Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền và nghĩa vụ người làm chứng trong luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Quyền và nghĩa vụ người làm chứng trong luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
71
200
139

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHÓA 33 (2007 -2011) QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Giáo viên hƣớng dẫn: Sinh viên thực hiện: NGUYỄN CHÍ HIẾU TRẦN VĂN Ý MSSV: 5075163 Lớp : 0765A2 – Tƣ pháp 2 K33 Cần Thơ 2011 QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 2 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Mục Lục Trang MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 5 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM .... 8 1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN CHẾ ĐỊNH NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT VIỆT NAM.................................................. 8 1.1.1 Khái niệm ngƣời làm chứng ............................................................................................ 8 1.1.1.1. Theo quan điểm của một số nước trên thế giới............................................................. 8 1.1.1.2. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam..................................................................12 1.1.2.Đặc điểm ngƣời làm chứng theo pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành .......................12 1.1.2.1. Điều kiện để trở thành người làm chứng ....................................................................12 1.1.2.2 Trường hợp không được xem là người làm chứng ...................................................13 1.2 VAI TRÒ NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN QUY ĐỊNH NGƢỜI LÀM CHỨNG .........................................................................................................................15 1.2.1. Vai trò của ngƣời làm chứng trong việc giải quyết vụ án hình sự .........................15 1.2.2. Lƣợc sử phát triển quy định ngƣời làm chứng trong pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam ..................................................................................................................................17 1.2.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2003 ..........................................................................18 1.2.2.2 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay. ...................................................................................19 1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ NGƢỜI TỐ GIÁC TỘI PHẠM . 21 1.3.1 Những điểm tƣơng đồng giữa ngƣời làm chứng và ngƣời tố giác tội phạm. .........21 1.3.2. Những điểm khác biệt giũa ngƣời làm chứng và ngƣời tố giác tội phạm. ...................22 Chƣơng 2 QUYỀN, NGHĨA VỤ VÀ THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI LÀM CHỨNG .................................................................................................26 2.1. QUYỀN VÀ THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI LÀM CHỨNG ............26 2.1.1. Quyền của ngƣời làm chứng theo quy định pháp luật .................................................26 2.1.1.1. Quyền hiến định của người làm chứng – quy định trong Hiến pháp Việt Nam. ........27 2.1.1.2. Quyền luật định cho người làm chứng - quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự .....29 2.1.2. Thực trạng bảo vệ quyền của ngƣời làm chứng ...........................................................29 2.1.2.1. Quyền tranh tụng dân chủ trong tố tụng hình sự của người làm chứng chưa thật sự đảm bảo. ...................................................................................................................................30 2.1.2.2. Bộ luật Tố tụng hình sự không có quy định bảo đảm quyền của người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự. ..............................................................................................34 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 3 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1.2.3. Một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự không được thực hiện một cách triệt để đảm bảo quyền và lợi ích của người làm chứng khi tham gia tố tụng. ................................37 2.1.2.4. Những quy định về bảo vệ người làm chứng còn quy định ở nhiều văn bản không thống nhất: ...............................................................................................................................39 2.2. NGHĨA VỤ VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI LÀM CHỨNG ...................................................................................................................................40 2.2.1. Nghĩa vụ của ngƣời làm chứng theo quy định pháp luật ............................................40 2.2.1.1. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng: ................................41 2.2.1.2. Khai báo trung thực tất cả các tình tiết mình biết về vụ án: .......................................43 2.2.2. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của ngƣời làm chứng ..................................................44 2.2.2.1. Không có sự tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ của người làm chứng theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự: ................................................................................................44 2.2.2.2. Người làm chứng tham gia tố tụng chưa thật sự được đảm bảo .................................45 Chƣơng 3 NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HẠN CHẾ THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO QUY ĐỊNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI LÀM CHỨNG ...........................................................................................49 3.1. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HẠN CHẾ THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI LÀM CHỨNG...........................................................................................................49 3.1.1. Nguyên nhân khách quan dẫn đến hạn chế những quy định về ngƣời làm chứng. ....49 3.1.2. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế các quy định về ngƣời làm chứng. ..............51 3.2. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO QUY ĐINH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƢỜI LÀM CHỨNG...........................................................................................................52 3.2.1. Theo mô hình của một số nƣớc trên thế giới đã áp dụng. ............................................53 3.2.1.1 Hoa Kỳ (United States of America) ...............................................................................53 3.2.1.2. Australia ......................................................................................................................55 3.2.1.3. Colombia ......................................................................................................................56 3.2.1.4. Đức (Germany) ............................................................................................................57 3.2.1.5. Bảo vệ nhân chứng ở Tòa án hình sự quốc tế. ............................................................59 3.2.2. Theo tình hình kinh tế xã hội và trình độ lập pháp của nƣớc ta..................................64 3.2.2.1. Giải pháp hoàn thiện trước mắt...................................................................................64 3.2.2.2 Giải pháp hoàn thiện theo hướng dâu dài ....................................................................65 KẾT LUẬN..............................................................................................................................69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................70 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 4 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong giai đoạn phát triển xã hội hiện nay, đi đôi với quá trình hội nhập phát triển kinh tế là yêu cầu xây dựng một xã hội có những thiết chế pháp luật chặt chẽ, cụ thể, trong đó quyền con người được tôn trọng và được bảo vệ. Những quy định về quyền và nghĩa vụ người làm chứng quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự là cơ sở để bảo vệ người làm chứng – chủ thể góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Cùng với quá trình hội nhập sự hoàn thiện chế định người làm chứng và sự đảm bảo của nhà nước về địa vị pháp lý của người làm chứng sẽ có ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ quyền lợi của con người, quyền lợi của toàn xã hội nói chung cũng như quyền lợi của người làm chứng nói riêng; góp phần cũng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước và đồng thời góp phần quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Hướng pháp luật nước ta theo hướng nhân đạo và ngày càng hoàn thiện hơn chế định này. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - chính trị xã hội thì vấn đề tội phạm cũng ngày càng tinh vi và nguy hiểm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức. Hoạt động xét xử nước ta cũng như ở một số nước trên thế giới hiện nay đang gặp phải những trở ngại to lớn vì sự tác động của giới tội phạm đối với người làm chứng và thân nhân của họ. Các hình thức cưỡng bức người làm chứng để họ không hợp tác với các Cơ quan tiến hành tố tụng thông qua việc trình bày lời khai gian dối, phản cung, không khai báo,… ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Đứng trước tình hình đó, vấn đề không còn trong phạm vi một quốc gia, khu vực mà đòi hỏi cả thế giới phải đặt ra vấn đề giải quyết. Một số nước tiên tiến họ đã ban hành văn bản quy định cũng như chương trình để bảo vệ người làm chứng, một số nước do điều kiện khách quan cũng như chủ quan nên việc ban hành các quy định về người làm chứng còn nhiều bất cập, trong công tác áp dụng pháp luật vào thực tiễn thì còn chưa nghiêm chỉnh. Đòi hỏi cấp thiết đặt ra phải xây dựng một quy định về người làm chứng cụ thể hơn, hoàn thiện hơn. Đây là vấn đề cấp thiết cần nghiên cứu và tìm hiểu để góp phần nâng cao địa vị pháp lý người làm chứng đã hình thành và tồn tại trong xã hội và pháp lý. 2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề, khía cạnh trong quy định của pháp luật về người làm chứng trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay và tiêu biểu là từ những quy GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 5 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến nay. Phân tích hạn chế trong từng điều luật về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, mang so sánh giữa quyền và nghĩa vụ để làm rõ thêm sự hạn chế trong quy định pháp luật và việc áp dụng vào thực tiễn để thấy thực trạng của người làm chứng trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời đi sâu nghiên cứu các quy định về bảo vệ người làm chứng mà các nước phát triển đã áp dụng để đấu tranh chống tội phạm, nhằm đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật cho xã hội ta trong giai đoạn sắp tới. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu từ gốc độ pháp lý đến gốc độ xã hội, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu trên cơ sở lý luận, đồng thời cũng đánh giá, so sánh về mặt quy định pháp lý của một số nước trên thế giới. Từ đó nhìn nhận được rằng vai trò, vị thế của họ trong đấu tranh chống tội phạm để có biện pháp khuyến khích họ tham gia tố tụng một cách tích cực nhất. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ người làm chứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, nêu lên những điểm mới tiến bộ của quy định về người làm chứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 so với Bộ luật Tố tụng hình sự 1988. Đồng thời cũng nêu lên những hạn chế dẫn đến những quy định tiến bộ không thể áp dụng vào thực tiễn một cách khả thi, để làm cơ sở đưa ra định hướng hoàn thiện những quy định về quyền và nghĩa vụ trong thời gian sắp tới. Từ những mục đích trên, đề tài đặt ra nhiệm vụ cần nghiên cứu sau đây: Nghiên cứu tổng quát cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng trong Tố tụng hình sự, làm rõ vai trò, ý nghĩa của họ trong thực tiễn đời sống xã hội, trong đấu tranh chống tội phạm. Phân tích đánh giá việc thực hiện nghĩa vụ của người làm chứng và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong thực tiễn, tìm hiểu nguyên nhân và đề ra giải pháp phương hướng hoàn thiện các quy định và việc áp dụng thống nhất các quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Nâng cao sự hiểu biết pháp luật cho người làm chứng để họ nhận thấy được vai trò của mình trong công cuộc đấu tranh chông tội phạm, đặc biệt là tội phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức trong thời gian hội nhập sắp tới. 5. Kết cấu nghiên cứu đề tài GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 6 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Đề tài nghiên cứu tổng thể từ những quy định chung nhất về người làm chứng đến từng quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng hình sự. Nghiên cứu ở gốc độ xã hội từ việc áp dụng các quy định tiến bộ về người làm chứng vào thực tiễn. Tìm hiểu và nghiên cứu một số quy định tiến bộ trên thế giới để đúc kết kinh nghiệm cho việc xây dựng một quy định độc lập về người làm chứng ở Việt Nam. Nội dung nghiên cứu bao gồm ba chương: - Chương 1: Khái quát chung về người làm chứng trong pháp luật Việt Nam - Chương 2: Quyền, nghĩa vụ và thực trạng bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ của người làm chứng - Chương 3: Nguyên nhân dẫn đến hạn chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và giải pháp nâng cao quy định quyền và nghĩa vụ của người làm chứng Đây là vấn đề đặt ra đòi hỏi xã hội phải giải quyết trong giai đoạn hiện nay, để hướng đến sự phát triển bền vững trong giai đoạn sắp tới. GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 7 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chương này tập trung nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận chung về người làm chứng trong Tố tụng hình sự. Tìm hiểu khái quát, tổng thể về người làm chứng, tạo nên kiến thức cơ bản là tiền đề cho việc nghiên cứu các chương tiếp theo. 1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN CHẾ ĐỊNH NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT VIỆT NAM 1.1.1 Khái niệm ngƣời làm chứng 1.1.1.1. Theo quan điểm của một số nước trên thế giới Trên thế giới hầu hết các quốc gia đều thừa nhận sự có mặt của người làm chứng. Các quốc gia khác nhau thì họ có quan điểm về người làm chứng khác nhau. Theo quan niệm của pháp luật Đức về người làm chứng: Người làm chứng được quy định thành một chương riêng (Chương VI ) trong Bộ luật Tố tụng hình sự Đức. Bất kỳ ai cũng có thể là nhân chứng, trừ bị cáo và đồng phạm. Chứng cứ nghe nói lại có thể thừa nhận nhưng phải được thẩm tra một cách thận trọng. Người làm chứng có ba nghĩa vụ chính: Ra trình diện trước Công tố viên hoặc Thẩm phán; Làm chứng một cách trung thực (nếu không có đặc quyền từ chối làm chứng) và xác nhận lời làm chứng của mình bằng cách tuyên thệ trước Thẩm phán (nếu không thuộc trường hợp ngoại lệ không phải tuyên thệ). Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luât1. Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định hậu quả của việc người làm chứng vắng mặt. Họ sẽ phải chịu trách nhiệm đối với chi phí do vắng mặt gây ra, đồng thời phải chịu một khoản tiền phạt bắt buộc. Tùy từng trường hợp mà họ có thể bị tạm giam hoặc cưỡng chế ra làm chứng lần thứ hai trước Tòa. Người làm chứng được bảo vệ một số quyền nhất định. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nguyên tắc không được phép suy luận bất lợi đối với việc từ chối khai báo của người 1 Bộ Luật Tố tụng hình sự Liên bang Đức – http://www.vksndtc.gov.vn/theloai/khoahocks/7.aspx GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 8 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM làm chứng. Người làm chứng có quyền từ chối làm chứng trong một số trường hợp sau: Người thân hoặc họ hàng của bị cáo có thể từ chối đưa ra chứng cứ nếu thấy rằng việc đó có thể dẫn đến xung đột, ảnh hưởng tới việc thực hiện bổn phận đạo đức của họ. Đó là vợ chồng (kể cả khi hôn nhân không còn tồn tại), vợ chồng chưa cưới và những người trong quan hệ trực hệ theo hôn nhân, quan hệ hàng bệ ở hàng thứ ba (như cha mẹ, con cái, ông bà, cụ kị, cháu chắt, anh chị em ruột và con cái của họ) hoặc có quan hệ theo hôn nhân ở hàng thứ hai với bị can, bị cáo. Những mối quan hệ từ hôn nhân như thông gia cũng có đặc quyền này nhưng hạn chế hơn (Điều 55 – Bộ luật Tố tụng hình sự Đức); Những người làm ở một số nghề nghiệp luật định quyền từ chối đưa ra chứng cứ vì lý do bí mật nghề nghiệp. Quy định này được áp dụng đối với linh mục, Luật sư, bác sỹ, và các cộng sự của họ (Điều 53). Nhà báo và những người có liên quan đến việc sản xuất hoặc phát hành báo chí ấn phẩm xuất bản định kỳ khác, những người thi hành một số nhiệm vụ công như thành viên của các cơ quan lập pháp (thành viên của Quốc hội liên bang, Quốc hội bang hoặc cơ quan lập pháp cấp hai liên quan đến những người nắm giữ thông tin vì chức năng của họ) cũng có thể được hưởng quyền này. Những người này có quyền giữ im lặng đối với những vấn đề cụ thể liên quan đến chuyên môn hay thẩm quyền của họ. Pháp luật không yêu cầu Thẩm phán và những người thẩm vấn khác phải cảnh báo trước cho họ về quyền được từ chối khai báo và những lời khai được coi là vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật nghề nghiệp vẫn được xem là chứng cứ vì đây là những đối tượng được coi là tự biết được quyền mình; Viên chức nhà nước, gồm các Thẩm phán và những người làm việc tại các nhiệm sở, có quyền từ chối đưa ra chứng cứ về những vấn đề bí mật liên quan đến công việc của họ (Điều 54). Tuy nhiên, nếu được cấp trên cho phép thì họ cũng có thể trả lời về những vấn đề này. Thông thường cảnh sát, Công tố viên, Tòa án hay bất cứ người nào muốn thẩm vấn sẽ phải xin phép cấp trên người được thẩm vấn và người được xin phép chỉ có thể từ chối cho phép cung cấp chứng cứ dựa trên cơ sở là lợi ích chung. Không có yêu cầu phải cảnh báo trước trong trường hợp này và lời khai đưa ra mà không được phép trước vẫn được coi là chứng cứ; Các nhân chứng không nhất thiết phải khai báo nếu câu trả lời câu hỏi cụ thể nào đó có thể làm cho họ hoặc một trong số những người họ hàng của họ có nguy cơ bị truy tố hình sự hoặc kết tội (Điều 55). Tuy nhiên, GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 9 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM nhân chứng thường không khước từ việc đưa ra chứng cứ nói chung mà chỉ từ chối trả lời một số các câu hỏi cụ thể. Trong trường hợp này, việc từ chối trả lời câu hỏi có thể dẫn đến suy đoán bất lợi cho họ. Do đó, họ phải được thông báo trước về điều đó. Các nhân chứng phải được thông báo về quyền không khai báo khi bị thẩm vấn và có thể tự quyết định từ bỏ quyền này, đưa ra chứng cứ. Nếu nhân chứng không được thông báo về quyền này thì lời khai của họ không được thừa nhận là chứng cứ, trừ khi nhân chứng biết quyền này và họ quyết định từ chối khai báo. Quyền từ chối khai báo có thể thực hiện bất cứ thời điểm nào và nhân chứng có thể rút lại quyết định của mình trong quá trình thẩm tra, khai báo. Những lời khai đưa ra trong giai đoạn xét xử sau khi đã được cảnh báo trước vê quyền từ chối có thể được sử dụng làm chứng cứ. Tuy nhiên, nếu tại tòa nhân chứng lại thực hiện quyền từ chối khai báo thì những lời khai trước đó của nhân chứng với cảnh sát, Thẩm phán tiền xét xử, giám định viên hay tại một phiên xử trước không được đọc lên tại Tòa (Điều 252). Luật pháp cấm người đã thẩm vấn nhân chứng vào thời điểm trước đó cung cấp chứng cứ về vấn đề đã hỏi, ngoại trừ Thẩm phán đã tiến hành thẩm vấn nhân chứng có thể được gọi đến cung cấp chứng cứ về những vấn điều nhân chứng đó đã khai. Nếu một nhân chứng chỉ từ chối đưa ra chứng cứ tại phiên tòa thì các lời khai chính thức trước đó của họ được chấp nhận cho dù họ không được cảnh báo trước về điều đó trong các cuộc thẩm vấn trước đây. Trong trường hợp này, người đã thẩm vấn nhân chứng có thể được gọi đến Tòa án để cung cấp chứng cứ. Bản sao biên bản các lời khai trước đó của nhân chứng có thể đọc lên trước Tòa. Trong quy định người làm chứng của Đức quyền của họ được hưởng rộng hơn so với quy định của nước ta. Có hai điểm đặc biệt cần lưu ý về người làm chứng trong luật Đức. Thứ nhất, mọi nhân chứng có nghĩa vụ pháp lý tuyên thệ khi đưa ra chứng cứ, trừ trường hợp người đó là vị thành niên dưới 16 tuổi, hoặc những người không hiểu hết tầm quan trọng và bản chất lời tuyên thệ do họ có nhược điểm, khiếm khuyết về trí tuệ, tâm thần (Điều 60 – 67 Bộ luật Tố tụng hình sự Đức). Trong những trường hợp ngoại lệ, Thẩm phán có thể không tiến hành thủ tục tuyên thệ và phải giải thích lý do (Điều 64). Thứ hai, giám định viên làm chứng, khác với chuyên gia giám định được coi là một nhân chứng đặc biệt. Giám định viên làm chứng được đối xử như các nhân chứng bình thường khác, GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 10 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM cũng có những quyền và nghĩa vụ tương tự (Điều 85). Đây là quan điểm của pháp luật Đức về khái niệm cũng như quyền và nghĩa vụ người làm chứng trong lĩnh vực tố tụng hình sự của mình. Theo quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ: “ Nhân chứng là người đã trực tiếp chứng kiến tội phạm hoặc sự kiện kịch tính thông qua các giác quan của họ (nhìn thấy, nghe, ngửi, sờ) và có thể giúp xác nhận xem xét quan trọng đối với các tội phạm hoặc sự kiện”2. Các nhân chứng được triệu tập ra tòa bằng trát hầu tòa. Tùy từng khu vực mà áp dụng các biện pháp đảm bảo lời khai người làm chứng như: tuyên thệ, nói sự thật, theo hình phạt về tội khai man,… Lời khai người làm chứng luôn luôn được xem trọng hơn bằng chứng gián tiếp. Họ phân chia nhân chứng thành hai dạng: Nhân chứng chuyên môn là một nhân chứng chuyên về một lĩnh vực nghiên cứu liên quan đến tội phạm như các nhà khoa học, bác sĩ; Nhân chứng trực tiếp là nhân chứng tận mắt chứng kiến. Từ khái niệm cho thấy ở Hoa Kỳ họ cũng không quy định về tư cách chủ thể của người làm chứng, khi họ biết về vụ án và có thể giúp cho việc xác minh tội phạm, họ được triệu tập bởi trát hầu tòa khi đó họ là nhân chứng. Tìm hiểu pháp luật của nước Cộng hòa Montenegro (Republic of Montenegro), trong luật Bảo vệ người làm chứng (LAW ON WITNESS PROTECTION) ban hành ngày 25 tháng 10 năm 2004 họ đưa ra khái niệm người làm chứng như sau: Nhân chứng (Witness) có nghĩa là bất kỳ người nào, bất kỳ điều gì của mình hoặc quan hệ pháp lý trong luật tố tụng hình sự, họ biết những thông tin về tội phạm hình sự và thủ phạm và tình tiết quan trọng khác, hoặc khả năng hiểu biết hoặc thông tin quan trọng và cần thiết cho việc chứng minh các tội phạm hình sự, khi đó sự việc sẽ được phơi bày đặt họ chổ nguy hiểm cho đời sống, sức khỏe, quyền tự do cá nhân, tự do hoặc tài sản trên quy mô lớn 3. Trong quan điểm của pháp luật Montenegro họ cũng thừa nhận rằng nhân chứng là người biết được tình tiết liên quan đến vụ án và cũng không phân biệt về chủ thể “Bất kỳ người nào”. Đây là điểm chung nhất của các nước về quan điểm người làm chứng trong vụ án hình sự. Xét trong quan điểm này thì pháp luật nước ta về người làm chứng đã xích gần 2 3 http://www.uslaw.com/us_law_dictionary/w/Witness Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo vệ nhân chứng của nước Cộng hòa Montenegro năm 2004 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 11 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM với quan điểm chung của thế giới nhưng điều kiện mỗi nước khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của người làm chứng cũng được quy định khác nhau và điều này mang ý nghĩa quan trọng trong việc họ tham gia tố tụng. Tuy có những hệ thống pháp luật khác nhau nhưng các nước trên thế giới đều có chung quan điểm về vai trò của người làm chứng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Với mục tiêu khuyến khích người làm chứng tham gia vào hoạt động tố tụng, các quốc gia có nền pháp luật tiên tiến tìm mọi cách nhằm cân bằng quyền và nghĩa vụ của người làm chứng để chống lại các tội phạm có tổ chức lớn, xuyên quốc gia. Tất cả đều nhìn nhận rằng đây là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu và cần có giải pháp để giải quyết một cách triệt để. 1.1.1.2. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó quyền con người luôn luôn được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tiễn. Như chúng ta đã biết, quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt. Tuy nhiên, ở bất kì quốc gia nào, bất kì chế độ thì tội phạm và hành vi phạm tội luôn tồn tại với nhiều hình thức khác nhau, chúng đang rình rập đe dọa đến quyền con người. Để giải quyết vấn đề này, thì vai trò người làm chứng không thể thiếu, trong bất kì chế độ xã hội nào người làm chứng luôn tồn tại. Tuy nhiên, tùy vào quan điểm của từng quốc gia, từng chế độ xã hội mà quy định về người làm chứng khác nhau. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành thì người làm chứng là người biết về một tình tiết nào đó có ý nghĩa cho việc điều tra, xét xử vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập tham gia vào vụ án để trình bày lời khai của mình. Quan điểm đó được cụ thể hóa tại khoản 1 điều 55, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003: “người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.” 1.1.2.Đặc điểm ngƣời làm chứng theo pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành 1.1.2.1. Điều kiện để trở thành người làm chứng GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 12 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Từ khoản 1 điều 55, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, ta thấy, để trở thành người làm chứng phải có đủ hai điều kiện: phải biết được tình tiết liên quan đến vụ án và phải có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này có nghĩa, người làm chứng không phân biệt giới tính, độ tuổi, không nhất thiết phải là người chứng kiến toàn bộ quá trình gây án, không nhất thiết phải ở hiện trường vụ án mà chỉ cần biết những tình tiết liên quan đến vụ án. Vấn đề đặt ra là những tình tiết liên quan đến vụ án là những tình tiết gì, liên quan như thế nào đến vụ án, hay nói khác hơn những tình tiết gì thì được xem là liên quan đến vụ án, để làm điều kiện cần để trở thành người làm chứng trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Theo tinh thần của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định những tình tiết liên quan mà người làm chứng phải trình bày trước cơ quan tiến hành tố tụng như: trình bày về những gì họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra. Tóm lại: Để trở thành người làm chứng phải hội đủ hai điều kiện, điều kiện cần là phải biết những tình tiết liên quan đến vụ án và điều kiện đủ là phải có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Một khi hội đủ hai điều kiện trên thì họ được pháp luật công nhận với tư cách người làm chứng cho vụ án. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định, tuy họ hội đủ hai điều kiện cần và đủ nêu trên nhưng họ vẫn không được xem là người làm chứng. 1.1.2.2 Trường hợp không được xem là người làm chứng Người làm chứng đóng vai trò không nhỏ trong việc giải quyết vụ án. Tuy ở vào vị trí nào, người làm chứng cho bị can, bị cáo hay người làm chứng cho bị hại nhưng xét cho cùng họ đều hướng tới một sự thật khách quan, một sự công bằng cho xã hội. Giúp cho việc giải quyết vụ án trở nên nhanh chống và trừng phạt đúng người đúng tội. Do vậy, chỉ cần người làm chứng không khách quan trong lời khai sẽ dẫn đến cản trở trong việc điều tra giải quyết vụ án. Đôi khi còn để lại hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự Việt Nam, bỏ lọt tội phạm, xử lý không đúng người đúng tội, là điều kiện tất yếu dẫn đến oan sai xảy ra. Đã lường được hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, nên Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành có quy định, cho dù có đủ điều kiện để trở thành GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 13 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM người làm chứng nhưng rơi vào một trong những quy định tại khoản 2 điều 55 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 thì vẫn không được xem là người làm chứng cho vụ án. - Người bào chữa cho bị can, bị cáo: rõ ràng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo thì hị bào chữa theo hướng gỡ tội, họ không quan tâm đến sự thật khách quan vụ án mà bằng khả năng của mình từ việc thu thập chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo đến việc tranh luận trước Tòa nhằm làm giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Hay nói khác hơn họ làm mọi cách để có lợi cho thân chủ của họ, có lợi cho bị can, bị cáo. Như vậy, nếu pháp luật vẫn thừa nhận họ có tư cách người làm chứng khi họ có đủ điều kiện thì liệu lời khai của họ có tính khách quan không, họ có hướng tới việc giải quyết vụ án khách quan không hay họ chỉ hướng tới những gì có lợi cho thân chủ của họ mà thôi. - Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn. Đây là quy định mà trong nó bao hàm nhiều đối tượng không được pháp luật thừa nhận họ với tư cách người làm chứng. Đối tượng đầu tiên được luật đề cập đến là người không có năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng luật hành vi dân sự, mà theo câu chữ của luật là “người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết vụ án”. Rõ ràng người mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ đều bị hạn chế quyền công dân của mình. Trong trường hợp này luật cũng sẽ hạn chế luôn cả quyền trở thành người làm chứng của họ. Đối tượng thứ hai mà luật đề cập đến là người không có khả năng khai báo đúng đắn. Điều này có thể hiểu nhóm đối tượng này bao gồm những người thân thích, những người không có khả năng khai báo đúng đắn như họ bị đe dọa, ẹp buộc mà lời khai của họ có thể đưa vụ án đi hướng khác không làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án mà gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Tóm lại: Những đối tượng không theo hướng khách quan nhằm giải quyết vụ án theo hướng khách quan mà chỉ nhằm mục đích làm giảm tội cho bị can, bị cáo hay vì lợi ích cá nhân dẫn đến lời khai không đúng sự thật hay những người bị nhược điểm về thể chất GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 14 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM tinh thần mà họ không có khả năng nhận biết, thì cho dù họ có đủ điều kiện để trở thành người làm chứng thì pháp luật cũng tước bỏ quyền làm chứng của họ, hay nói khác hơn pháp luật không thừa nhận những đối tượng này với tư cách là người làm chứng nhằm hướng vụ án đến sự khách quan và công bằng. 1.2 VAI TRÒ NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN QUY ĐỊNH NGƢỜI LÀM CHỨNG 1.2.1. Vai trò của ngƣời làm chứng trong việc giải quyết vụ án hình sự Trong từng xã hội khác nhau, chế độ khác nhau thì có những quy định khác nhau về người làm chứng. Tuy nhiên người làm chứng luôn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Một trong những cách thể hiện vai trò của mình là thông qua lời khai của người làm chứng. Tùy vào từng giai đoạn xã hội, từng quy định pháp luật mà lời khai của người làm chứng mang ý nghĩa nhất định. Lời khai người làm chứng là loại chứng cứ mà nguồn của nó là những con người cụ thể. Những thông tin về vụ án được phản ánh và tái hiện lại qua lời khai của những con người cụ thể hoàn toàn khác nhau về tâm lý, về kinh nghiệm xã hội, về tính cách nhân cách. Lời khai người làm chứng, thủ tục tuyên thệ (cam đoan) chỉ nói sự thật của người làm chứng trước tòa có cội nguồn xa xưa. So với nhiều chế định khác thì chế định người làm chứng là một trong những chế định cổ xưa nhất trong tố tụng hình sự. Từ bao đời nay lời khai người làm chứng luôn được nhìn nhận là nguồn chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Trong lịch sử phát triển của khoa học tố tụng hình sự, chế định người làm chứng đã trải qua những thăng trầm nhất định và ngày nay lời khai của người làm chứng chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống chứng cứ của tố tụng hình sự không riêng ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Hoạt động tố tụng càng có tính tranh tụng bao nhiêu, sự bình đẳng về quyền của các bên trong hoạt động chứng minh càng được thừa nhận đầy đủ bao nhiêu thì lời khai người làm chứng càng được sử dụng phổ biến bấy nhiêu. Niềm tin vào lời khai của người làm chứng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án là một phần niềm tin của con người vào sự công minh, khách quan của hoạt động xét xử. Có thể nói là trong tương lai dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu đi nữa, dù máy móc tự động có thể thay thế GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 15 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM hoạt động của con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau đi chăng nữa thì người làm chứng cùng với lời khai của họ vẫn có vai trò to lớn trong việc xác định sự thật khách quan trong hoạt động xét xử. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật chỉ có thể mở rộng khả năng, làm thuận tiện hơn, dễ dàng hơn quá trình thu thập, lưu trữ, truyền tải và sử dụng lời khai người làm chứng nhưng không thể thay thế lời khai của người làm chứng cũng như vai trò của người làm chứng. Vai trò người làm chứng vẫn là một công cụ không thể thiếu được trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Ở Liên bang Nga khi thăm dò ý kiến của các thẩm phán về việc chứng cứ nào mà họ cho là quan trọng nhất trong hoạt động xét xử thì kết quả trả lời cho thấy lời khai của người làm chứng chiếm vị trí số một, thứ hai là kết quả giám định và thứ ba là lời khai người bị hại4. Điều này có thể hiểu được bởi lẽ người làm chứng khác so với người bị hại. Người bị hại là nạn nhân trực tiếp của hành vi phạm tội nên lời khai của họ có thể phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan của họ về các tình tiết của vụ án so với lời khai của người làm chứng. Lời khai của người bị hại không chỉ là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà còn là lời buộc tội, là công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Trình bày lời khai không chỉ là nghĩa vụ tố tụng mà đồng thời cũng là quyền tố tụng của người bị hại. Xét ở góc độ này thì người bị hại được nhìn nhận là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội. Còn người làm chứng là chủ thể của chức năng hỗ trợ tư pháp cho nên dù là người làm chứng bên buộc tội hay người làm chứng bên bào chữa thì họ đều có sự quan tâm duy nhất là sự thật khách quan của vụ án phải được sáng tỏ và sự tham gia của họ góp phần cho nhiệm vụ đó. Thực tiễn trên thế giới cho thấy vai trò quan trọng của người làm chứng, một số vụ án phải hoãn do sự vắng mặt của người làm chứng tại tòa án. Điều này dẫn đến thiệt hại lớn trên tất cả các mặt của xã hội. Chỉ xét riêng ở khía cạnh kinh tế, sự vắng mặt của người làm chứng tại phiên tòa buộc tòa án hoãn phiên tòa xét xử vụ án làm thiệt hại đáng kể ngân sách nhà nước. Tại Anh trong năm 2002 – 2003, có 2.845 vụ án ở Tòa án Hoàng gia và 13.328 vụ án ở tòa án sơ thẩm đã bị hoãn vì nhân chứng vắng mặt chiếm 22% và 26% 4 Tạp chí Khoa học Pháp luật số 2 (40)-2007 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 16 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM số vụ án bị hoãn. Cơ quan kiểm toán quốc gia Anh ước tính mỗi năm các phiên tòa bị hoãn đã gây thiệt hại 41 triệu bảng (hơn 1.000 tỷ đồng) 5. Bên cạnh thiệt hại về kinh tế thì thiệt hại về công lý mới đáng quan tâm hơn. Không có lời khai người làm chứng, người làm chứng phản cung, thay đổi lời khai ban đầu, làm cho hoạt động xét xử gặp khó khăn thậm chí bế tắc, kẻ phạm tội đích thực vẫn tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, nhiệm vụ của tố tụng hình sự không hoàn thành, chân lý khách quan của vụ án không xác định được. Thực tiễn xét xử nước ta cũng cho thấy trong nhiều vụ án lớn liên quan đến băng nhóm xã hội đen như vụ án Phúc bồ, Khánh trắng (Hà Nội), Năm Cam (TP. Hồ Chí Minh) thì gần như những người làm chứng được tòa án triệu tập đã không có mặt. Gần đây trong vụ án về tội cố ý gây thương tích Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã hoãn phiên tòa vì vắng mặt nhiều nhân chứng quan trọng. Trong vụ án bị cáo Nguyễn Minh Hùng hai lần bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh kết án tử hình và cả hai lần đều bị Tòa án phúc thẩm TANDTC hủy án điều tra lại, xung quanh lời kêu oan của bị cáo và hành hạ nhân chứng6. Tóm lại: Người làm chứng luôn đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ vụ án, lời khai của người làm chứng luôn được nhìn nhận như một chứng cứ quan trọng thực hiện nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên vai trò của họ có được phát huy hay không, có được đảm bảo hay không là tùy vào quy định của pháp luật của từng quốc gia, từng chế độ xã hội khác nhau. Nếu pháp luật quy định hợp lý sẽ phát huy hết vai trò của người làm chứng bằng ngược lại sẽ ảnh hưởng đến giải quyết vụ án làm vụ án kéo dài, làm tội phạm nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, gây thiệt hại cho kinh tế, thiệt hại ngân sách quốc gia, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.2. Lƣợc sử phát triển quy định ngƣời làm chứng trong pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam Tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của quy định về người làm chứng trong Tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Có thể chia thành hai giai 5 6 Xem: Anh: “O Bế” nhân chứng, Báo pháp luật TP.Hồ Chí Minh ngày 16/12/2004. Tạp Chí Khoa học Luật số 2 (40) -2007 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 17 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM đoạn với hai sự kiện pháp lý quan trọng là sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên năm 1988, lần đầu tiên địa vị pháp lý của người làm chứng được thừa nhận trong luật; và sự xuất hiện của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đánh dấu bước phát triển tư duy lập pháp với những quy định tiến bộ về quyền của người làm chứng. 1.2.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2003 Pháp luật luôn luôn gắn liền với một chế độ xã hội. Chế độ xã hội khác nhau thì pháp luật khác nhau, chế độ xã hội thay đổi thì pháp luật cũng thay đổi. Nước ta xây dựng và phát triển từ Phong kiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Thời điểm đánh dấu sự thay đổi lớn về mọi mặt của xã hội nước ta là năm 1945 với Tuyên Ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên mãi đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn thống nhất, do bước đầu phát triển và phải khôi phục kinh tế nên lúc này Nhà nước chưa kịp ban hành rộng rãi luật. Mặt khác lúc này nước ta theo chính sách đóng cửa nền kinh tế nên về mặt xã hội chưa có sự thay đổi lớn hay nói khác hơn chưa xuất hiện các khách thể mà pháp luật cần điều chỉnh. Đến năm 1986 với chính sách mở cửa thị trường đưa nền kinh tế nước ta từ bao cấp sang nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi rất lớn về các mặt của xã hội, xuất hiện nhiều khách thể mà đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh. Từ năm 1986 đến nay hệ thống pháp luật nước ta có nhiều thay đổi lớn, từ việc sửa đổi Hiến pháp đến việc ban hành các Bộ luật, luật và văn bản dưới luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực và trong đó Luật tố tụng hình sự cũng không ngoại lệ. Trong lĩnh vực Tố tụng hình sự, ngày 28 tháng 06 năm 1988 tại Hà Nội Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Thấu suốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, Bộ luật đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, đề cao vai trò tổ chức xã hội, công dân trong việc tham gia tố tụng7. Với tinh thần đó vai trò của người làm chứng trong việc tham gia tố tụng cũng được các nhà làm luật quan tâm đến và quy định tại điều 43 – Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Quy định cụ thể gồm 4 khoản như sau: 7 Lời nói đầu Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 18 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1) Người nào biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. 2) Người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án; có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án. 3) Những người sau đây không được làm chứng: a) Người bào chữa cho bị can, bị cáo; b) Người do có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn. 4) Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo Điều 242 Bộ luật hình sự; khai gian dối thì phải chịu trách nhiệm theo Điều 241 Bộ luật hình sự. Đây là một quy định mang nặng tính bắt buộc, pháp luật không thừa nhận cho người làm chứng bất kì một quyền gì. Tuy có những tiến bộ về tư duy lập pháp như đưa ra được khái niệm người làm chứng cũng như điều kiện được xem là người làm chứng và không được xem là người làm chứng nhưng còn quy định mang nặng nghĩa vụ, không thừa nhận vai trò quan trọng của họ, tạo ra sự hạn chế họ tham gia trong quá trình tố tụng. 1.2.2.2 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay. Với sự thay đổi của xã hội, đất nước bước vào thời kì hội nhập giao lưu văn hóa cũng như pháp luật. Quan hệ xã hội mới xuất hiện, tư duy lập pháp cũng được cải thiện trên tất cả các mặt nói chung và tư duy pháp luật người làm chứng nói riêng. Ngày 26 tháng 11 năm 2003 tại kỳ họp thứ 4, khóa XI Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự thay thế cho Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Khách quan mà nói thì Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 có một số bổ sung về quyền của người làm chứng so với Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 như quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, quyền được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 19 SVTH: Trần Văn Ý QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM của pháp luật (Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Đây là tín hiệu đáng mừng về sự thay đổi tư duy lập pháp về người làm chứng, dần dần thừa nhận vai trò của họ trong việc đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên khi phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì chúng ta có thể thấy được sự không tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người làm chứng. Nghĩa vụ của người làm chứng nhiều và nặng hơn rất nhiều so với quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng mặc dù họ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Người làm chứng có thể bị dẫn giải nếu vắng mặt không có lý do chính đáng và gây khó khăn trở ngại cho việc điều tra, xét xử. Nếu từ chối hoặc trốn tránh khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật Hình sự, nếu khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 307 Bộ luật Hình sự. Nói một cách chính xác thì người làm chứng không được hưởng một lợi ích vật chất hay tinh thần nào khi tham gia tố tụng. Các quyền mà Bộ luật Tố tụng hình sự thừa nhận cho người làm chứng chỉ là quyền yêu cầu được bù đắp những thiệt thòi mất mát hoặc ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với họ liên quan đến sự hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 chưa tạo ra được cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm và xác lập chân lý vụ án. Tóm lại: Quy định pháp luật Việt Nam về người làm chứng từ sau Cách mạng tháng Tám đã được kế thừa và phát triển thành quy định được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988. Do bước đầu hội nhập, nền kinh tế - xã hội chưa biến động lớn, tư duy lập pháp chưa phát triển nên quy định chỉ mang nặng nghĩa vụ không thừa nhận bất kì quyền nào của họ. Nền kinh tế - xã hội dần dần thay đổi theo thời đại mới, tư duy lập pháp cũng phát triển theo sự hội nhập của quốc gia. Các quy định pháp luật trước đây không còn phù hợp tuyệt đối các quan hệ xã hội, một lần nữa quy định về người làm chứng được sửa đổi bổ sung và ghi nhận tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Ở quy định này các nhà lập pháp đã nhận thấy vai trò của người làm chứng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Để khuyến khích người làm chứng tích cực tham gia tố tụng không cách gì khác hơn là tạo ra sự cân bằng về quyền và nghĩa vụ cho họ. Nhận thấy sự cần thiết đó, tại Điều 55 GVHD: Nguyễn Chí Hiếu Trang 20 SVTH: Trần Văn Ý
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan