Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...

Tài liệu Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện ý yên, tỉnh nam định

.PDF
80
405
107

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM CÔNG TRÌNH QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo quy định của Học viện Khoa học xã hội. Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ................................................................................. 7 1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn ........................ 7 1.2. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn ...................... 12 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH ............................................... 27 2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ............................................................................................ 27 2.2. Những kết quả đạt được trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ........................................................................... 30 2.3. Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ....................................................... 34 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ......................................................................................................... 55 3.1. Giải pháp về hoàn thiện quy định của pháp luật .............................................. 56 3.2. Giải pháp về áp dụng pháp luật ........................................................................ 65 3.3. Giải pháp đối với những cơ quan tiến hành tố tụng ......................................... 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... ....... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 73 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự HSST Hình sự sơ thẩm NXB Nhà xuất bản TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNHS Trách nhiệm hình sự XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác định: Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp… Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [30]. Nhiệm vụ quan trọng trên đặt ra yêu cầu cho Tòa án nhân dân phải nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển, quyền con người ngày được coi trọng và đề cao. Hình phạt tù có thời hạn tước tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, ảnh hưởng rất lớn tới người đó cũng như gia đình họ. Vì vậy, quyết định hình phạt tù có thời hạn đòi hỏi cần phải chính xác, hợp tình, hợp lý, đủ sức răn đe giáo dục với người bị kết án và giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội. Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân cho thấy việc quyết định hình phạt còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế; nhất là quyết định hình phạt tù có thời hạn. Trong nhiều trường hợp hình phạt đối với bị cáo không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Có những trường hợp, những người phạm cùng một tội danh, có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm và nhân thân người phạm tội tương tự nhau, nhưng hình phạt do Tòa án quyết định lại rất khác nhau hoặc có trường hợp được hưởng án treo, có trường hợp không được hưởng án treo. Điều này làm giảm hiệu quả của hình phạt, gây mất niềm tin của xã hội vào các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, Bộ luật hình sự 2015 được ban hành trong đó sửa đổi bổ sung nhiều quy định so với Bộ luật hình sự 1999, tuy nhiên một số điểm hạn chế của luật cũ chưa được khắc phục trong khi những sai sót mới lại phát sinh. Do đó, Quốc hội đã phải ban hành Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự 2015 để sửa đổi bổ sung; kể từ 01/7/2016, các 1 quy định có lợi cho người phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 vẫn được thực hiện. Nghiên cứu Bộ luật Hình sự 2015 để tìm ra những ưu điểm và hạn chế còn tồn tại, nhất là đối với chế định quyết định hình phạt, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện là yêu cầu cấp bách hiện nay. Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là địa bàn có diện tích rộng, có nhiều tuyến giao thông huyết mạch đi qua, tiếp giáp với nhiều đơn vị hành chính khác, kinh tế tương đối phát triển dẫn tới dân số tăng nhanh về cả tự nhiên và cơ học; tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp. Trong những năm qua, công tác xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Ý Yên tỉnh Nam Định về cơ bản đạt kết quả tốt, đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng phát sinh nhiều bất cập, nhất là trong quyết định hình phạt tù có thời hạn. Nguyên nhân xuất phát từ cả yếu tố khách quan và chủ quan dẫn tới quyết định hình phạt không chính xác đối với người phạm tội. Vì vậy, nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn, trên cơ sở đó đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật hình sự, giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn xét xử đặt ra, đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng. Đây cũng là lý do mà tác giả chọn đề tài “Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định” làm luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về chế định quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt tù nói riêng. Về sách giáo trình, sách chuyên khảo, sách bình luận có các công trình sau: Chương Quyết định hình phạt trong sách Luật Hình sự Việt Nam Phần chung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014 do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên; Chương Quyết định hình phạt trong sách Luật hình sự Việt Nam (phần 2 chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001 do GS.TS Lê Cảm chủ biên; Chương Quyết định hình phạt trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, NXB Công an nhân dân, 2011 của Trường Đại học Luật Hà Nội; Chương Quyết định hình phạt trong Đề tài Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (Phần chung), Chủ nhiệm đề tài TS. Uông Chu Lưu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001; Sách Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 của tác giả TS. Lê Văn Đệ. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận cũng như làm rõ các đặc trưng pháp lý của quyết định hình phạt, mối liên hệ giữa quyết định hình phạt với các vấn đề khác của luật hình sự. Ngoài ra, một số bài viết cũng được công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của pháp luật hình sự của tác giả Trần Thị Quang Vinh, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 2/2000, tr. 17; Vấn đề quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự của tác giả Dương Tuyết Miên, tạp chí Luật học Số 6/2000, tr. 30 – 34; Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội của tác giả Lê Văn Đệ, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 1/2003, tr. 58 – 62; Quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án nhân dân, Số 5/2003, tr. 6 – 8. Ở cấp độ luận án Tiến sĩ Luật học và luận văn Thạc sĩ Luật học có các đề tài: Võ Khánh Vinh (1993) Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án Phó Tiến sỹ Luật học; Nguyễn Sơn (2002) Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học; Trần Văn Sơn (1996), Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Hoàng Chí Kiên (2004), Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Đào Tú Hoa (2006), Hình phạt tù trong luật hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Hằng (2014), Các căn cứ quyết định hình phạt trong 3 Bộ luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Mạnh Tuấn (2014), Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn của địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội. Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu về chế định quyết định hình phạt trên cơ sở lý luận và từ thực tiễn các địa phương khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu về vấn đề quyết định hình phạt tù có thời hạn một cách đầy đủ riêng biệt dưới góc độ pháp lý hình sự và tố tụng hình sự từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhiều nội dung liên quan chưa có được cách giải quyết thống nhất, hơn nữa các công trình này nghiên cứu khi Bộ luật hình sự năm 2015 chưa được ban hành. Do vậy, việc nghiên cứu về quyết định hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn xét xử tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là đòi hỏi khách quan, cấp thiết vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm rõ lí luận và thực tiễn của việc quyết định hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, luận văn hướng đến mục đích kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời hạn nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt trong phòng, chống tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Tiếp cận từ lí luận về quyết định hình phạt, luận văn phải làm rõ lí luận quyết định hình phạt tù có thời hạn, trong đó phải làm rõ khái niệm, căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn, vấn đề quyết định hình phạt tù có thời hạn trong những trường hợp đặc biệt… 4 - Phân tích làm rõ thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định giai đoạn 2012-2016, từ đó phân tích những hạn chế, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. - Kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời hạn nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt trong phòng, chống tội phạm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận và pháp lý có liên quan tới chế định quyết định hình phạt tù có thời hạn dưới góc độ luật hình sự và thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Để hoàn thành đề tài, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử và hệ thống, phương pháp phân tích,... để giải quyết những vấn đề khoa học được đặt ra một cách linh hoạt, đan xen lẫn nhau để đạt được kết quả nghiên cứu cao nhất của đề tài. Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những văn bản hướng dẫn do Tòa án nhân dân tối cao ban hành có liên quan đến nội dung của đề tài, những số liệu thống kê, báo 5 cáo tổng kết năm công tác (từ tháng 01/10 năm trước tới 30/9 của năm liền sau) của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định và Tòa án nhân dân huyện Ý Yên để phân tích, tổng hợp các luận chứng, các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lí luận: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt tù có thời hạn. Luận văn góp phần hoàn thiện lí luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn. - Về thực tiễn: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong quyết định hình phạt tù có thời hạn. Luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo quan trọng dùng trong quá trình học tập và nghiên cứu của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn. Chương 2. Thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định Chương 3. Các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời hạn. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN 1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyết định hình phạt tù có thời hạn Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Hiện chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào xác định khái niệm quyết định hình phạt. Tuy nhiên tựu chung lại cơ thể nhận định: “Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội” [48, tr.386] Hoạt động xét xử của Tòa án thường được trải qua ba giai đoạn là: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động định tội danh và trong trường hợp người phạm tội bị khẳng định là có tội thì mới có thể bị áp dụng hình phạt. Nếu lấy giai đoạn định khung hình phạt để so sánh thì định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến quyết định hình phạt sai, nhưng có thể định tội danh vẫn đúng. Vì vậy định khung hình phạt là bước đầu tiên quan trọng của quyết định hình phạt, là cơ sở để quyết định hình phạt đúng nên định khung hình phạt thuộc về quyết định hình phạt. Trên cơ sở khung hình phạt đã xác định, Hội đồng xét xử phải tiến hành quyết định hình phạt chính trước, sau đó mới quyết định hình phạt bổ sung. Điều này cho thấy trong quyết định hình phạt thì quyết định hình phạt chính có tính chất bắt buộc đối với người phạm tội bị kết án. Nội dung của quyết định hình phạt thể hiện hai điểm sau: 1) Tòa án lựa chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản 7 điều luật) tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo. 2) xác định một mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo căn cứ trên tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Hình phạt tù với tư cách là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt thường được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội bình thường một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo họ. Như vậy, có thể định nghĩa: Quyết định hình phạt tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Toà án có thẩm quyền lựa chọn khung và mức phạt tù cụ thể được quy định trong điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội. Tiếp cận từ khái niệm và các thuộc tính cơ bản của lí luận về quyết định hình phạt, có thể suy ra những đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt tù như sau: - Quyết định hình phạt tù có thời hạn là một giai đoạn của quá trình xét xử và chỉ do một cơ quan duy nhất có thẩm quyền tiến hành là Tòa án. - Đối tượng của quyết định hình phạt tù có thời hạn là cá nhân người phạm tội, con người cụ thể đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và có lỗi trong điều kiện hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định tại thời điểm thực hiện tội phạm. Chính họ sẽ phải chấp hành hình phạt mà Tòa án đã tuyên chứ không ai có thể chấp hành thay được, có như vậy hình phạt mới đạt được mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Đối tượng này phân biệt với pháp nhân thương mại phạm tội trong BLHS 2015 bởi vì không thể xử phạt tù đối với pháp nhân. - Hậu quả pháp lý sau khi Tòa án quyết định một mức hình phạt tù giam cụ thể đối với người phạm tội là sẽ tước tự do của người bị kết án trong một thời hạn và một số quyền nhân thân của người đó. 8 - Quyết định hình phạt tù có thời hạn là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự của Hội đồng xét xử. Trong quan hệ pháp luật hình sự, trách nhiệm hình sự của người phạm tội không mặc nhiên phát sinh nếu không có hoạt động xét xử của Toà án để chứng minh người đó phạm tội và áp dụng các biện pháp chế tài của luật hình sự đối với họ. Do đó, quyết định hình phạt luôn là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Hội đồng xét xử tiến hành trên cơ sở căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể. 1.1.2 Nguyên tắc quyết định hình phạt tù có thời hạn Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối với người phạm tội [48, tr.388]. Các nhà nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam đều thống nhất quan điểm việc quyết định hình phạt nói chung phải dựa trên bốn nguyên tắc: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng [48, tr.389]. Các nguyên tắc này có tính độc lập tương đối của nó và cùng tồn tại. Nhưng mặt khác, các nguyên tắc quyết định hình phạt luôn có những phần, những nội dung xâm nhập nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau và ở dạng tổng thể tạo thành một hệ thống thống nhất. Quyết định hình phạt tù có thời hạn là trường hợp riêng phổ biến của Tòa án khi quyết định hình phạt, vì vậy cũng phải tuân thủ bốn nguyên tắc nêu trên: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng. * Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng 9 cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nói đến sự tuân thủ triệt để pháp luật của Nhà nước, các cơ quan tổ chức và công dân. Đối với quyết định hình phạt nguyên tắc này được thể hiện ở việc Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với những hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Điều 2 BLHS 1999 khẳng định: Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự [26]. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình phạt tù có thời hạn thể hiện ở việc Tòa án phải tuân theo trình tự tố tụng nhất định, các điều kiện áp dụng hình phạt tù và đặc biệt Tòa án chỉ có thể tuyên trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong BLHS (trừ trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật). Mặt khác, nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt tù có thời hạn đòi hỏi các quy định về mục đích hình phạt, căn cứ lập luận phải được Tòa án ghi rõ trong bản án định tội. Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quyết định hình phạt tù có thời hạn còn thể hiện quy định về phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Ở phần các tội phạm, nguyên tắc pháp chế XHCN thể hiện ở chỗ quy định rõ giới hạn hình phạt từ mức cao nhất đến mức thấp nhất của khung hình phạt cho từng tội cụ thể áp dụng để quyết định hình phạt đúng đắn. * Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc nhân đạo XHCN là một nguyên tắc tiến bộ thể hiện ở việc khi quyết định hình phạt Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo, cân nhắc lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của người phạm tội trong một tổng thể thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Ở nước ta, tư tưởng nhân đạo luôn thể hiện rõ nét trong đường lối chính sách của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt tù có thời hạn thể hiện ở Điều 3 BLHS 1999 - Nguyên tắc xử lý tội phạm: "… khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, 10 ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra" [26]. Bộ luật hình sự cũng quy định các tình tiết định khung giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ hình phạt buộc Tòa án phải cân nhắc khi quyết định hình phạt tù có thời hạn. Hình phạt tù có thời hạn bị hạn chế áp dụng đối với một số chủ thể đặc biệt như người chưa thành niên, người già, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức khả năng điều khiển hành vi. * Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt Cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng của chế định hình phạt và là nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt nói chung. Nội dung của nguyên tắc cá thể hóa khi quyết định hình phạt tù có thời hạn được thể hiện trong BLHS cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Khi quyết định hình phạt tù, hình phạt mà tòa án tuyên đối với người bị kết án phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, mức độ tham gia thực hiện tội phạm. Việc các nhà làm luật quy định các khung hình phạt trong một tội danh cũng như quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt chính là quy định khả năng cá thể hóa đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, những đối tượng ngoan cố chống đối, lưu manh, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội và khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra… Trong áp dụng pháp luật hình sự, khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Tòa án phải cân nhắc những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội như hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, tiền án, tiền sự và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để cá thể hóa TNHS đối với người bị kết án. * Nguyên tắc công bằng 11 Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc công bằng là sự tương xứng giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu. Như vậy, thứ nhất nguyên tắc công bằng đòi hỏi việc quyết định hình phạt tù phải tương xứng với hành vi của người phạm tội. Thứ hai, khi quyết định hình phạt tù Tòa án phải cân nhắc cả nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án. Thứ ba, hình phạt tù được tuyên cần phải phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội, phải có sức thuyết phục mọi người. 1.2 Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn 1.2.1 Quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự 1999. Theo Bộ luật hình sự 1999, Điều 28 quy định hình phạt bao gồm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm có: a) cảnh cáo; b) phạt tiền; c) cải tạo không giam giữ; d) trục xuất; đ) tù có thời hạn; e) tù chung thân; g) tử hình. Các hình phạt bổ sung gồm có: a) cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định; b) cấm cư trú; c) Quản chế; d) tước một số quyền công dân; đ) tịch thu tài sản; e) phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; g) trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định [26]. Hình phạt tù có thời hạn tước quyền tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, cách ly họ khỏi đời sống xã hội bình thường, buộc họ phải sống trong môi trường riêng biệt có sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giáo dục và cải tạo họ. Đây là hình phạt phổ biến trong hệ thống hình phạt của mọi quốc gia. So với hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc hơn nhiều. Điều này thể hiện ở việc người bị kết 12 án cải tạo không giam giữ không bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội, mọi hoạt động sinh hoạt với gia đình, cộng đồng không bị ảnh hưởng mà chỉ bị chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục. Trong khi đó người bị kết án tù bị tước tự do hoàn toàn, bị giam giữ trong một môi trường chịu sự quản lý chặt chẽ và nghiêm khắc, việc tiếp xúc với môi trường sống xã hội bị hạn chế đáng kể. Hạn chế tự do đối với người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của loại hình phạt này. Việc hạn chế tự do của người phạm tội còn có mục đích phòng ngừa chung. Khi bị kết án tù và phải chấp hành án tại cơ sở giam giữ, họ không còn có những điều kiện nhất định để phạm tội mới gây thiệt hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Điều 33 Bộ luật hình sự 1999 quy định thời hạn tù tối thiểu là ba tháng, thời hạn tù tối đa là hai mươi năm. Theo điều 50 Bộ luật hình sự 1999, trong trường hợp phạm nhiều tội, mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn là ba mươi năm. 1.2.2 Căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào những căn cứ cụ thể để đảm bảo hình phạt được tuyên là đúng đắn, chặt chẽ và thống nhất; đồng thời tránh được tình trạng tùy tiện trong quyết định hình phạt và đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt. Do đó, căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do Bộ luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm [48, tr.395]. Điều 45 BLHS 1999 quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau: Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn cũng bao gồm: - Các quy định của Bộ luật hình sự; - Tính chất và mức độ nguy hiểm cho hành xã hội cỉa hành vi phạm tội; 13 - Nhân thân người phạm tội; - Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đây là những căn cứ chung, có tính chất bắt buộc trong mọi trường hợp đối với tòa án khi quyết định hình phạt. Các căn cứ này tuy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng đều có tính độc lập tương đối. * Các quy định của Bộ luật hình sự Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Tòa án bắt buộc phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự để lựa chọn khung và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. Đó là những quy định liên quan đến nguyên tắc xử lí, đến hình phạt và quyết định hình phạt. Thuộc về những quy định này bao gồm: - Các quy định trong Phần chung của BLHS 1999 như: Quy định về Nguyên tắc xử lí (Điều 3), về hình phạt tù có thời hạn (Điều 33), về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45), về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 46), các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 48), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 49), quy định về án treo (Điều 50). - Các quy định trong phần các tội phạm của BLHS 1999 về khung hình phạt tù có thời hạn cho từng loại tội. Căn cứ vào quy định của BLHS bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy, chỉ quyết định hình phạt khi đã có đủ căn cứ xác định một người đã phạm vào một tội mà Bộ luật hình sự quy định, tức là phải định tội danh trước rồi mới quyết định hình phạt sau. Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Toà án phải áp dụng đúng khung hình phạt và không được phạt cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt đã quy định. Việc áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải tuân theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự. 14 * Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội Các quy định của Bộ luật hình sự thuộc căn cứ thứ nhất đã thể hiện tình thần của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Đó là khung hình phạt cũng như hình phạt cụ thể cần quyết định cho từng trường hợp phạm tội phải tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Áp dụng các quy định trên để quyết định hình phạt cũng có nghĩa là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ví dụ: Cùng với hành vi dùng dao xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, người phạm tội có thể bị tuyên phạm tội cố ý gây thương tích hoặc giết người, tùy từng trường hợp có thể bị định khung tăng nặng, khung cơ bản hoặc khung giảm nhẹ tương ứng với mức hình phạt khác nhau. Như vậy trong căn cứ thứ nhất đã chứa đựng một phần nội dung của căn cứ thứ hai. Tuy nhiên, vẫn cần thiết quy định trong Bộ luật Hình sự một căn cứ quyết định hình phạt độc lập đó là: tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở tổng thể của hai khái niệm “tính chất” và “mức độ” nguy hiểm của hành vi phạm tội [48, tr.397]. Tính chất nguy hiểm cho xã hội là đặc tính về chất của hành vi phạm tội, là thuộc tính khách quan của tội phạm [48, tr.398]. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là thuộc tính về lượng nhất định của cùng một chất tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội [48, tr.398]. Những tội phạm giống nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng có thể khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng là thuộc tính khách quan của tội phạm. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành tội phạm, bởi vì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy 15 hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự). Các yếu tố đó bao gồm: - Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào tính chất quan trọng của khách thể bị xâm phạm. Quan hệ xã hội về an ninh quốc gia và quan hệ xã hội về tính mạng, sức khỏe danh dự nhân phẩm của con người được ưu tiên bảo vệ và tội phạm xâm phạm các quan hệ này bị có tính chất mức độ nguy hiểm lớn hơn, khung hình phạt nặng hơn. - Thủ đoạn, công cụ phương tiện, hình thức thực hiện tội phạm: Thủ đoạn công cụ càng tinh vi thì tính chất nguy hiểm càng lớn. - Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra. - Tính chất và mức độ lỗi, động cơ, mục đích của hành vi phạm tội. Cùng là lỗi nhưng lỗi cố ý nguy hiểm hơn lỗi vô ý, cùng là lỗi cố ý nhưng lỗi cố ý trực tiếp thì nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián tiếp; cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng sự quyết tâm phạm tội của người phạm tội cao nguy hiểm hơn người không có ý thức quyết tâm phạm tội đến cùng; cùng là vô ý thì vô ý vì quá tự tin nguy hiểm hơn lỗi vô ý vì cẩu thả. - Những tình tiết thuộc về nhân thân có ảnh hưởng tới mức độ nguy hiểm của tội phạm … Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhà làm luật chia tội phạm ra làm bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với cùng một loại tội phạm, nhà làm luật cũng chia các khung hình phạt khác nhau: khung cơ bản, khung tăng nặng, khung giảm nhẹ căn cứ trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án bắt buộc phải chỉ ra trong bản án những tình tiết cụ thể để chứng minh tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà Tòa án dựa vào đó để quyết định hình phạt đối với bị cáo. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan