Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân luận văn ths. l...

Tài liệu Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân luận văn ths. luật

.DOCX
195
173
112

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ CHIÊM QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ CHIÊM QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan HÀ NỘI - 2013 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoan MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 6 1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 6 1.1.2. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân 9 1.2. Cơ sở, ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân 11 1.2.1. Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 11 1.2.2. ý nghĩa của quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 13 1.3. Căn cứ xác định nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 15 1.4. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ 20 1.4.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến 20  4 1.4.2. Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc 22 1.4.3. Pháp luật thời kỳ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay 26 CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 32 2.1. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung 32 2.1.1. Vợ chồng bình đẳng trong quyền sở hữu tài sản chung 32 2.1.2. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng 40 2.1.3. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện 43 2.1.4. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với giao dịch do cả vợ và chồng thực thiện 48 2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng 50 2.2.1. Quyền của vợ chồng đối với tài sản riêng 50 2.2.2. Nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ chồng 55 2.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng khi nhập tài sản riêng vào tài sản chung 57 2.4. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 61 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 67 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 67 3.1.1. Nhận xét chung 67 3.1.2. Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy 68  5 định về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 80 3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 80 3.2.2. Một số kiến nghị về thực hiện và áp dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 88 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hôn nhân hình thành làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ đó là các quyền và nghĩa vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng. Trong đó quyền và nghĩa vụ tài sản đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là cơ sở kinh tế để đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội, đồng thời còn nhằm đáp ứng các nhu cầu về vật chất của vợ chồng, đảm bảo cho vợ chồng thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân với nhau và thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ đối với con cái cũng như đối với các thành viên khác trong gia đình. Trong xã hội hiện đại ngày nay, vợ chồng ngày càng tham gia đa dạng hơn vào các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại. Do vậy tài sản của vợ chồng không chỉ còn là những tài sản "tĩnh" phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày mà còn bao gồm cả những tài sản "động" đang tham gia vào sự vận động của nền kinh tế. Khi thực hiện các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh này vợ chồng có thể sử dụng tài sản chung hoặc tài sản riêng của mình để tham gia vào các giao dịch đó. Trong nhiều trường hợp, do nhu cầu kinh doanh vợ chồng có thể chia tài sản chung để một bên đầu tư kinh doanh riêng. Do vậy quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với nhau và với bên thứ ba có quan hệ tài sản với vợ chồng trong những trường hợp này là khác nhau. Việc xác định đúng đắn quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng không những đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên mà còn tránh xảy ra những mâu thuẫn, tranh chấp không đáng có. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định tương đối cụ thể về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến đổi như hiện nay, các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc. Các quy định này chưa phản ánh được trạng thái "vận động" của các loại tài sản của vợ chồng tham gia giao lưu dân sự và hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường và hội nhập ngày nay, vợ chồng ngày càng có nhiều cơ hội, điều kiện tham gia một cách năng động, linh hoạt vào các hoạt động đa dạng của nền kinh tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận, tăng thu nhập cho cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần vào sự tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Do vậy việc nghiên cứu vấn đề quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, thiết thực. Nó luôn là vấn đề có tính thời sự cấp thiết trong thực tế đời sống vợ chồng. Với đề tài "Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân" luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng. Đồng thời qua phân tích, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật luận văn chỉ rõ những điểm còn bất cập, vướng mắc, chưa thống nhất của các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề này. Từ đó đưa ra những đề xuất nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề tài sản của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân như: Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, 2008; Nguyễn Ngọc Điện, "Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam", tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nhà xuất bản Trẻ, 2004. Nguyễn Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002. Ngoài ra còn có nhiều bài viết về đề tài này đăng trên các báo và tạp chí. ThS. Nguyễn Hồng Hải (2003), Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam hiện nay; Nguyễn Phương Lan, Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Luật học, số 6/2002… Các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, toàn diện, bao quát cả quan hệ tài sản của vợ chồng, hay đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề mà chưa có đề tài nào nghiên cứu riêng về "Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân". Với đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu chuyên sâu về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân một cách toàn diện, có tính hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích nghiên cứu của đề tài: Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật chỉ ra những bất cập trong quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. - Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: + Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. + Nghiên cứu thực tiễn áp dụng, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. + Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Với đề tài "Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân" luận văn chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Do đó một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng như vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, vấn đề thừa kế tài sản giữa vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết trước không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn vì những quyền và nghĩa vụ này phát sinh khi hôn nhân đã chấm dứt. Đồng thời để làm rõ vấn đề nghiên cứu, luận văn có so sánh, đối chiếu với các văn bản pháp luật trước đây của nước ta và các văn bản pháp luật của một số nước về vấn đề này. Qua đó luận văn chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong các quy định của pháp luật hiện hành để làm cơ sở cho những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu đề tài, những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. 6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn - Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời có sự so sánh với các quy định của pháp luật trước đây để làm nổi bật những điểm mới, tiến bộ của những quy định pháp luật về vấn đề này trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. - Luận văn phân tích một số điểm bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng, từ đó làm cơ sở cho những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này. - Những kiến nghị, lập luận, đề xuất trong luận văn có thể là những tài liệu tham khảo góp phần vào việc hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình đang được sửa đổi và bổ sung trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân * Khái niệm thời kỳ hôn nhân Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi vợ chồng kết hôn và kết thúc khi hôn nhân chấm dứt do vợ chồng ly hôn; do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn hoặc vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bán án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Việc xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp đặc biệt: Nam nữ sống chung như vợ chồng thì theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 và thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định như sau: Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 sau đó mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được công nhận đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng mà không phải từ ngày đăng ký kết hôn. Nam nữ chung sống như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003. Trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Từ sau ngày 1/1/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn. Việc xác định thời kỳ hôn nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, đặc biệt là trong quan hệ tài sản. Xác định đúng thời kỳ hôn nhân là một trong những cơ sở đảm bảo xác định chính xác quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng từ đó đảm bảo quyền bình đẳng và quyền lợi chính đáng cho cả hai bên vợ chồng. * Khái niệm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Gia đình Việt Nam từ ngàn xưa vẫn được coi là nền tảng của xã hội, trong các bộ luật đầu tiên của nước ta như Bộ luật Hồng Đức đời nhà Lê, Bộ luật Gia Long đời nhà Nguyễn đã có nhiều điều khoản qui định về các quan hệ trong gia đình, quan hệ giữa vợ chồng với nhau, quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Trong gia đình, quan hệ vợ chồng là quan hệ nền tảng ảnh hưởng tới mọi mối quan hệ khác của gia đình. Quan hệ vợ chồng được phát sinh từ một sự kiện pháp lý đặc biệt đó là kết hôn và được xây dựng từ hai yếu tố tình cảm và vật chất. Tình cảm là điều kiện cần cho một cuộc hôn nhân bắt đầu và vật chất là điều kiện đủ để duy trì cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Vật chất ở đây được hiểu một cách đơn giản là tài sản của vợ chồng, đó có thể là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Nếu như tình cảm là một yếu tố khó kiểm soát thì ngược lại vấn đề tài sản, đặc biệt là các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng lại được nhà nước điều chỉnh một cách cụ thể bằng các quy định của pháp luật. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân xuất phát từ mục đích đảm bảo sự tồn tại và phát triển của gia đình. Bởi bên cạnh tình cảm là yếu tố có từ trước hôn nhân thì việc phát sinh và thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ và chồng là hệ quả tất yếu sau hôn nhân. Các quyền và nghĩa vụ tài sản này là cơ sở kinh tế bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội. Ngoài ra các quyền và nghĩa vụ đó còn nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất của vợ chồng, bảo đảm cho vợ chồng thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân với nhau và thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ đối với con cái cũng như các thành viên khác trong gia đình. Thông qua các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ, chồng biết được các quyền cũng như trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội, từ đó có các xử sự phù hợp để đảm bảo cho những lợi ích chung của gia đình cũng như của cá nhân mình. Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo nghĩa khách quan và chủ quan như sau: Theo nghĩa khách quan: Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là khả năng vợ, chồng có quyền và có nghĩa vụ liên quan đến tài sản của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nhằm đảm bảo cho vợ chồng thực hiện được các chức năng của gia đình trong thời kỳ hôn nhân. Theo nghĩa chủ quan: Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là những quyền và nghĩa vụ mà vợ chồng được pháp luật cho phép thực hiện bằng hành vi của mình trong thời kỳ hôn nhân liên quan đến những lợi ích về tài sản nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển của gia đình trong đời sống xã hội cũng như đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng về tài sản của vợ chồng và quyền, lợi ích về tài sản của người khác có giao dịch với vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 1.1.2. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đóng một vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, nó có những nét đặc trưng riêng khác với quyền nhân thân của vợ chồng. - Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân gắn liền với quan hệ vợ chồng, chỉ những quan hệ được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng mới có các quyền và nghĩa vụ này. Quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng giữa nam và nữ mà không đăng ký kết hôn không tồn tại quan hệ này, giữa họ chỉ phát sinh quan hệ tài sản trong dân sự. - Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng là những quyền liên quan đến lợi ích về tài sản. Khác với quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng là những quyền liên quan đến lợi ích tinh thần, tình cảm không mang nội dung kinh tế và cũng không phụ thuộc vào yếu tố tài sản, quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân luôn gắn với các lợi ích về tài sản. Đó là các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng. - Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ phát sinh khi quan hệ hôn nhân được xác lập và chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Quyền và nghĩa vụ tài sản này sẽ chấm dứt khi vợ chồng ly hôn hoặc do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Như vậy có thể thấy sự kiện phát sinh và chấm dứt quan hệ hôn nhân là căn cứ phát sinh cũng như chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. - Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng được sử dụng nhằm đảm bảo cho các nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Nếu tài sản chung của vợ chồng không đủ chi dùng thì vợ chồng nếu có tài sản riêng phải có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng để đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Đối với các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện với người khác nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình thì phát sinh trách nhiệm liên đới của cả vợ và chồng đối với giao dịch đó. Đặc điểm này xuất phát từ mục đích đảm bảo sự tồn tại và phát triển của gia đình, gia đình phát triển bền vững, hạnh phúc là cơ sở để đảm bảo an sinh xã hội. - Về nguyên tắc quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng là do pháp luật quy định do vậy vợ chồng không thể thỏa thuận thay đổi được trừ trường hợp được pháp luật quy định. Khác với quan hệ tài sản trong dân sự, các bên có thể tự do thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ của mình một cách linh hoạt miễn sao nó không trái với các quy định của pháp luật, còn trong quan hệ hôn nhân và gia đình quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng luôn bị chi phối trước tiên bởi lợi ích chung của gia đình, của các con. Do vậy các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng không chỉ liên quan đến bản thân vợ, chồng mà còn liên quan đến gia đình, đến các con nên vợ chồng không thể tự ý thỏa thuận thay đổi nếu pháp luật không có quy định. - Khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng có thể bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định như trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải có sự thỏa thuận của cả vợ chồng. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân, đó là xây dựng gia đình hạnh phúc luôn có sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Đây cũng là nguyên tắc chung trong việc bảo vệ lợi ích của gia đình, lợi ích của người thứ ba có giao dịch về tài sản với vợ, chồng. 1.2. CƠ SỞ, Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 1.2.1. Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân xuất phát từ những cơ sở sau: Thứ nhất: Mục đích của quan hệ hôn nhân Mỗi cặp vợ chồng khi kết hôn đều mong muốn xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc. Để xây dựng gia đình thì bên cạnh đời sống tình cảm không thể không quan tâm đến đời sống vật chất, kinh tế của vợ chồng. Bởi nó là cơ sở để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó. Để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia đình, vợ chồng không chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình mà cần có sự trao đổi, giao dịch với nhiều người khác. Khi thực hiện các giao dịch đó, vợ chồng có thể sử dụng tài sản chung hoặc tài sản riêng của mình; mục đích của các giao dịch có thể nhằm đáp ứng nhu cầu chung, thiết yếu của gia đình, cũng có thể đáp ứng nhu cầu riêng của cá nhân vợ hoặc chồng. Do vậy nếu pháp luật không quy định rõ quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng thì sẽ gây ảnh hưởng không chỉ đến quyền lợi của gia đình, đến nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân vợ, chồng. Thứ hai: Thực tế đời sống của vợ chồng trong gia đình và trong quan hệ tài sản với người khác. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước phát triển như hiện nay, sự tham gia của vợ chồng vào các giao dịch dân sự, thương mại là vô cùng đa dạng và phức tạp. Ngoài các giao dịch đơn giản diễn ra hàng ngày để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, vợ chồng còn có thể tham gia rộng rãi vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh... để tìm kiếm lợi nhuận thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân hay vì lợi ích chung của gia đình. Khi tham gia vào các giao dịch này đã làm phát sinh nhiều nghĩa vụ tài sản của vợ chồng, đó có thể là nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng của vợ chồng. Bên tham gia giao dịch tài sản với vợ chồng cũng cần phải xác định được nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện được đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản riêng của một bên vợ chồng để hạn chế những tranh chấp xảy ra, và đó cũng là cơ sở để pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Thứ ba: Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử Đời sống kinh tế - xã hội ngày càng phát triển kéo theo các quy định của pháp luật điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong thực tế cuộc sống cũng phải được thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Trước đây, trong thời kỳ phong kiến quan hệ vợ chồng luôn thể hiện sự bất bình đẳng, người vợ luôn phải phụ thuộc và phục tùng người chồng về mọi mặt. Các quy định của pháp luật được ban hành chủ yếu bảo vệ quyền lợi của người đàn ông, người chồng trong gia đình. Đến thời kỳ xã hội chủ nghĩa vợ chồng đã được bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình, trong đó có các quyền và nghĩa vụ về tài sản. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan