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG. LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................................................................ 18 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài ......................................................................... 18 1.1.1. Cơ sở xuất phát ................................................................................... 18 1.1.2. Quan niệm về rèn luyện kĩ năng thực hành lịch sử.............................. 28 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử .................................................................................... 33 1.1.4. Các kĩ năng thực hành cần rèn luyện cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông ....................................................................................... 38 1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 40 1.2.1. Thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử hiện nay ............................................................................................ 40 1.2.2. Khái quát thực trạng ........................................................................... 44 3 Chƣơng 2: CÁC BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945 (CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN) ................................... 46 2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1945 (lớp 12 chương trình chuẩn) ..................................................................................... 46 2.1.1. Vị trí ................................................................................................... 46 2.1.2. Mục tiêu ............................................................................................. 47 2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 .... 48 2.2. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ 1919- 1945.......................................................... 56 2.2.1. Rèn luyện kĩ năng làm việc với sách giáo khoa và tài liệu tham khảo . 56 2.2.2. Rèn luyện kĩ năng diễn đạt (nói và viết) khi trả lời câu hỏi và làm bài tập ................................................................................................................ 65 2.2.3. Rèn luyện kĩ năng lập niên biểu, sử dụng và thực hành làm việc với đồ dùng trực quan (sơ đồ, biểu đồ, bản đồ)........................................................ 72 2.3.3. Rèn luyện các kĩ năng trong hoạt động ngoại khóa lịch sử (tham gia các công tác công ích xã hội) .............................................................................. 79 2.4. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................... 86 2.4.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................ 86 2.4.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................ 87 2.4.3. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm.......................................................... 87 2.4.4. Tiến hành thực nghiệm ....................................................................... 88 2.4.5. Kết quả thực nghiệm........................................................................... 88 KẾT LUẬN ................................................................................................. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 93 PHỤ LỤC 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DH Dạy học DHLS Dạy học lịch sử GV Giáo viên HS Học sinh MTDH Mục tiêu dạy học PPDH Phương pháp dạy học QTDH Quá trình dạy học SGK Sách giáo khoa THPT Trung học phổ thông 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Công cuộc đổi mới đất nước trong xu thế hội nhập hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi cho sự nghiệp đổi mới giáo dục nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện, không chỉ có tri thức mà còn phải có năng lực tư duy và khả năng thực hành. Đây là một yêu cầu quan trọng của việc giáo dục thế hệ trẻ “Hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với thực tiến, giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội” [18, tr.8]. Cùng với các bộ môn khác ở trường phổ thông, thực hành bộ môn lịch sử có tác dụng rất lớn, góp phần thực hiện nhiệm vụ trên. Thực hành nói chung và thực hành bộ môn lịch sử nói riêng là một hoạt động trí tuệ. Đối với giáo viên (GV), hoạt động thực hành có ý nghĩa làm sáng tỏ việc dạy học lịch sử (DHLS) chính là “bó đuốc soi đường”, đem những bài học kinh nghiệm của cha ông vận dụng để hiểu biết hiện tại và dự đoán tương lai. Đối với học sinh (HS), thực hành môn học lịch sử giúp các em phát triển các kĩ năng tư duy nói chung, tư duy lịch sử nói riêng. Đặc biệt là tác dụng rèn luyện tính tích cực, chủ động sáng tạo trong suy nghĩ và hành động của chủ thể nhận thức nhằm đem lại kết quả tốt nhất. Tiến hành các hoạt động thực hành, các em được chủ động làm việc, quan sát, phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, xác lập các mối liên hệ lịch sử, qua đó tư duy được thường xuyên hoạt động và phát triển. Thực hành trong học tập lịch sử, HS tự mình trực tiếp tiến hành các thao tác, hành động, được làm việc để tiếp nhận, củng cố những tri thức, tránh sự thụ động, khắc phục tình trạng buồn tẻ, mệt mỏi khi giờ học ở trên lớp cứ diễn ra, lặp đi lặp lại theo một trình tự nhất định. Như vậy, khi tiến hành các hoạt động thực hành, bản 6 thân HS được thực hiện các thao tác cụ thể, qua đó mà rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo của các em ngày càng thuần thục hơn. Tuy nhiên, thực tế DHLS ở trường phổ thông hiện nay, nhận thức và thực hiện việc rèn kĩ năng thực hành cho HS bên cạnh mặt tích cực vẫn còn tồn tại một số những quan niệm chưa đúng. Nhiều GV vẫn cho rằng học lịch sử chỉ là ghi nhớ sự kiện, vì thế học lịch sử không cần có thực hành. Hoặc, nhiều GV chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của các hoạt động thực hành trong môn lịch sử, chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức phổ thông mà quên đi hoặc xem nhẹ các bài tập thực hành. Những quan niệm, nhận thức sai lầm này đã ảnh hưởng không tốt, góp phần làm cho HS không hứng thú học tập lịch sử, chất lượng dạy học bộ môn bị giảm sút. Trong cuộc sống, con người luôn luôn phải lao động sản xuất, đấu tranh với tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển. Trong nhà trường, học đi đôi với hành chính là hoạt động để giúp các em tiếp thu kiến thức mới tốt hơn, đồng thời gắn HS với đời sống hiện thực để vừa kiểm nghiệm tính chân lí của những kiến thức khoa học, vừa tạo cơ hội cho các em góp phần nhỏ bé của mình thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”… Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 là một thời kì đặc biệt đã chứng kiến những bước ngoặt vĩ đại trên con đường phát triển của dân tộc. Cùng với việc trang bị tri thức, tăng cường rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS có ý nghĩa góp phần giúp các em hiểu biết sâu sắc hơn về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, hình thành ý thức trách nhiệm công dân trong công cuộc xây dựng và bào vệ tổ quốc hiện nay. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 – 1945, lớp 12 trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) ” để nghiên cứu 7 với mong muốn góp phần khẳng định vị thế và khả năng của bộ môn lịch sử trong việc giáo dục, rèn luyện và phát triển toàn diện năng lực HS. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng là vấn đề thu hút sự quan tâ : 2.1. Ở nước ngoài T.A. Ilina trong cuốn “Giáo dục học” (tập II, NXB Giáo dục năm 1973) đã đề cập đến nhiều kĩ năng thực hành của HS: kĩ năng làm việc với SGK; kĩ năng học tập ở phòng thí nghiệm, thực nghiệm; kĩ năng luyện tập, ôn tập… Trong đó, tác giả đã nêu một cách thật khái quát phương pháp làm việc với SGK, xem công tác thực hành của HS như một phương pháp dạy học (PPDH) tích cực giúp các em nắm vững, hiểu sâu hơn bài học và phát huy được tính độc lập, sáng tạo của mình. Cuốn “Giáo dục học” của N.V. Savin (NXB Giáo dục năm 1978) đã nhấn mạnh mục đích của công tác thực hành là để đảm bảo việc củng cố và cụ thể hóa các tri thức lý luận mà HS đã thu nhận được, thực hiện đầy đủ hơn mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Thông qua việc quan sát, HS thực hành, ông cũng nhận thấy trong quá trình thực hiện công việc, nhất là những công việc mang tính tổng hợp dễ làm nảy sinh ở các em những nhu cầu áp dụng độc lập các tri thức. Nó cũng có thể là những tri thức mà HS đã tiếp nhận để đưa ra sử dụng trong những tình huống quen thuộc, hoặc cũng có thể là những sáng tạo mới, nhờ đó mà khả năng sáng tạo tiếp tục phát triển. Cũng theo tác giả, việc mở rộng khối lượng các công việc thực hành trong học tập đã thúc đẩy lý luận dạy học tìm kiếm các điều kiện để nâng cao hiệu quả của chính các biện pháp này. Như vậy, Savin đã khẳng định rõ mục đích, ý nghĩa của hoạt động thực hành trong dạy học, song ông lại chưa đi sâu vào các vấn 8 đề khác của hoạt động thực hành, phân loại các dạng thực hành hoặc làm thế nào để rèn luyện các kĩ năng thực hành (phương pháp, biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành) cho HS. Tác giả N.G. Đai ri trong cuốn“Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” (do Đặng Bích Hà và Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB Giáo dục Hà Nội 1973) đã khẳng định học là để giáo dục, nên không thể dừng lại ở mức độ học thuộc lòng. Ông quan niệm, trong giờ học lịch sử cần phải kích thích các hoạt động độc lập của HS bằng cách ra các bài tập nhận thức, yêu cầu các em phải thực hiện. Đây là một cơ hội tốt để HS vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Ông cho rằng kiến thức khi học sinh vận dụng thì được củng cố và là công cụ phát triển, công cụ giáo dục và công cụ thu nhận kiến thức mới, chúng trở thành phương pháp nhận thức hiện tượng của đời sống xã hội. Trong cuốn “Phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh như thế nào”, I.F.Khar-la-mốp (1979) cho rằng học tập là quá trình nhận thức tích cực trong đó có bước ôn tập kiến thức đã học, đào sâu, hệ thống hoá kiến thức. Việc học tập ở nhà của HS hay việc ôn tập bài cũ có ý nghĩa tích cực không chỉ với việc phát huy tính tích cực của HS mà còn giúp các em củng cố, nắm vững kiến thức [26, tr.68]. GV cần lựa chọn nội dung, tổ chức các hoạt động ôn tập sao cho HS biểu lộ tính sáng tạo, đi tới hiểu và nắm vững kiến thức, ví dụ như làm bài tập thực hành, trả lời câu hỏi, viết bài mô tả ngắn gọn về sự kiện lịch sử, dẫn ra các ví dụ hoặc sự kiện để chứng minh một kết luận nào đó... Ông cũng cho rằng HS phải tự khám phá kiến thức cho bản thân dù chỉ là “khám phá lại”. Sự khám phá này phải thông qua việc sử dụng các bài tập chứ không phải là học thuộc lòng. Có thể nhận thấy cả N.G. Đai ri và I.F. Khar-la-mốp đã đề cập đến vấn đề các biện pháp thực hành đó là làm bài tập lịch sử của HS. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu vào bản chất, chỉ rõ các biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành cụ thể mà chỉ dừng 9 lại ở việc khẳng định vị trí quan trọng của bài tập nhận thức đối với việc phát triển tư duy độc lập của HS. Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử qua sơ đồ, bảng biểu và hình vẽ” các tác giả M.B. Kô-rô-cô-va, Stu-đen-nhi-kin đã nhấn mạnh việc ôn tập, củng cố thông qua hình thức giao những bài tập cho HS. Các tác giả đã đưa ra các loại bài tập có tính chất thực hành như bảng biểu, sơ đồ hình vẽ trong dạy học và cho rằng GV khi hướng dẫn, giao bài tập cho HS cần lưu ý tới khả năng của các em sao cho vẫn đảm bảo nội dung kiến thức, kỹ năng cơ bản nhưng phải phân hoá được trình độ nhận thức của HS. Để đạt được điều đó, GV nên giao các nhiệm vụ học tập cần được xây dựng dựa trên các mục tiêu dạy học rõ ràng, định hướng đến các năng lực đầu ra của HS như năng lực tái hiện và tái tạo lại các biểu tượng lịch sử; năng lực phân tích, xử lý các nguồn thông tin; năng lực tư duy logic, tư duy niên đại với các nguồn tư liệu lịch sử; năng lực sơ đồ hoá; năng lực đánh giá sự kiện, hiện tượng lịch sử ... Ngoài ra, trong phần V của cuốn sách“Bài học lịch sử và việc chuẩn bị bài học của giáo viên” có đề cập đến những kiến thức lý luận dạy học bộ môn qua hệ thống sơ đồ, bảng biểu, hình vẽ. Đây là cách dạy và học tích cực giúp HS nhớ nhanh, dễ nhớ và nhớ lâu kiến thức. lịch sử chung về lý luận thực hành: khẳng định quan niệm, vai trò, ý nghĩa, cách phân loại các kĩ năng thực hành cho HS… Tuy nhiên, làm thế nào để rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS thì hầu như chưa được đề cập đến. Song, những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đề cập về thực hành trong dạy học chính là những gợi ý, định hướng giúp chúng tôi giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. 2.2. Ở trong nước Cuốn “Giáo dục học” (tập I, NXB Giáo dục Hà Nội, 1987) các tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt nhấn mạnh trong dạy học nhất định phải gắn tri 10 thức HS đã được tiếp nhận với thực tiễn bằng những hoạt động cụ thể. Có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học. Qua hoạt động thực tiễn những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo HS nắm được sẽ hòa nhập vào hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo đã có và trở thành những phần hữu cơ trong hệ thống đó. Hệ thống này phải được củng cố thường xuyên thì chúng mới tồn tại một cách vững chắc. Tác giả Phạm Viết Vượng trong cuốn “Giáo dục học” (2000) đã chỉ ra 5 khâu để tiến hành một quá trình dạy học (QTDH) đối với một bài học cụ thể: GV đề xuất nhiệm vụ học tập; tổ chức cho HS nhận thức tài liệu mới; hệ thống hóa tài liệu đã học; vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập thực hành; kiểm tra lại các kết quả học tập. Các khâu này được sắp xếp theo trình tự và được vận dụng một cách linh hoạt. Trong đó, khâu vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập thực hành có mối quan hệ chặt chẽ với các khâu khác, tạo nên một QTDH thống nhất [24, tr.68]. Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử nói riêng thì cải tiến PPDH là một nhân tố quan trọng. Vấn đề đổi mới PPDH lấy HS làm trung tâm đang được đề cập đến ở hầu hết các sách, các tài liệu giáo dục. Nói đến việc phát huy tính tích cực của HS trong học tập lịch sử, các tác giả đã bàn đến công tác thực hành ở nhiều mức độ khác nhau, từ giải bài tập đến làm các đồ dùng trực quan. Trong cuốn “Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tháng 1/1995 của các tác giả Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Lại Đức Thụ, Trần Đức Minh trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc với những quan điểm nhận thức khoa học mới, đúng đắn, kết hợp những kinh nghiệm đã tích lũy lâu năm, các tác giả đã nhận thức và khẳng định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện các kỹ năng thực hành đối với việc DHLS. Nó thực sự có ý nghĩa về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 11 Cuốn sách cũng nêu ra các nội dung cơ bản của việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử, bao gồm cả các kỹ năng thực hành, ví như kỹ năng chế tạo và sử dụng các loại đồ dùng trực quan; kỹ năng ghi chép các loại hồ sơ, tài liệu; kỹ năng tập hợp, tổ chức các hoạt động ngoại khóa và công tác công ích xã hội…Tuy nhiên, đây là một cuốn sách rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm cho các đối tượng là sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư phạm thuộc chuyên ngành lịch sử, chứ không phải là đối tượng HS phổ thông. Cho nên, các tác giả chưa đưa ra các biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng, nâng cao năng lực thực hành nhằm phát triển năng lực nhận thức toàn diện cho HS. Tiếp thu chân lý khoa học nảy sinh từ thực tiễn và trở về phục vụ thực tiễn, GS.TS Phan Ngọc Liên (chủ biên); PGS.TS Nguyễn Thị Côi, PGS.TS Trịnh Đình Tùng, trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB Đại học Sư phạm năm 2002, tái bản năm 2009, 2010) cho rằng: nhất định phải gắn học với hành để phát huy vai trò chủ thể của HS trong nhận thức, khắc phục cách học giáo điều, nhồi sọ. Theo các tác giả thì thực hành sẽ giúp HS có cơ sở, định hướng để suy nghĩ, hiểu sâu những kiến thức đã học, khám phá kiến thức mới, vận dụng những hiểu biết vào cuộc sống. Sau khi đưa ra những nguyên tắc phương pháp luận và yêu cầu của giáo dục là phải thực hiện nguyên lý “Học đi đôi với hành” các tác giả cũng nêu lên một cách khái quát những nội dung chủ yếu của “hành” trong môn lịch sử. Tại chương VII, các tác giả dừng lại ở việc nêu tên các loại thực hành như làm các loại đồ dùng trực quan, tập viết, tập trình bày, miêu tả về một sự kiện lịch sử; vận dụng kiến thức cũ để tiếp thu kiến thức mới; tham gia các công việc công ích xã hội. Một số khía cạnh của thực hành lịch sử còn được nhắc tới ở các chương XIII - Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử; chương IV và chương XV nói về các hoạt động ngoại khóa. Cũng như cuốn Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử, giáo trình Phương pháp dạy học lịch sử tập trung vào 12 hướng dẫn giáo viên, sinh viên sư phạm cách tổ chức các hoạt động nhận thức cho HS, chưa đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề chủ yếu của việc rèn luyện các kỹ năng thực hành như: khái niệm, nội dung, phương thức thực hiện và tác dụng của nó trong việc phát triển nhận thức của HS. Cùng với các tài liệu giáo dục học và giáo dục lịch sử, vấn đề thực hành còn được đề cập trong nhiều bài viết trên các tạp chí. Trên tạp chí nghiên cứu giáo dục số 6/1994 các tác giả Trịnh Đình Tùng - Kiều Thế Hưng trong bài viết với tiêu đề: “Xây dựng và sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông”. Trên cơ sở vận dụng những lý luận về xây dựng và sử dụng bản đồ lịch sử, bài viết đã hướng dẫn một cách cụ thể các bước tiến hành và xây dựng một bản đồ SGK treo tường nhằm phát huy khả năng của thầy - trò để bổ sung và làm phong phú hệ thống đồ dùng trực quan ở trường phổ thông. Tác giả Nguyễn Thị Côi - Phạm Thị Kim Anh với bài viết: “Hướng dẫn học sinh làm bài tập lịch sử”, đăng trên nghiên cứu giáo dục số 6/1994 và tác giả Trần Quốc Tuấn với bài viết: “Bài tập lịch sử trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh”, nghiên cứu giáo dục số 2/1998. Trong hai bài viết trên các tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về bài tập cũng như vai trò của nó với việc học tập của HS và đi vào tìm hiểu một số loại bài tập cơ bản hay được sử dụng trong nhà trường phổ thông. Tác giả Trần Đức Minh - Đặng Công Lộng với bài viết “Thực hành trong môn lịch sử”, tạp chí nghiên cứu giáo dục số 6/1994, trình bày một cách vắn tắt sự cần thiết phải thực hành trong môn lịch sử, nêu lên những công việc cụ thể khi làm thực hành lịch sử và đi đến nhận định: giải quyết tốt việc thực hành trong môn lịch sử là tuân thủ nghiêm túc phương pháp luận về mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong bài viết “Về tổ chức dạ hội tham quan và dự lễ hội truyền thống trong dạy học lịch sử”, nghiên cứu giáo dục số 6/1994, tác giả Nguyễn Quang Lê - Trần Viết Thụ nhận định: kiến thức trong hoạt động nội khóa rất phong 13 phú nhưng cũng cần được bổ sung bằng những hoạt động ngoại khóa để HS có những hiểu biết một cách thực tế hơn, nhất là các vấn đề về lịch sử địa phương. Bài viết còn đưa ra đề nghị cho HS tham gia vào các hoạt động lế hội, dạ hội, làm quen với các công việc sưu tầm tài liệu và tập dượt nghiên cứu…góp một phần nhỏ bé vào công việc công ích xã hội. Ngoài ra, vấn đề thực hành lịch sử còn được đề cập rải rác trong một số bài viết dưới các khía cạnh khác, tuy nhiên không được trình bày một cách rõ ràng cụ thể như một bài viết về chuyên đề thực hành. Hoạt động thực hành rất phong phú, sinh động có tác dụng giáo dục thế hệ trẻ theo đúng yêu cầu, mục tiêu đào tạo, gắn cuộc sống với thực tại, biến kiến thức trong sách thành các giá trị thực tế về tri thức văn hóa, bồi dưỡng lòng tự tôn, tự hào dân tộc, biết ơn tổ tiên và những truyền thống vẻ vang của dân tộc. Cho nên, rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS cũng là một cách để giáo dục các em biết bảo vệ và phát huy các giá trị lịch sử - văn hóa cần được quan tâm và thực hiện thường xuyên. Như vậy, đề cập đến vấn đề rèn luyện kĩ năng thực hành, các tài liệu giáo dục học, giáo dục lịch sử, các sách chuyên khảo, các bài viết ở trong nước cũng đã giải quyết nhiều vấn đề, từ khẳng định quan niệm, vai trò, ý nghĩa đến xác định các kĩ năng thực hành. Đây là những định hướng cho chúng tôi trong nghiên cứu đề tài. Song các tài liệu, bài viết chủ yếu đi vào lý luận chung về thực hành đối với sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng mà chưa đề cập vấn đề này dưới góc độ của HS phổ thông, đòi hỏi trong đề tài chúng tôi cần giải quyết: - Thống nhất khái niệm, vai trò, ý nghĩa, phân loại, yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành phù hợp với đối tượng HS phổ thông. - Xác định rõ các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. 14 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu : - Khẳng định quan niệm đúng đắn và vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường phổ thông nói chung, DHLS Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 19 . - Đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong quá trình DHLS ở trường phổ thông. 3.2. Nhiêm vụ nghiên cứu hành trong dạy học lịch sử . - Khảo sát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS lớp 12, qua đó khái quát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường phổ thông hiện nay. - Tìm hiểu chương trình, sách giáo khoa (SGK) lịch sử lớp 12 phần lịch sử - thực hành cần rèn luyện cho HS. - Xác định, đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường phổ thông nói chung, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 1945 lớp 12, trường Trung học phổ thông (THPT) nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: của đề tài là v ệt Nam giai đoạn từ 1919 – 1945 (chương trình chuẩn). 15 4.2. Phạm vi nghiên cứu - các kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường . - Do thời gian có hạn nên trong đề tài chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DH khóa trình lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 1945 lớp 12 trường THPT (chương trình chuẩn). - Do điều kiện thời gian, đề tài chủ yếu tiến hành điều tra khảo sát và thực nghiệm sư phạm ở một số trường THPT ở các tỉnh phía Bắc, như: Trường THPT Tây Hồ - Hà Nội và Trường THPT Thái Hòa - Lập Thạch Vĩnh Phúc. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề lí luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành trong giáo dục và đào tạo. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận: lịch sử vấn đề rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS; lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 1945 lớp 12 (chương trình chuẩn). - Nghiên cứu : ... - Thực nghiệm sư phạm nhằm xuất trong luận văn , nâng cao chất lượng DHLS ở trường phổ thông. - . 16 6. Ý nghĩa của đề tài : - n: . - : , si . 7. Giả thuyết khoa học t . 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Lí luận và thực tiễn. Chương 2: Các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945, lớp 12 trung học phổ thông (Chương trình chuẩn). 17 CHƢƠNG 1 RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG. LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 1.1.1. Cơ sở xuất phát * Mục tiêu giáo dục Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ hiện nay đã tạo ra những bước đột phá quan trọng trong đời sống xã hội. Loài người bước vào thời đại thông tin điện tử bằng những công cụ và phương tiện lao động hiện đại nhất. Bên cạnh những thành tựu có tính chất làm thay đổi cuộc sống của nhân loại thì loài người cũng đang phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn thử thách như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số… Những vấn đề bức thiết này đòi hỏi phải có những biện pháp thích hợp để giải quyết. Một đặc điểm hoàn toàn mới của thế kỷ XXI là sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức - sản phẩm kỳ diệu của thời đại thông tin “nói đến nền kinh tế tri thức là nói đến học, nên có người còn gọi là nền kinh tế học tập” [5, tr.17]. Nền kinh tế tri thức đã tác động sâu sắc đến cuộc sống nhân loại, không ngoại trừ cả giáo dục và đào tạo, nên hướng tổng quát nhất của nền giáo dục hiện đại là đi vào phục vụ nền kinh tế tri thức. Xuất phát từ thực tiễn trên Ủy ban giáo dục của UNESCO đã đưa ra bốn nguyên lý giáo dục trong thời đại mới là: Học để biết (biết tiếp nhận các thông tin; biết tạo lập và sử dụng thông tin tri thức như là các công cụ tâm lý bao gồm cả các kỹ năng hành nghề, tư duy sáng tạo, óc phê phán…); Học để làm (hàm ý muốn nhấn mạnh gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn, thích nghi với điều kiện mới); Học để chung sống (học để phát hiện, để biết người khác, để cùng làm việc vì mục đích chung, mục đích hòa bình); Học để khẳng định mình (nói tới sự phát triển toàn diện của con người) [5]. 18 Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tiếp tục đường lối đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người mọi nhà no ấm. Để thực hiện mục tiêu trên và cũng là để hòa nhập vào xu thế quốc tế, tháng 12/1996 Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã đề ra nghị quyết về định hướng phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: “Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức và khoa học công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ” [27, tr.27- 28]. Nhận thức sâu sắc giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là những nhân tố quyết định tới sự phát triển của xã hội và tăng trưởng kinh tế. Đảng ta đã dành cho giáo dục đào tạo một sự quan tâm đặc biệt, coi giáo dục là “sự nghiệp của toàn dân”, là “quốc sách hàng đầu” có những tác động tích cực để kích thích sự phát triển của giáo dục như: chính sách đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, trang bị các đồ dùng dạy học, quan tâm giáo dục ở vùng sâu vùng xa, đổi mới quản lý giáo dục… Những chính sách này đã tạo nên động lực bên ngoài tác động vào hệ thống giáo dục, tạo cơ sở cho các động lực bên trong “được tạo nên do sự tác động qua lại giữa thầy và trò, giữa dạy và học” có cơ hội phát triển. Với nhận thức như vậy, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm - nhân tố cơ bản tạo nên mọi sự phát triển của 19 kinh tế - xã hội, xem con người “là sản phẩm tổng hợp do toàn xã hội tạo ra, trong đó giáo dục - đào tạo có vai trò trách nhiệm cực kỳ quan trọng nhằm không ngừng nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” [28]. Chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa trong bộ luật giáo dục nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 23, chương II nêu rõ mục tiêu của giáo dục phổ thông là “…nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Đồng thời cũng khẳng định, tính chất nguyên lý của nền giáo dục nước ta là: “1. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, có tính nhân dân, khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. 2. Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” (Điều 3, chương I). Mục đích, tính chất, nguyên lý giáo dục đã mở ra phương hướng cho các hoạt động giáo dục. Phát triển năng lực thực hành cho HS không chỉ đáp ứng được xu thế phát triển tất yếu của lịch sử mà nó còn góp phần thực hiện các mục tiêu, nguyên lý, tính chất giáo dục, đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [8, tr. 496]. Đặc biệt đối với cấp THPT - cấp học cuối cùng có nhiệm vụ phải hoàn thành việc trang bị nguồn kiến thức cơ bản, các kĩ năng, 20 kĩ xảo cần thiết, trong đó có kĩ năng thực hành đủ để HS có thể học tiếp, hoặc tham gia vào đời sống sản xuất. Phát triển năng lực thực hành cho HS cũng là thực hiện phương châm đổi mới của giáo dục ngày nay. Cùng với việc định ra đường lối chiến lược cho giáo dục đến năm 2020, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, khóa VIII còn rút kinh nghiệm thực tế giáo dục nước nhà trong những năm trước đó. Điều hạn chế nổi bật mà Đảng quan tâm đến là “chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo còn thấp, trình độ kỹ thuật, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số học sinh còn yếu. Ở nhiều trường học sinh ra trường, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế và đời sống còn hạn chế” [27, tr. 23]. Và một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do “phương pháp giáo dục - đào tạo còn chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Giáo dục - đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn liền với gia đình và xã hội” [27, tr. 26]. Khắc phục tình trạng trên, nghị quyết khẳng định phải “Đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp dạy học vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Định hướng trên được pháp chế hóa trong Luật giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại niềm tin, hứng thú học tập cho học sinh” [27]. Nội dung cơ bản của đổi mới giáo dục là phát huy tính tích cực của HS hay còn gọi là đổi mới PPDH lấy học sinh làm trung tâm. Trong thực tế, 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan