Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho h...

Tài liệu Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh thpt chuyên

.DOCX
38
1964
145

Mô tả:

THỤ TỔ NGỮ VĂN ********************** ĐỀ TÀI KHOA HỌC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO HỌC SINH THPT CHUYÊN 1 MỤC LỤC PHẦN Phần thứ nhất Phần thứ hai Chương 1: NỘI DUNG MỞ ĐẦU TRANG 3 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Cở sở lí luận và thực tiễn của vấn đề cần nghiên cứu Các giải pháp, biện pháp thực hiện. 2.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh về 6 6 14 14 tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội Chương 2: Chương 3: rút ra trong tác phẩm văn học 2.2. Rèn kĩ năng Đọc- hiểu văn học 2.3. Rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội 15 17 rút ra trong tác phẩm văn học 2.4. Rèn kĩ năng diễn đạt, hành văn khi làm kiểu bài 23 nghị luận về vấn đề xã hội rút ra trong tác phẩm văn học 2.5 Xây dựng ngân hàng đề và đáp án cho kiểu bài nghị 25 luận về vấn đề xã hội rút ra trong tác phẩm văn học Thực nghiệm sư phạm 32 KẾT LUẬN CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ 35 Phần thứ ba: Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2 1.1. Nghị luận xã hội là kiểu bài không thể thiếu trong các đề thi chọn học sinh giỏi, đề thi tốt nghiệp THPT và đề thi đại học nhiều năm gần đây. Trong kiểu bài này, dạng đề nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là mới mẻ và gây nhiều khó khăn hơn cả cho học sinh khi làm bài. Dù đã có những đề mẫu về kiểu bài này trong sách giáo khoa THPT, nhưng chưa có một bài học cụ thể nào về phương pháp giải quyết kiểu bài này được biên soạn, các tài liệu tham khảo về kiểu bài này cũng còn rất hạn chế. 1.2. Yêu cầu phải nâng cao hiệu quả đào tạo học sinh thi tốt nghiệp THPTQG, thi học sinh giỏi Quốc gia và đại học của trường THPT chuyên ngày càng cấp thiết. Môn Ngữ văn có mặt trong cả hai khối thi C, D và liên quan trực tiếp đến tỉ lệ đỗ tốt nghiệp và đại học của toàn trường. Năm 2014, đề thi tốt nghiệp THPT đã ra kiểu bài này. Trong đề thi chọn học sinh giỏi của các kì thi khu vực và quốc gia, kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học xuất hiện ngày càng nhiều. Bởi vậy, rèn kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một trong những biện pháp quan trọng, cần thiết để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn tại trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Nâng cao chất lượng giáo dục môn Ngữ văn ở các lớp chuyên văn nói riêng (trong các kì thi chọn học sinh giỏi) và các lớp khác trong toàn trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ (Trong kì thi tốt nghiệp THPT Quốc gia và Đại học) 2.2. Cung cấp tư liệu tham khảo giúp cho giáo viên và học sinh THPT nói chung có thể dạy và học tốt hơn văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục môn Ngữ văn nói chung. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình học tập môn Ngữ văn của học sinh chuyên văn, địa, anh, pháp, nga, trung, cận chuyên xã hội ở trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ 3 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp cụ thể để nâng cao năng lực làm kiểu bài văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh THPT chuyên. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5. Giả thuyết khoa học: Nếu áp dụng các biện pháp: Nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học; Rèn kĩ năng Đọc- hiểu văn bản văn học; Chú trọng rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học theo các dạng bài cụ thể; Xây dựng ngân hàng đề và đáp án cho kiểu bài nghị luận nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học theo từng dạng; Tổ chức thi thử, kiểm tra và đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm thì kĩ năng làm kiểu bài nghị luận nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học của học sinh sẽ tăng lên, chất lượng giáo dục môn Ngữ văn cũng vì thế mà nâng cao. 6. Cơ sở, phạm vi, thời gian nghiên cứu - Cơ sở nghiên cứu: Lí luận về kiểu bài văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng, đặc biệt thực tiễn dạy học văn tại các lớp chuyên văn và chuyên ngữ ở trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ. - Phạm vi nghiên cứu: Phương pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh học môn Ngữ Văn ở trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận - Nghiên cứu một số tài liệu về nghị luận văn học, về rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội. 4 - Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo nhằm hệ thống những vấn đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học đặt ra trong chương trình THPT. 7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp thực nghiệm giáo dục Thử nghiệm các phương pháp nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh nhằm kiểm nghiệm giả thuyết của đề tài, tính khả thi của hệ thống đề đã xây dựng. 7.2.2. Phương pháp thống kê giáo dục Kiểm tra hiệu quả thực tế của các phương pháp đề ra qua kết quả làm bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học của học sinh trong suốt quá trình học. 7.2.3 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Tổng kết kinh nghiệm công tác ra đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh trong nhà trường. 5 Phần thứ hai: QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU Chương 1: Cở sở lí luận và thực tiễn của vấn đề cần nghiên cứu 1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu. Như đã trình bày ở phần trên, kiểu bài nghị luận xã hội đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông nhiều năm nay. Trong kiểu bài này, xu hướng ra đề thường xoay quanh một vấn đề về tư tưởng, đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống. Sách giáo khoa THCS đã có những bài học khá kĩ về từng dạng đề này. Chương trình sách giáo khoa THPT tiếp tục đi sâu rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội thông qua các bài viết trong suốt cả năm học. Tuy nhiên, số tiết dành cho việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội là chưa nhiều, các kĩ năng được nhắc đến còn rất chung chung. Trong những năm gần đây, các tài liệu tham khảo được biên soạn bám sát chương trình, mục tiêu giáo dục phổ thông ngày càng nhiều. Kiểu bài nghị luận xã hội khi mới xuất hiện còn gây nhiều khó khăn cho giáo viên và học sinh giờ đây đã trở nên quen thuộc hơn. Nhiều cuốn sách ra đời đi sâu vào việc ra đề, giải quyết các đề văn nghị luận xã hội từ lập ý đến hoàn chỉnh thành bài viết đã giúp ích rất nhiều cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học. Có thể kể đến cuộc thi ra đề nghị luận xã hội của báo Văn học và tuổi trẻ - một cuộc thi thu hút được rất đông đảo giáo viên trong cả nước tham gia. Nhiều đề nghị luận xã hội được ra một cách thú vị, mới mẻ đã trở thành tư liệu tham khảo quý giá. Tuy đã có nhiều tài liệu được nghiên cứu về việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội, nhưng các tài liệu này mới chỉ đi sâu vào hai dạng đề cụ thể là nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Trong khi đó, ngoài hai dạng trên, trong văn nghị luận xã hội còn có dạng đề nghị luận về một vấn đề đời sống đặt ra trong tác phẩm văn học. Khác với hai dạng nêu trên, dạng đề này cùng lúc vừa kiểm tra hiểu biết về đời sống của học sinh vừa kiểm tra cả kĩ năng đọc hiểu văn bản. Nhiều học sinh chưa quen với cách ra đề này nên dễ nhầm lẫn với kiểu bài nghị luận văn học thông 6 thường. Thực tế, sách giáo khoa THPT đã có một số đề nghị luận xã hội về dạng bài này, chẳng hạn: Đề 1. Triết lí vê việc đỗ, trượt trong thi cử của thân phụ Đặng Huy Trứ (văn bản Cha tôi trong Ngữ văn 11 Nâng cao) gợi cho anh chị suy nghĩ gì về việc thi cử của bản thân? Đề 2. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, nhân vật Trương Ba nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói trên để lại cho anh (chị) những suy nghĩ gì? Đề 3. Từ bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến, nghĩ về danh và thực trong xã hội chúng ta ngày nay. Đề 4. Bài thơ Tôi yêu em của Pu-skin và những suy nghĩ của anh (chị) về một tình yêu tuyệt đẹp. Song, ngoài một số đề văn tham khảo, phương pháp, kĩ năng làm kiểu bài này chưa được cụ thể hóa. Bấy lâu nay, việc rèn kĩ năng làm dạng bài này hoàn toàn nhờ vào kinh nghiệm của bản thân giáo viên giảng dạy. Bởi vậy, để nâng cao năng lực làm văn nghị luận xã hội cho học sinh rất cần có một chuyên đề nghiên cứu cụ thể để rèn kĩ năng làm văn nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. 2. Cơ sở lý lí luận của vấn đề cần nghiên cứu 2.1. Phương pháp đọc – hiểu văn bản văn học: Giáo sư Trần Đình Sử trong một bài viết nhiều tâm huyết đã khẳng định “Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong quá trình dạy và học văn hiện nay”. Theo giáo sư “Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu bản chất môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể của học sinh.” Lấy người học làm 7 trung tâm, các phương pháp đổi mới giáo dục đã được tiến hành trong nhiều năm gần đây. Theo đó, đọc hiểu văn bản không chỉ giới hạn trong các văn bản văn học mà được mở rộng hơn, bao gồm tất cả các văn bản khoa học xã hội và khoa học tự nhiên mà chúng ta bắt gặp trong đời sống. Cũng theo giáo sư Trần Đình Sử “ Bản thân việc đọc đã có nhiều mức độ từ đọc thông, đọc thuộc, không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng giọng đúng chỗ là một trình độ. Bước hai là đọc kỹ, đọc sâu để biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ lại là một trình độ khác. Bước thứ ba là đọc hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một mức rất cao. Nhưng đọc văn là để cảm, đế sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là khâu cao nhất. Người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Đó đã là đọc sáng tạo. Trong các khâu đọc đó, đọc hiểu là khâu cơ bản nhất, nó bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên kết, hiểu nghĩa toàn bài. Có hiểu đúng thì mới nói chuyện hiểu sáng tạo. Muốn hiểu đúng đầu tiên phải tôn trọng tính chỉnh thể toàn vẹn, tính liên kết, đích của văn bản. Cắt xén, suy diễn, xuyên tạc có ý thức hay không có ý thức đối với ý kiến người khác là căn bệnh thường gặp trên báo chí trong phê bình. Đó cũng là lỗi do nhà trường không chú trọng dạy học trò cách đọc và kỹ năng đọc một cách đúng đắn, khoa học và có đạo đức. Để dạy đọc cho tốt người thầy phải nghiên cứu quá trình đọc, tâm lý đọc, điều kiện đọc, phân suất chúng ra thành từng cấp độ và đặt trọng tâm rèn luyện các cấp độ ấy từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp mới tạo cho một chương trình dạy đọc văn có tính khoa học, thoát khỏi cách học đọc thuần túy tự phát, phó mặc cho kinh nghiệm, thói quen dẫn dắt như hiện nay.” Thiết nghĩ, kĩ năng đọc – hiểu văn bản không chỉ quan trọng đối với việc nâng cao kĩ năng làm kiểu bài nghị luận văn học, nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn, mà còn chính là chiếc chìa khóa để học sinh làm tốt kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học. Có kĩ năng đọc hiểu văn bản tốt, hiểu thấu tác phẩm, người đọc mới có thể suy 8 ngẫm về những bức thông điệp ẩn chứa nhiều bài học về lẽ sống sâu sắc mà các nhà văn gửi gắm. 2.2. Các kĩ năng làm kiểu bài nghị luận văn học nói chung và nghị luận xã hội nói riêng. Văn nghị luận là dùng ý kiến lí lẽ của mình để bàn bạc, để thuyết phục người khác về một vấn đề nào đó. Yêu cầu bài văn nghị luận: Phải đúng hướng, phải trật tự, phải mạch lạc, phải trong sáng, phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo. Những thao tác chính của văn nghị luận đã được chú trọng rèn luyện trong sách giáo khoa THPT là: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ, so sánh,… Trong văn nghị luận có hai dạng: Dạng nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Nghị luận văn học là một dạng nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn luận là các vấn đề về văn học: tác phẩm, tác giả, thời đại văn học,… Còn nghị luận xã hội lại hướng đến những vấn đề của đời sống đang đặt ra cấp thiết, đòi hỏi phải được giải quyết. Kĩ năng làm kiểu bài nghị luận văn học được xác định gồm 4 bước: + Tìm hiểu đề, tìm ý + Lập dàn ý + Hoàn thiện bài viết + Sửa chữa Các bước làm bài này ứng với cả hai kiểu bài nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Riêng đối với văn nghị luận xã hội, mỗi dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống đều có những mô hình ý khái quát riêng. Dạng đề về tư tưởng đạo lí đòi hỏi học sinh cần phải có kĩ năng giải thích, chứng minh, bình luận để làm sáng tỏ vấn đề, thuyết phục người đọc tin tưởng, làm theo những bài học được đúc rút từ vấn đề nghị luận. Dạng bài về hiện tượng đời sống lại đòi hỏi học sinh làm rõ: Thực trạng – Nguyên nhân- Hậu quả- Giải pháp xoay quanh hiện tượng được đưa ra bàn luận. Các kĩ năng này được hướng dẫn khá chi tiết qua các bài làm văn trong chương trình phổ thông. 9 Nghị luận xã hội về vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học là dạng đề khó trong chương trình THPT. Không chỉ đòi hỏi học sinh bàn luận được về vấn đề xã hội được đặt ra như thông thường, dạng đề này đòi hỏi năng lực đọc hiểu của học sinh ở mức độ vận dụng cao. Đề bài thường xoay quanh hai dạng chính: nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong các tác phẩm được học ở chương trình giáo dục phổ thông; hoặc nghị luận về một vấn đề xã hội ẩn trong một văn bản thơ hoặc truyện ngoài chương trình. Đề nghị luận được vấn đề xã hội đặt ra trong các tác phẩm đã học yêu cầu học sinh phải nắm chắc tác phẩm từ nội dung đến hình thức, có những cảm nhận sâu sắc về những vấn đề đặt ra, biết liên hệ đến cuộc sống thực tại,… Đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản văn học ngoài chương trình sách giáo khoa còn khó hơn nhiều, bởi trước hết học sinh cần có kĩ năng đọc hiểu văn bản để nhận diện đúng – trúng vấn đề nổi bật mà văn bản hướng đến. Trong khoảng thời gian không dài (chỉ khoảng 60 phút) không phải học sinh nào cũng đủ năng lực để đọc – hiểu một tác phẩm, nhận ra đúng vấn đề xã hội được gửi gắm, chứ chưa nói đến khả năng nghị luận sâu sắc về vấn đề đặt ra. 1.3. Thực tiễn vấn đề rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. 1.3.1. Thực tiễn vấn đề rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh THPT Trong chương trình Ngữ văn THPT, mặc dù nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là kiểu bài quan trọng, thể hiện năng lực vận dụng cao của người học song thực tế lại chưa có bài học cụ thể nào hướng dẫn học sinh một cách bài bản theo từng bước. Bấy lâu nay, việc rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên và sự nỗ lực của cá nhân học sinh. Với dung lượng 2/6 bài kiểm tra là nghị luận xã hội trong suốt năm học, trong đó không phải cả hai bài viết đều là nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, thực sự giáo viên và học sinh không có nhiều thời gian rèn năng lực giải quyết kiểu bài này. Bởi thế, nhiều học sinh khi phải làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học 10 đều lúng túng, không biết cách giải quyết và kết quả không cao. Trong kì thi tốt nghiệp THPT năm 2014, khi dạng đề nghị luận xã hội kết hợp cả kiến thức đọc hiểu văn bản và kiến thức đời sống được ra số lượng bài viết đạt điểm khá, giỏi của tỉnh Hòa Bình rất hạn chế. Đa số học sinh đều lúng túng và trong quá trình làm bài dễ thiên về nghị luận văn học, phần nghị luận xã hội được viết rất ngắn gọn, chung chung. Trong các cuộc thi chọn học sinh giỏi khối trung học phổ thông của tỉnh Hòa Bình, ngay cả các em học sinh giỏi của các trường cũng gặp khó khăn khi bắt gặp kiểu đề này. Các em thường trình bày rất lan man, thiếu trọng tâm, thậm chí thiên về phân tích tác phẩm theo hướng đọc hiểu văn bản chứ không phải đang làm bài nghị luận xã hội... Không thể phủ nhận nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một dạng đề hay, thú vị, hấp dẫn trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, rõ ràng sự thiếu thốn các tài liệu nghiên cứu tìm tòi về rèn kĩ năng làm kiểu bài này đang khiến giáo viên và học sinh chưa đạt được hiệu quả dạy và học như mong muốn. Việc trao đổi phương pháp rèn kĩ năng làm kiểu bài này thực sự là một việc làm thiết thực giữa các giáo viên dạy ngữ văn nói chung, đặc biệt trong công tác bồi dưỡng đối tượng học sinh giỏi. 1.3.2 Thực trạng của việc rèn kĩ năng làm kiểu bài kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh THPT chuyên Do đặc thù của trường THPT chuyên, trường THPPT chuyên Hoàng Văn Thụ có nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu tham dự kì thi học sinh giỏi quốc gia, đạo tạo nhân tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển của tỉnh nhà. Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả ấy, ban giám hiệu nhà trường luôn nêu cao tinh thần đổi mới phương pháp giảng dạy ở từng bộ môn cụ thể. Nhiều năm gần đây các giáo viên tổ Ngữ Văn của trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ luôn nỗ lực đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả dạy và học. Một trong những nỗ lực ấy chính là chú trọng rèn kĩ năng làm kiểu bài kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh. Đây là một kiểu bài khó trong làm văn đòi hỏi cả thầy và trò đều phải là những người có kiến thức chắc, sâu rộng, có kĩ năng nhuần 11 nhuyễn, có tư duy phản biện, nắm chắc các thao tác lập luận như giải thích, chứng minh, bình luận,... và năng lực cảm thụ văn học. Về phía đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn, trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ có 16 giáo viên trong đó có 9 giáo viên có trình độ đào tạo trên chuẩn (Thạc sỹ) và 7 giáo viên đạt chuẩn (Đại học), 01 Giáo viên làm công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuyên môn (Hiệu phó phụ trách chuyên môn). Đây chính là điều kiện thuận lợi để có thể nâng cao kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh. Về phía học sinh: đối tượng cần rèn luyện kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học ở trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ gồm học sinh các lớp chuyên Văn, Địa, Anh, Pháp, Nga, Trung, Cận chuyên xã hội ở cả ba khối lớp 10,11,12 (khoảng hơn 600 học sinh) và quan trọng nhất là đối tượng học sinh giỏi môn Ngữ văn. Với một số lượng học sinh khá lớn, chúng tôi vừa có môi trường, vừa có điều kiện rèn luyện kĩ năng làm kiểu bài kiểu bài kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học trên diện rộng. Ngoài ra trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ trong một năm tham gia vào rất nhiều kì thi như: HSG cấp Tỉnh, HSG Quốc Gia, Đại học và cao đẳng, Trại Hè Hùng Vương, Duyên Hải đồng bằng Bắc Bộ; các đề tài bồi dưỡng cho học sinh người dân tộc Thiểu số đều có sự xuất hiện với tần xuất lớn kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Những cuộc thi này vừa là điều kiện để giáo viên và học sinh được trao đổi, cọ sát về cách làm đề, ra đề đồng thời cũng đánh giá được kết quả, chất lượng của đề tài. Đặc biệt, hoạt động thi thử đại học dành cho khối 12 định kì 3 lần trong năm học chính là điều kiện thuận lợi để chúng tôi kiểm chứng, điều chỉnh những nghiên cứu của mình. - Về điều kiện cơ sở vật chất: Trường có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, hiện đại đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Hàng năm luôn được các cấp các ngành quan tâm, tạo điều kiện để nâng cấp và bổ sung các trang thiết bị hiện đại như máy chiếu, laptop, phòng học chuyên dụng để học ngoại ngữ, phòng thí nghiệm… 12 - Về phía phụ huynh học sinh: do là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, là nơi tập trung học sinh- là con em các dân tộc của tỉnh nhà nên nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, đồng thuận từ phía phụ huynh học sinh. Thường xuyên có sự phối hợp giáo dục từ các phía : gia đình- nhà trường- xã hội. Những điều kiện thuận lợi cơ bản trên đây là những nhân tố hết sức quan trọng để việc giảng dạy và học tập bộ môn Ngữ văn tại trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ đạt kết quả cao. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, việc nâng cao kĩ năng làm làm kiểu bài kiểu bài nghị luận văn học dạng đề trích dẫn nhận định vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định: - Do xu hướng hiện nay về việc lựa chọn ngành nghề: các trường kinh tế, kĩ thuật, tài chính thường có sức hút mạnh mẽ nên tâm lí chung của một số phụ huynh và học sinh là coi trọng các môn Tự nhiên như Toán, Lí, Hóa mà coi nhẹ các môn xã hội như Văn, Sử, Địa. - Thực tế đội ngũ giáo viên bộ môn Ngữ văn còn ít so với số lượng khối, lớp trong trường, mỗi giáo viên vẫn phải đảm nhiệm số tiết tương đối lớn bởi vậy thời gian dành để nghiên cứu khoa học còn hạn hẹp. Hơn nữa giáo viên trẻ chiếm trên ½ số lượng giáo viên bộ môn, mặc dù có kiến thức và nhiệt huyết cũng như sự nhạy bén với khoa học, công nghệ nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế. - Với việc phân chia thành các lớp chuyên để học chuyên sâu vào từng bộ môn hoặc khối thi nên vẫn còn tình trạng một số học sinh các lớp không chuyên và xa chuyên với bộ môn Văn ít quan tâm, ít có thời gian đầu tư cho môn học. Và đây là một dạng đề khó, những học sinh có lực học Trung bình thường cảm thấy khó khăn khi giải quyết dạng đề này. - Mặc dù có sự trang bị, nâng cấp thường xuyên song các trang thiết bị đặc biệt là các trang thiết bị hiện đại vẫn chưa đủ để đáp ứng thực tế học tập và giảng dạy. 13 Chương 2: Các giải pháp, biện pháp thực hiện. 2.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của kiểu bài Nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Khi kiểu bài nghị luận xã hội trở thành một phần không thể thiếu trong các đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn, thì phần lớn giáo viên và học sinh chỉ quan tâm đến hai dạng đề cơ bản, xuất hiện nhiều đó là nghị luận về tư tưởng đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống. Nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cũng đã được đưa vào chương trình, song do mới chỉ xuất hiện trong đề thi học sinh giỏi nên các lớp học chương trình tự nhiên thường bỏ qua. Tư tưởng không coi trọng dạng đề này chính là một trong những nguyên nhân khiến cho kết quả làm bài thi tốt nghiệp THPT năm 2014 của học sinh tỉnh Hòa Bình chưa được tốt. Ý thức rõ tầm quan trọng của kiểu bài này trong kiểm tra đánh giáBan giám hiệu, Tổ chuyên môn trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ đã không ngừng nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của kiểu bài này qua rất nhiều hình thức: -Tổ chuyên môn chỉ đạo việc viết phân phối chương trình buổi chiều và nâng cao cho các lớp Văn, Địa và khối chuyên ngữ, cận chuyên xã hội bắt buộc phải có tối thiểu 3/32 buổi rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học ở khối lớp 10 và 11, riêng khối 12 kiểu bài này được rèn thường xuyên, liên tục khi bước vào quá trình ôn luyện, chữa đề. - Tổ chuyên môn tổ chức trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên dạy môn Ngữ văn để phổ biến, trao đổi kinh nghiệm hay trong việc rèn luyện kĩ năng làm kiểu bài luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. -Tổ chuyên môn yêu cầu xây dựng ngân hàng đề và đáp án trong đó có một số lượng lớn các đề về kiểu bài luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. 14 - Giáo viên nâng cao ý thức về tầm quan trọng của dạng đề nghị luận nghị luận văn học dạng trích dẫn nhận định trước hết và thiết thực bằng việc khảo sát tần suất xuất hiện của dạng đề này trong đề thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi khu vực và quốc gia. - Giáo viên còn nâng cao ý thức cho học sinh bằng việc ra những đề kiểm tra sử dụng kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học để kiểm tra, đánh giá trình độ của học sinh. Khi cả giáo viên và học sinh đều ý thức rõ tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học hoạt động dạy và học văn nghị luận xã hội sẽ ngày càng hiệu quả hơn. 2.2. Rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học qua việc rèn kĩ năng Đọc- hiểu văn bản văn học. Như đã trình bày ở trên, nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học thường có hai dạng cơ bản: nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm đã học hoặc nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm ngoài chương trình. Cả hai dạng này đều đòi hỏi kĩ năng đọc – hiểu văn bản ở người học. Có kĩ năng đọc hiểu văn bản tốt, học sinh sẽ đủ năng lực cảm thụ tác phẩm, hiểu thấu bức thông điệp được nhà văn, nhà thơ gửi gắm, từ đó có đủ năng lực để nghị luận về những vấn đề xã hội đặt ra. Để rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh, giáo viên cần chú trọng đến rèn luyện các phương pháp đọc hiểu văn bản. Trong chương trình sách giáo khoa THPT, bài đọc hiểu văn bản văn học được đưa vào giảng dạy ngay từ lớp 10. Tuy nhiên, do hạn chế về thời lượng giảng dạy (2 tiết) nên nội dung bài học này thường không được khắc sâu trong nhận thức người học. Vì không nắm chắc các phương pháp đọc hiểu nên học sinh gặp nhiều lúng túng khi phải tự mình cảm thụ tác phẩm. Bởi thế, muốn nâng cao năng lực làm văn nghị luận xã hội cho học sinh cần trang bị đầy đủ lí thuyết đọc hiểu, tăng khả năng vận dụng cho học sinh qua việc lồng ghép vào các bài đọc hiểu văn học. Biến mỗi giờ học đọc – hiểu văn bản thành thời gian rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh, hướng dẫn học sinh tự mình lĩnh hội tri thức chính là thách thức đối với người giáo viên dạy văn. Thông qua những câu hỏi gợi mở, giáo viên hướng dẫn học sinh tự mình 15 chiếm lĩnh nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Từ những bài đọc – hiểu trong chương trình được thầy cô hướng dẫn, các phương pháp đọc – hiểu sẽ dần dần vào tư duy của học sinh, để khi bắt gặp một văn bản hoàn toàn mới, học sinh có thể chủ động tự mình khám phá. Ngoài việc chú trọng dạy kĩ lí thuyết về các phương pháp đọc hiểu văn bản, rèn kĩ năng đọc hiểu qua các bài học cụ thể, giáo viên cần lồng ghép vào các bài đọc hiểu văn bản những kiến thức xã hội có liên quan đến nội dung bài học. Mỗi tác phẩm văn học đều ẩn chứa những bức thông điệp đầy ý nghĩa mà chủ thể sáng tạo gửi gắm. Những bức thông điệp ấy không đi ra ngoài những vấn đề nổi bật trong đời sống xã hội, con người. Dù là tác phẩm văn học dân gian hay văn học viết, mỗi văn bản đều góp phần mở mang tri thức, góp phần hình thành nhân cách cho người học. Trong mỗi bài đọc – hiểu ở lớp giáo viên cần giúp học sinh nhận diện, khắc sâu những vấn đề nghị luận xã hội có liên quan. Chẳng hạn, khi dạy truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu Thủy, sau khi hướng dẫn học sinh khám phá hình tượng các nhân vật, giáo viên cần đặt ra những câu hỏi khuyến khích tư duy nghị luận của học sinh. Từ sai lầm của vua An Dương Vương em rút ra được bài học gì trong việc bảo vệ và phát triển đất nước? Từ bi kịch của Mị Châu em rút ra bài học gì về mối quan hệ cá nhân và dân tộc? Hoặc sau khi hướng dẫn đọc hiểu xong bài Tiến sĩ giấy, giáo viên có thể đặt ra vấn đề cái danh cái thực trong đời sống hôm nay?Trong quá trình đọc hiểu bài ”Chiếc thuyền ngoài xa” giáo viên cần liên hệ đến thân phận của người phụ nữ trong xã hội hiện tại, đặc biệt là nhấn mạnh đến nạn bạo hành gia đình.... 2.3. Rèn kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học 2.3.1. Rèn kĩ năng chung cho kiểu bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học * Trước hết cần nắm được đặc điểm và cấu trúc của dạng đề: Đặc điểm của dạng đề này đó là yêu cầu từ một tác phẩm văn học rút ra vấn đề xã hội và nghị luận về vấn đề đó. Tác phẩm văn học chỉ là cái cớ, là tiền đề, là điểm xuất phát để rút ra vấn đề xã hội cần bàn luận. Không đi sâu phân tích tác phẩm văn học đó 16 mà nội dung nghị luận chủ yếu của bài làm là vấn đề xã hội được rút ra từ tác phẩm văn học. * Cấu trúc của dạng đề này thường được ra dưới hai hình thức sau: - Dạng 1: Từ một tác phẩm đã học, đề yêu cầu người viết bàn luận một ý nghĩa xã hội nào đó. Ví dụ: Từ bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận bàn về bài học: Sống cần có nghĩa, có tình, thủy chung trọn vẹn. Ví dụ: Từ bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy, nhớ và nghĩ về những kỉ niệm tuổi thơ. - Dạng 2: Từ một tác phẩm văn học chưa được học (có thể là một bài thơ, một đoạn thơ hay một câu chuyện nhỏ) từ đó yêu cầu người viết bàn luận về ý nghĩa xã hội đặt ra trong đó. Ví dụ: Trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu viết: Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Từ đoạn thơ trên, anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận bàn về cách sống của con người trong xã hội. Ví dụ: Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu chuyện sau: Một cô gái đến tìm một nhà sư, cô hỏi: - Thưa thầy, con muốn buông một vài thứ mà không thể, con mệt mỏi quá. Nhà sư đưa cho cô gái 1 cốc nước và bảo cô cầm, đoạn ông liên tục rót nước sôi nóng vào cốc, nước chảy tràn ra cả tay, làm cô bị phỏng, cô buông tay làm vỡ cốc. Lúc này nhà sư từ tốn nói: - Đau rồi tự khắc sẽ buông! * Cần nắm chắc yêu cần cần đạt của dạng đề nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. 17 Do đây là kiểu bài nghị luận xã hội nên yêu cầu cần đạt là phải đề xuất được ý kiến để bàn luận về vấn đề xã hội được rút ra từ trong tác phẩm văn học.Vấn đề xã hội đó có khi được nêu lên trong đề bài, có khi lại do người viết phải tự suy nghĩ để rút ra vấn đề xã hội ẩn chứa trong tác phẩm. Bởi thế, để đạt được yêu cầu chủ yếu trên đây thì vấn đề xã hội được rút ra để bàn luận phải đúng với nội dung tư tưởng tác phẩm. Nếu vấn đề xã hội được rút ra mà không đúng với tác phẩm văn học thì nội dung bàn luận không có giá trị gì. Với dạng đề này, người viết cần vừa biết nghị luận vừa có năng lực cảm thụ trước một tác phẩm văn học. Những yêu cầu cụ thể về nội dung và cách viết của dạng đề này có thể cụ thể hóa như sau: - Nội dung: Cần rút ra đúng vấn đề nghị luận đặt ra từ yêu cầu đề bài; Tiến hành bàn luận về vấn đề xã hội đó trong con mắt nhìn của con người hôm nay; Có thể mở rộng ý nghĩa của vấn đề, bày tỏ thái độ, nêu giải pháp, rút ra bài học. - Về cách viết: Chọn lập luận phù hợp; Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt chuẩn xác, mạch lạc,…; Có thể kết hợp các thao tác nghị luận như so sánh vấn đề đặt ra trong tác phẩm với vấn đề xã hội đó trong con mắt của con người hôm nay. - Về tư liệu: Chủ yếu sử dụng lí lẽ và dẫn chứng từ cuộc sống xã hội; Cần biết chọn lọc các dẫn chứng tiêu biểu, toàn diện, tránh nói quá nhiều về tác phẩm văn học, tránh sa đà, đi sâu phân tích tác phẩm không cần thiết, không phục vụ cho nội dung cần nghị luận. * Mô hình ý khái quát của dạng bài nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau: * MỎ BÀI: 18 -Dẫn dắt vấn đề - Nêu vấn đề nghị luận *THÂN BÀI: 1. Giới thiệu và phân tích khái quát tác phẩm - Giới thiệu tác phẩm khái quát (tác giả, hoàn cảnh ra đời, vị trí, ý nghĩa,…) - Phân tích khái quát tác phẩm  Rút ra vấn đề xã hội cần nghị luận 2. Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm : Tùy thuộc vào vấn đề nghị luận là tư tưởng đạo lí hay hiện tượng xã hội mà triển khai ý.(Nếu là vấn đề tư tưởng đạo lí nên triển khai ý theo hướng: Giải thích – Phân tích, chứng minh, bình luận; Nếu là hiện tượng đời sống nên triển khai theo hướng: Thực trạng – Nguyên nhân- Hậu quả- Giải pháp) *KẾT BÀI: Chốt lại vấn đề Lưu ý: Phần thân bài bao giờ cũng phải trải qua hai bước cơ bản nêu trên. Ở phần giới thiệu và phân tích khái quát tác phẩm cần nhớ tuyệt đối không được kể lể lan man, phân tích quá sâu nội dung, nghệ thuật của văn bản. Trọng tâm đề bài là nghị luận về vẫn đề xã hội được rút ra, do đó khi phân tích chỉ nên dừng ở việc khám phá nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nếu phân tích quá sâu, bình quá kĩ về nội dung, nghệ thuật của văn bản bài viết sẽ bị lạc đề sang nghị luận văn học. 2.3.2. Rèn kĩ năng cho từng dạng đề nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. a. Đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học đã học Tác phẩm đã học là những văn bản trong chương trình sách giáo khoa, học sinh đã được thầy cô hướng dẫn đọc hiểu. Các lớp giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của những văn bản này đã được hình thành đầy đủ, rõ ràng, khoa học qua các giờ đọc hiểu ở lớp. Bởi vậy, khi giải quyết dạng đề này người viết cần thể hiện sự chủ động, nắm vững các vấn đề liên quan đến tác phẩm qua cách tóm lược, phân tích, giới thiệu khái quát về văn bản, từ đó nêu bật vấn đề xã hội cần nghị luận. Những thông tin học sinh đưa ra 19 không phải là tất cả những hiểu biết về tác phẩm mà cần được chọn lọc, cân nhắc kĩ lưỡng. Chẳng hạn, khi giải quyết đề bài: Từ thân phận người đàn bà làng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, anh (chị) có suy nghĩ gì về nạn bạo hành gia đình trong xã hội hiện nay. Người viết cần tỉnh táo chọn lọc những thông tin cần thiết trong hình tượng người đàn bà. Việc trình bày tất cả nội dung hình tượng từ ngoại hình, hành động, phẩm chất là không nên và chắc chắn sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian làm bài. Với yêu cầu của đề này, người viết chỉ cần nhấn mạnh vào thân phận tội nghiệp đáng thương của người đàn bà và chi tiết người đàn bà bị chồng bạo hành dã man, từ đó suy nghĩ về hiện tượng bạo hành gia đình trong xã hội hiện tại. Hay khi nghị luận về vấn đề lí tưởng sống của thanh niên qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, người viết không cần phân tích chi tiết từng khổ thơ, từng hình ảnh, từng biện pháp nghệ thuật được nêu trong văn bản. Đề bài yêu cầu nghị luận về lẽ sống nên người viết chỉ cần nêu khái quát hoàn cảnh ra đời, sau niềm hạnh phúc sung sướng vô bờ chính là những nhận thức sâu sắc về lẽ sống của chàng thanh niên 18 tuổi: Sống là tự nguyện gắn kết cuộc đời của cá nhân mình với những con người lao khổ, là yêu thương, sẻ chia và tranh đấu hết mình vì hạnh phúc của quần chúng lao động. Từ lẽ sống sâu sắc ấy, người viết sẽ liên hệ đến lẽ sống của thanh niên hiện tại, chỉ ra yêu cầu của việc sống cần có lí tưởng, lí tưởng ấy phải cao đẹp, mục đích của lí tưởng không phải là vì cá nhân mà vì cộng đồng, vì những con người khốn khổ. Cũng vì là tác phẩm đã được học nên học sinh cần diễn đạt thật chắc chắn, chính xác, cô đọng những thông tin liên quan đến giá trị nội dung của tác phẩm. Cách diễn đạt phải thể hiện được sự hiểu biết, tự tin về đối tượng và phải thể hiện được cả cảm xúc chân thành, sâu sắc. Những thông tin thừa được trình bày thiếu xúc cảm sẽ làm giảm sức thuyết phục của bài viết. Khi nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm người viết phải thể hiện được quan điểm cá nhân, có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghị luận. Những dẫn chứng được lựa chọn để chứng minh cần đa dạng, phong phú, nên lấy từ đời sống để tăng sức thuyết phục, tránh lấy lại tác phẩm đã xuất hiện trong đề. b. Đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học ngoài chương trình 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan