Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật việt nam

.PDF
102
238
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀM THỊ HOA QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2016 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀM THỊ HOA QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ HUYỀN Hà Nội – 2016 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đàm Thị Hoa iii DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự BLDS: Bộ luật dân sự BLLĐ: Bộ luật lao động NLPLTTDS: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự NLHVTTDS: Năng lực hành vi tố tụng dân sự PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế PLTTGQTCLĐ : Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động VADS : Vụ án dân sự UBND: Ủy ban nhân dân. iv MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ 7 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 7 1.1.1. Khái niệm quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 7 1.1.2 Cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định pháp luật về quyền tự do khởi kiện 15 1.2 Lƣợc sử các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong pháp luật dân sự Việt Nam 18 1.2.1. Thời kỳ Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam 18 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 19 1.2.3. Từ năm 1989 đến năm 2005: 21 1.2.4. Từ năm 2005 đến nay 22 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể 24 1.3.1 Quy định của pháp luật – yếu tố ảnh hƣởng có tính chất quyết định quyền tự do khởi kiện của chủ thể. 25 1.3.2. Nhận thức của chủ thể - yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến thực hiện quyền tự do khởi kiện chủ chủ thể. 26 1.3.3 Trách nhiệm của Toà án, cơ quan trực tiếp thụ lý giải quyết các vụ án – yếu tố ảnh hƣởng tích cực đến thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể. 28 1.3.4 Hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức khác – yếu tố ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể. 29 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 31 CHƢƠNG 2: QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO 32 PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 32 2.1. Các quy định của pháp luật nội dung về quyền tự do khởi kiện 32 v 2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. 33 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 43 2.3. Bảo đảm quyền tự do khởi kiện của chủ thể thông qua các quy định về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. 62 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 73 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEP PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ 75 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 75 3.1.1. Về kết quả đạt đƣợc trong việc thực hiện các quy định về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam 75 3.1.2. Về những bất cập, vƣớng mắc nảy sinh trong việc thực hiện các quy định về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam. 76 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam 85 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 91 KẾT LUẬN CHUNG 92 vi MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền dân sự cơ bản, một quyền năng mà pháp luật thừa nhận đối với các chủ thể trong giao lƣu dân sự. Hiến pháp năm 2013 đƣợc kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 28/11/2013 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014. Một trong các bƣớc tiến quan trọng của Hiến pháp năm 2013 là đề cao nhân quyền nhƣ tổng hoà quyền con ngƣời và quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội đƣợc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, cùng với chuyên ngành pháp luật khác, pháp luật dân sự, cụ thể Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2015 với tƣ cách là luật chung, là cơ sở để luật chuyên ngành xây dựng và thực hiện, hai bộ luật này có hiệu lực thi hành toàn bộ bắt đầu từ ngày 01/01/2017 đã đặc biệt đề cao quyền con ngƣời, quyền dân sự trong đó quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự của chủ thể pháp luật đƣợc thể hiện khá rõ nét. Có thể nói, sau hơn 10 năm Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 và Bộ luật Dân sự 2005 và một số luật chuyên ngành khác có hiệu lực thi hành, các quy định về quyền tự do khởi kiện đã bộc lộ những hạn chế nhất định, quyền khởi kiện của chủ thể chƣa đƣợc đảm bảo triệt để do quy định của pháp luật tố tụng còn chung chung hoặc do thiếu vắng các quy định của luật nội dung nên các cơ quan tài phán chƣa làm hết trách nhiệm của mình dẫn đến quyền dân sự của chủ thể chƣa đảm bảo triệt để. Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đƣợc xây dựng trên cơ sở kế thừa và cơ bản sẽ khắc phục đƣợc phần lớn những khiếm khuyết của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, đề cao quyền tự do khởi kiện của các chủ thể, trách nhiệm của cơ quan tài phán trong xử lý vụ việc, tranh chấp dân sự. Tuy nhiên những quy định về quyền tự do khởi kiện của chủ thể pháp luật dân sự trong pháp luật dân sự hiện nay, cụ thể là trong Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực một phần vào ngày 01/7/2016 và hiệu lực toàn bộ vào ngày 01/01/2017 và một số luật chuyên ngành khác nhƣ Luật Doanh nghiệp, Luật hôn nhân và gia đình, luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em... chƣa thực sự đảm bảo trọn vẹn cho việc thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể trong giao lƣu dân sự?. Nội dung Bộ luật 1 Dân sự, với các văn bản luật chuyên ngành và Bộ luật Tố tụng dân sự có đảm bảo sự thống nhất hay vẫn còn những quy định về quyền tự do khởi kiện còn chồng chéo? Chính từ thực trạng đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về chế định Quyền tự do khởi kiện trong pháp luật dân sự Việt Nam nhằm góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật dân sự, đảm bảo quyền tự do khởi kiện của chủ thể mỗi khi quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm. Với những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài " Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam" có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một đề tài thu hút khá nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu vì nó có tính ứng dụng trong thực tiễn đời sống xã hội. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu nhƣ luận văn cao học luật với đề tài “Đƣơng sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Triều Dƣơng (bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2005); luận văn “Thụ lý vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Liễu Thị Hạnh (bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009); luận văn “ Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004” của tác giả Nguyễn Thị Hƣơng ( bảo vệ tại Khoa Luật Trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011) hay luận văn “ Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hiền ( bảo vệ tại khoa Luật trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội năm 2012)....Tuy nhiên các công trình này cũng chỉ đề cập đến một nội dung cụ thể nào đó của quyền khởi kiện hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về quyền khởi kiện của đƣơng sự và chỉ nghiên cứu tập trung vào các quy định của luật tố tụng dân sự ( luật hình thức) mà không đi sâu nghiên cứu quyền tự do khởi kiện dƣới góc độ luật nội dung và tố tụng, các đề tài trên đều nghiên cứu trên cơ sở quy định BLTTDS năm 2004, BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011. Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một nội dung nào đó của quyền khởi kiện hoặc bình luận về các vụ việc cụ thể liên quan đến quyền khởi kiện. Chẳng hạn nhƣ bài viết “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự” của ThS. Lê Thị Bích Lan đăng tải trên Tạp chí Luật học của 2 Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005); bài viết “Xây dựng quy định pháp lý đảm bảo quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tại toà án” của tác giả Lê Thế Phúc (Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6 năm 2007); “Bàn về điều kiện khởi kiện của các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay” của tác giả Trịnh Huy Tân (Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao số 9/2008); “Về việc rút đơn khởi kiện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự” của ThS Nguyễn Triều Dƣơng (Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 11/2009); “Về điều kiện khởi kiện tranh chấp thƣơng mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong một vụ án cụ thể” của tác giả Ngô Đình Quyến (Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 3/2008); "Quyền khởi kiện và việc xác định tƣ cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần Anh Tuấn (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2008), “Thời hạn giao nộp chứng cứ của đƣơng sự và phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền ( Tạp chí Kiểm sát số 10/2016)... Các công trình nghiên cứu nhìn nhận, giải quyết vấn đề quyền khởi kiện ở một góc độ khác nhau và chủ yếu tập trung nghiên cứu trên cơ sở Luật tố tụng dân sự ( luật hình thức) mà chƣa có công trình nghiên cứu nào toàn diện, chuyên sâu cả về Luật nội dung đến Luật hình thức về chế định quyền khởi kiện, đặc biệt hiện nay khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, nội dung đặc biệt đề cao quyền con ngƣời, đòi hỏi các ngành luật phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, thống nhất với các quy định trong Hiến pháp. Pháp luật dân sự không phải là một ngoại lệ, đặc biệt là Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự 2015 đã đƣợc Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và sẽ có hiệu lực thi hành toàn bộ kể từ ngày 01/01/2017 và nhiều luật chuyên ngành khác cũng đã đƣợc Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành nhƣ Luật hôn nhân và gia đình... Trƣớc tình hình đó, tôi đã chọn đề tài "Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về quyền khởi kiện vụ án dân sự của chủ thể trong pháp luật dân sự. 3 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài * Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ đƣợc những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chƣa hợp lý, chƣa thống nhất trong các quy định hiện hành của pháp luật về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng rõ phạm vi quyền tự do khởi kiện của chủ thể khởi kiện, trách nhiệm cơ quan nhà nƣớc trong việc bảo đảm quyền tự do khởi kiện của chủ thể. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự nhằm đảm bảo quy định thống nhất quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại theo quy định của pháp luật Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự . - Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự, phạm vi quyền khởi kiện và thực thi quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Toà án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý, chƣa thông nhất trong các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện Vụ án dân sự; - Đƣa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện Vụ án dân sự. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quyền tự do khởi kiện Vụ án dân sự của chủ thể và trách nhiệm của Tòa án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể trong thực thi giải quyết nội dung khởi kiện Vụ án dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức dƣới góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới hạn trong phạm vi sau đây: 4 Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự Việt Nam và một số luật chuyên ngành về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tự do khởi kiện vụa án dân sự trong đó tập trung nghiên cứu Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự 2015 và một số luật chuyên ngành khác nhƣ Luật doanh nghiệp, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em......; Đề tài đƣợc nghiên cứu trong giai đoạn BLTTDS 2004 và BLDS 2005 sắp hết hết hiệu lực thi hành trong khi BLTTDS và BLDS 2015 đã đƣợc Quốc hội thông qua và đã có hiệu lực hoặc có hiệu lực một phần. Do vậy luận văn sẽ đi sâu phân tích , đánh giá khoa học, có sự so sánh giữa các quy định của luật cũ và mới, trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành luật BLDS 2005 và BLTTDS năm 2004 để tìm ra những điểm bất cập trong quy định của BLDS và BLTTDS năm 2015. Vấn đề thực thi quyền khởi kiện đang áp dụng thông qua các hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án theo BLTTDS năm 2004 và BLDS năm 2005 và những ngành luật chuyên ngành khác, đề xuất giải pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đƣợc mục tiêu nghiên cứu đề tài trên, tác giả tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác nhƣ phƣơng pháp phân tích hệ thống; phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp so sánh; phƣơng pháp thống kê...v.v. 5. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về quyền tự do khởi kiện trong đó tập trung nghiên cứu nội dung quyền tự do khởi kiện, chủ thể thực hiện quyền khởi kiện và chủ thể trực tiếp giải quyết nội dung khởi kiện theo pháp luật dân sự Việt Nam. Với việc nghiên cứu quyền khởi kiện một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện lần đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về các quy định của pháp luật quyền khởi kiện ở cả luật hình thức và luật nội dung nhằm chỉ 5 ra thực trạng thực thi quyền khởi kiện cũng nhƣ những bất cập, vƣớng mắc trong việc thực hiện pháp luật, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền khởi kiện trong pháp luật dân sự, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do khởi kiện trên thực tế. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, nếu luận văn đƣợc bảo vệ thành công thì sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho cơ quan tƣ pháp trong thực thi Bộ luật Tố tụng dân sự , Bộ luật dân sự năm 2015 và một số luật chuyên ngành. 6. Địa điểm nghiên cứu: Luận văn đƣợc giới hạn phạm vi nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cầu bởi 3 chƣơng: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự Chƣơng 2: Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành Chƣơng 3: Thực tiễn thực thi quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện. 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 1.1.1. Khái niệm quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 1.1.1.1 Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự “ Khởi kiện là hành vi đầu tiên của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự „ [3, tr 230]. Thống nhất với quan điểm trên, theo TS. Hoàng Ngọc Thỉnh thì “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể…Việc thực hiện quyền này của các chủ thể được gọi là khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tố chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác”[4, tr238]. Khởi kiện trƣớc hết là quyền dân sự của các chủ thể, là phƣơng thức mà các chủ thể yêu cầu toà án bảo vệ quyền dân sự cho mình, cho nhà nứớc hoặc ngƣời khác. Quyền dân sự này đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện nó đƣợc thể hiện bằng việc toà án xem xét, thụ lý và giải quyết. Khi Nhà nƣớc ra đời thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đƣợc ghi nhận bằng pháp luật của Nhà nƣớc và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do Nhà nƣớc thiết lập. Theo đó, quyền khởi kiện của cơ quan tổ chức, cá nhân đã đƣợc pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nƣớc quy định bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của mình. Trong cổ luật La Mã, đã có những quy định đầu tiên về quyền khởi kiện của công dân La Mã. Theo đó khi có hành vi xâm phạm quyền tƣ pháp của cá nhân thì ngƣời có quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh việc sử dụng hình thức tự trấn áp, họ còn có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Ngƣời bị vi phạm có thực 7 hiện quyền khởi kiện hay không, điều này pháp luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý chí của ngƣời đó [4, tr 212]. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, quyền khởi kiện đƣợc ghi nhận là một quyền con ngƣời trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ƣớc quốc tế khác. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con ngƣời và suy cho cùng thì quyền khởi kiện là quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội đƣợc pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp pháp của mình đƣợc thực hiện. Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng đƣợc thừa nhận đối với cá nhân đƣợc yêu cầu sự can thiệp của công lý để đạt đƣợc sự tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển thuật ngữ luật học của Pháp thì tố quyền trƣớc công lý là khả năng đƣợc thừa nhận đối với các chủ thể đƣợc cầu viện tới công lý để đạt đƣợc sự tôn trọng các quyền lợi và lợi ích chính đáng. Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp thì thuật ngữ “action” – “tố quyền” đƣợc dịch là quyền tham gia tố tụng theo đó “quyền tham gia tố tụng đối với ngƣời có yêu cầu là quyền đƣợc trình bày về nội dung yêu cầu của mình để Thẩm phán quyết định xem xét yêu cầu nhƣ vậy là có căn cứ hay không có căn cứ; đối với bên bị kiện quyền tham gia tố tụng là quyền đƣợc tranh luận về căn cứ của yêu cầu do bên kia đƣa ra”[4, tr23]. Ở Việt Nam, về phƣơng diện lý luận thì nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh cho rằng “tố quyền tức là có quyền đi kiện”[6, tr23]. TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng định trong Giáo trình Luật tố tụng dân của trƣờng Đại học Luật Hà Nội 1994 rằng “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể của Nhà nƣớc hay của ngƣời khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm”[7, tr109-110]. Khái niệm này dƣờng nhƣ không đề cập tới các việc không có tranh chấp nhƣng nghiên cứu về khái niệm vụ án dân sự trong Giáo trình này” [7,tr6-7], Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 và thực tiễn tố tụng tại Toà án thì có thể khẳng định trong khái niệm trên quyền khởi kiện đƣợc thực hiện đối với cả các việc dân sự không có tranh chấp. 8 Trong lịch sử pháp lý nƣớc ta, có thời kỳ khái niệm quyền khởi kiện đƣợc hiểu theo nghĩa rất rộng và đồng nhất với quyền yêu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo BLTTDS hiện nay. Theo đó, quyền khởi kiện đƣợc hiểu là khả năng Nhà nƣớc cho phép công dân đƣợc yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa BLTTDS 2004, BLTTDS năm 2015 đã tách thủ tục giải quyết vụ án dân sự trƣớc đây thành hai thủ tục tố tụng riêng biệt là thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự nên khái niệm quyền khởi kiện đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp hơn trƣớc đây, quyền khởi kiện vụ án dân sự không còn bao hàm cả quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý hoặc các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động nhƣ trƣớc đây nữa mà quyền khởi kiện vụ án dân sự đƣợc hiểu là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong vụ án dân sự. TheoTS. Phan Chí Hiếu thì: “quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nƣớc, tập thể hay của ngƣời khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm” [7, tr305]. Nhƣ vậy, quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi quyền hạn của mình yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nƣớc thuộc lĩnh vực cơ quan, tổ chức của mình phụ trách khi quyền, lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc có tranh chấp. Các phân tích ở trên cho thấy rằng xét về bản chất thì quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Theo những kết quả nghiên cứu trên thì bản chất của quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Ở đây cần phân biệt khái niệm vụ án dân sự và việc dân sự. Trƣớc khi BLTTDS 2004 đƣợc ban hành đã tồn tại ba khái niệm vụ án dân sự, vụ án kinh tế và vụ án lao động. Khái niệm vụ án dân sự không bao gồm các tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động, kinh doanh, thƣơng mại, Vụ án dân sự chỉ bao gồm 9 những tranh chấp và những việc không có tranh chấp về dân sự và hôn nhân gia đình nhƣ: tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những việc tranh chấp khác; việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết... mà đƣợc tòa án thụ lý giải quyết. BLTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015 đều không đƣa ra khái niệm về vụ án dân sự mà chỉ liệt kê những loại việc nào đƣợc xác định là vụ án dân sự, loại việc nào đƣợc xác định là yêu cầu dân sự, cụ thể tại điều 1 BLTTDS năm 2015 quy định “Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án;”. Nhƣ vậy, có thể hiểu, Vụ án dân sự là các tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật TTDS. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nội dung khởi kiện vụ án dân sự mà không nghiên cứu về yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Chủ thể của quyền khởi kiện là ai? Hay ai là ngƣời có thể thực hiện quyền khởi kiện? Có 2 quan điểm khác nhau về chủ thể của quyền khởi kiện. Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn. Điều 68 khoản 2 BLTTDS năm 2015 quy định: “ Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.” 10 Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực hiện quyền này sẽ làm phát sinh vụ án dân sự tại Toà án. Xét về thực chất thì đây là quyền của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm trong việc bắt đầu việc kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, thông qua việc đệ đơn yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết vụ án dân sự. Đó là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Chính việc khởi kiện của của nguyên đơn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, không có hành vi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự thì không có quá trình tố tụng tiếp theo. Nhƣ vậy, việc xác định quyền khởi kiện của nguyên đơn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tƣ cách của các đƣơng sự khi họ tham gia tố tụng tại Tòa án. Quan điểm thứ hai cho rằng quyền khởi kiện là ngoài quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn còn quyền phản tố (kiện ngƣợc lại) của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập Toà án bảo vệ quyền lợi của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của mình trƣớc khi nguyên đơn khởi kiện vụ án. Nguyên đơn có quyền khởi kiện và bị đơn có quyền phản bác việc khởi kiện của nguyên đơn. Bên cạnh đó, quyền phản tố của bị đơn cũng cần đƣợc pháp luật ghi nhận. Điều này xuất phát từ sự bình đẳng giữa các đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp có mối liên quan đến nhau thì bị đơn có quyền đƣa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập và yêu cầu này có thể đƣợc Toà án xem xét giải quyết trong cùng vụ án với yêu cầu của nguyên đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập khi thoả mãn những điều kiện nhất định. Thực chất của phản tố là một việc kiện ngƣợc lại của bị đơn đối với nguyên đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập nhƣng đƣợc xét cùng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhƣ vậy, xét theo nghĩa rộng về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện thì có thể xem quyền phản tố cũng là quyền khởi kiện nhƣng là quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị đơn đối với nguyên đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập do các yêu cầu này có mối liên hệ nhất định. 11 Cũng theo góc nhìn về sự bình đẳng giữa các đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền lợi của mình thì ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng có quyền đƣa ra yêu cầu độc lập của mình trong vụ án đã đƣợc thiết lập giữa nguyên đơn và bị đơn. Yêu cầu tố tụng này có thể chống nguyên đơn, bị đơn hoặc chống cả nguyên đơn và bị đơn. Bản chất của yêu cầu độc lập này là một yêu cầu tố tụng của ngƣời thứ ba nhằm bảo vệ quyền lợi của mình đang bị tranh chấp hay vi phạm trong một vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn. Khi nghiên cứu về vấn đề này TS. Nguyễn Công Bình cho rằng: “Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn và bị đơn. Thông thƣờng ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhƣng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu không việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ sau đó sẽ gặp khó khăn” [2, tr108]. Xét về bản chất thì quyền phản tố của bị đơn có thể hiểu là quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị đơn, quyền yêu cầu của ngƣời có quyền nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là quyền khởi kiện chống lại cả nguyên đơn và bị đơn hoặc chỉ chống lại nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự. Nhất trí với quan điểm thứ hai về chủ thể quyền khởi kiện, luận văn nghiên cứu chủ thể quyền khởi kiện bao hàm quyền khởi kiện của nguyên đơn, quyền phản tố hay quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị đơn, quyền có yêu cầu độc lập hay quyền khởi kiện chống lại nguyên đơn, bị đơn hay chống cả nguyên đơn, bị đơn của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình khi mà vụ án giữa nguyên đơn và bị đơn đã đƣợc thiết lập. Nhƣ vậy theo pháp luật Việt Nam, khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hay bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước. 12 1.1.1.2 Khái niệm, đặc điểm về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự Wikipedia tiếng Việt “ Quyền tự do „hoặc “ tự do „ là một khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn, hành động theo đúng ý chí và nguyện vọng của chính mình [10].. Có thể hiểu, tự do gồm có hai thành tố quan trọng nhất là tự do nhận thức và tự do hành động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, Ở phƣơng Tây, ngƣời ta cho rằng, tự do là một quyền tự nhiên, là không gian vốn có của mỗi con ngƣời, và do đó, Nhà nƣớc dân chủ là kết quả của sự nhƣợng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ để nhà nƣớc có vốn liếng điều hành xã hội. Từ đó, có thể khẳng định, sự tự nguyện nhƣợng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ nhƣ một hình thức góp vốn chính là bản chất khế ƣớc xã hội. Điều hành đất nƣớc bằng pháp luật, hay các khế ƣớc xã hội chính là điểm ƣu việt của phƣơng thức quản lý theo mô hình dân chủ. Russeau viết “Với khế ƣớc xã hội, con ngƣời mất đi cái tự do thiên nhiên và hạn chế cái quyền đƣợc làm những điều muốn làm mà làm đƣợc; nhƣng mặt khác, con ngƣời thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có” [1, tr46]. Hết thảy con ngƣời khi sinh ra đều bình đẳng, và đƣợc tự nhiên ban cho những quyền không thể phủ nhận, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền này, các nhà nƣớc đƣợc hình thành trên cơ sở sự đồng thuận của các thành viên trong một xã hội. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tự do là một khái niệm rất nhân văn, nó gắn liền với cái Tự nhiên (nói chung) và con ngƣời (nói riêng). [1, tr46] Điều này đƣợc thể hiện trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948 (đoạn 1 lời nói đầu) đã ghi rõ rằng:... thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Ở góc độ quốc gia, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 ghi rằng:“ mọi ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có hể xâm phạm đƣợc, trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc „ những quyền này còn đƣợc thể hiện trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789 và Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam. Có thể hiểu quyền tự do của con ngƣời là quyền tự nhiên, vốn có nhƣng trong khuôn khổ pháp luật của mỗi nhà nƣớc. 13 Quyền tự do khởi kiện có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất: Quyền tự do khởi kiện đƣợc thể hiện ở quyền tự quyết định có khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Giáo sƣ Serge Guinchard – một tố tụng gia đầu ngành của Pháp cho rằng, cần phân biệt các bên đƣơng sự trong vụ kiện với chủ thể của tố quyền, những chủ thể có tố quyền chỉ trở thành đƣơng sự trong tố tụng, kể từ ngày họ thực hiện quyền đi kiện của mình bằng một đơn kiện; ngƣợc lại, ngƣời ta có thể là một bên đƣơng sự trong vụ kiện mà không là chủ thể của tố quyền, đó là trƣờng hợp nguyên đơn kiện nhƣng sau đó bị phủ nhận quyền khởi kiện bằng một bản án, do không có lợi ích trong việc kiện, hoặc trƣờng hợp ngƣời bị đòi ra toà với tƣ cách là bị đơn trong vụ kiện, nhƣng vụ kiện này kết thúc bởi một phán quyết bác bỏ tƣ cách bị đơn của họ[8, tr506]. Để thực hiện đƣợc quyền tự do khởi kiện của mình, chủ thể quyền khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định. Điều kiện đầu tiên phải đƣợc kể đến đó là điều kiện về chủ thể. Chủ thể muốn thực hiện việc khởi kiện thì phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự (NLPLTTDS) và năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS). NLPLTTDS là khả năng pháp luật quy định cho cá nhân, cơ qua, tổ chức có những quyền và nghĩa vụ trọng TTDS. NLPLTTDS đƣợc coi là điều kiện đầu tiên đồng thời là điều kiện cần để một chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, từ đó một chủ thể chỉ có quyền tham gia tố tụng dân sự khi đƣợc pháp luật thừa nhận có NLPLTTDS. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là một phạm trù có liên quan đến yếu tố chủ quan nhƣ khả năng nhận thức, khả năng hành động, ý chí và lý trí, là khả năng của đƣơng sự trong việc tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho ngƣời đại diện tham gia tố tụng. Đối với cá nhân thì năng lực hành vi tố tụng của họ đƣợc xác định trên cơ sở khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân trong việc tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc quy định điều kiện về năng lực hành vi của cá nhân để họ có thể tự mình thực hiện việc khởi kiện là nhằm bảo đảm cho ngƣời có quyền lợi có thể thể hiện ý chí đích thực của mình trong việc bảo vệ quyền lợi trƣớc Toà án. Tuy nhiên, đối với những đƣơng sự có đủ năng lực hành vi để thực hiện quyền khởi kiện nếu vì những lý do khác nhau mà họ không thể thực hiện đƣợc quyền khởi 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan