Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2...

Tài liệu Quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

.PDF
91
172
103

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ GIANG THANH QUYÒN SöA B¶N ¸N S¥ THÈM CñA TßA ¸N PHóC THÈM THEO Bé LUËT Tè TôNG H×NH Sù N¡M 2003 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ GIANG THANH QUYÒN SöA B¶N ¸N S¥ THÈM CñA TßA ¸N PHóC THÈM THEO Bé LUËT Tè TôNG H×NH Sù N¡M 2003 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Giang Thanh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM....................................... 7 1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm ....... 7 1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .................................................................................. 12 1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .......... 13 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 .............................................. 13 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988 .............................................. 14 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .............................................. 16 1.4. Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới ................................................................ 17 Chương 2: QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 ...................................................................... 23 2.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự và sửa tội danh ........................ 23 2.1.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự ...................................................... 23 2.1.2. Quyền sửa tội danh ........................................................................... 29 2.2. Quyền miễn, giảm, tăng và chuyển hình phạt ............................... 32 2.2.1. Quyền miễn hình phạt....................................................................... 32 2.2.2. Quyền giảm hình phạt....................................................................... 35 2.2.3. Quyền tăng hình phạt ........................................................................ 37 2.2.4. Quyền chuyển hình phạt ................................................................... 39 2.3. Quyền sửa bản án sơ thẩm về các quyết định khác ...................... 42 2.3.1. Quyền giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo ............... 42 2.3.2. Quyền sửa về phần bồi thường thiệt hại ............................................ 45 2.3.3. Quyền sửa về xử lý vật chứng và các vấn đề khác ............................ 49 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM................. 51 3.1. Những vi phạm, sai lầm của Tòa án phúc thẩm trong thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản án sơ thẩm ....................................................................................... 51 3.1.1. Sửa tội danh không đúng .................................................................. 52 3.1.2. Giảm hình phạt không đúng .............................................................. 54 3.1.3. Tăng hình phạt không đúng .............................................................. 55 3.1.4. Chuyền hình phạt không đúng .......................................................... 57 3.1.5. Cho bị cáo hưởng án treo không đúng .............................................. 58 3.1.6. Sửa trách nhiệm dân sự không đúng ................................................. 60 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm ................................... 61 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật .................................... 61 3.2.2. Giải pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết công tác xét xử, xây dựng và công bố án lệ ................................................................ 65 3.2.3. Giải pháp tập huấn nghiệp vụ và công tác cán bộ ............................. 71 3.2.4. Các giải pháp khác............................................................................ 75 KẾT LUẬN ................................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 81 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TTHS: Tố tụng hình sự DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm kháng cáo, kháng nghị bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết để có thể thích ứng với những đổi mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị là Nghị quyết quan trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp. Đã có nhiều quy định của pháp luật ra đời thể chế hóa các quan điểm đổi mới của Đảng, trong đó có BLTTHS năm 1988. Đây là BLTTHS đầu tiên thể hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Sau 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung 3 lần, song BLTTHS năm 1988 vẫn có nhiều bất cập, trong đó có những bất cập đối với quy định về Thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Năm 2003, BLTTHS mới được ban hành, tuy đã có những sửa đổi bổ sung song các quy định về thủ tục phúc thẩm nói chung và quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm nói riêng về cơ bản vẫn giống BLTTHS 1988. Do đó, vẫn còn những tồn tại về vấn đề này phát sinh trong thực tiễn mà chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn thi hành. Cụ thể là, quy định về các nội dung của bản án sơ thẩm mà Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa còn chưa đầy đủ, mâu thuẫn với các quy định khác. Thực tế tại các địa phương khác nhau có những ý kiến khác nhau về trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa những nội dung không được quy định trong Điều 249 BLTTHS. Không những thế, hậu quả của việc sửa bản án sơ thẩm còn liên quan tới những vấn đề khác về thẩm quyền xét xử hoặc liên quan tới cả công tác thi hành án hình sự. Vậy cần 1 có nhận thức như thế nào về các nội dung tại Điều 249 BLTTHS, làm thế nào để các sai sót trong bản án hình sự sơ thẩm được sửa chữa khắc phục tại cấp phúc thẩm một cách chính xác, đảm bảo nguyên tắc công bằng và chính sách nhân đạo trong xử lý hình sự? Trong chế định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, quyền sửa bản án sơ thẩm là một quyền rất quan trọng của Tòa án cấp phúc thẩm. Nếu không có quyền này, thì khi các bản án sơ thẩm có sai sót sẽ không được sửa chữa khắc phục kịp thời. Nếu bất kì sai sót nào của bản án sơ thẩm cũng bị hủy để xét xử lại hoặc y án để xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì sẽ vừa gây tốn kém thời gian, kinh phí, vừa không kịp thời bảo vệ được quyền con người và tạo niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Quyền sửa bản án khắc phục được tất cả những điểm hạn chế đó nên cần thiết phải có sự nghiên cứu sâu nội dung này. Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49/NQTW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó chỉ rõ nhiệm vụ là: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp…” và “trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân”. Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Với những lý do trên, cho thấy việc nghiên cứu về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là vấn đề rất cần thiết, góp phần thi hành đúng và thống nhất quy định của Điều 249 BLTTHS và có giải pháp hoàn thiện quy định của BLTTHS về những vấn đề liên quan đến quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi có BLTTHS 1988 ra đời, và sau đó là BLTTHS 2003, các quy 2 định về thủ tục xét xử phúc thẩm là đối tượng nghiên cứu cho nhiều tác giả. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu về thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án, nhưng quyền sửa bản án sơ thẩm mới được giới thiệu và nêu tại các nghiên cứu chung về thủ tục xét xử phúc thẩm, hoặc nghiên cứu chung về quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Các luận án, luận văn nghiên cứu về thủ tục xét xử có: Luận án “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Huyên năm 2002; luận án “Phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn Đức Mai năm 2004; luận án “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Vũ Gia Lâm năm 2008; luận văn “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của Ths. Nguyễn Văn Tiến năm 1997; luận văn “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của Ths. Nguyễn Thị Thu Hồng năm 2010 v.v.. Trước khi có BLTTHS 2003 có một số bài nghiên cứu trên các báo, tạp chí như: Hoàng Thị Sơn “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” và “Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 BLTTHS”, tạp chí luật học số 6/1997 và 5/1999; Nguyễn Nông “Về quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án cấp phúc thẩm”, tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1994; Vũ Gia Lâm “Phạm vi xét xử và quyền sửa bản án sơ thẩm”, Tạp chí luật học số 5/2010; “Hoàn thiện một số quy định về xét xử phúc thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2006; và “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2009. Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về sửa bản án sơ thẩm trong xét xử phúc thẩm theo Bộ luật TTHS năm 2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2006. Ngoài ra còn được đề cập tới ở một số tài liệu khác như Giáo trình luật TTHS của Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS của Viện đại học mở… và các sách chuyên khảo về kĩ năng xét xử. 3 Như vậy, nội dung cụ thể về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm chủ yếu là một phần trong các nội dung nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm của luận án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ. Các nghiên cứu riêng biệt hơn mới chỉ dừng lại ở cấp độ là các nghiên cứu trao đổi trên các báo và tạp chí, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Điều đó càng cho thấy việc nghiên cứu toàn diện về quy định này là rất cần thiết, tạo sự thống nhất trong nhận thức và chính xác trong thực tiễn áp dụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn bao gồm: - Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền sửa bản án sơ thẩm, tìm hiểu quy định này trong lịch sử luật TTHS Việt Nam và pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới; giải thích rõ các quy định của BLTTHS có liên quan đến quyền sửa bản án sơ thẩm, những nội dung của bản án sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa; những lưu ý đối với từng nội dung đó. - Phân tích làm rõ những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm, phân tích những tồn tại hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định đó. - Đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu đã được đặt ra, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau: - Góp phần làm rõ khái niệm chung về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm, rút ra đặc điểm, lịch sử phát triển và so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. - Phân tích đánh giá sâu từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm 4 - Tìm hiểu thực tiễn thi hành quy định quyền sửa bản án sơ thẩm thông qua việc tổng hợp số liệu giải quyết và đánh giá một số bản án sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa. - Đề ra những giải pháp sửa đổi bổ sung và hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sửa bản án sơ thẩm nói riêng và nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm; thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS về quyền sửa bản án sơ thẩm; các công trình, bài viết liên quan đến đề tài của luận văn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định có liên quan trong lịch sử phát triển của pháp luật TTHS của nước ta; nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới, và trọng tâm là nghiên cứu quy định tại Điều 249 của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm và các quy định tại các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nghiên cứu cụ thể các nội dung quy định tại Điều 249 trong mối tương quan phù hợp với các văn bản pháp luật khác như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự v.v.. Đồng thời, luận văn tổng hợp số liệu và phân tích thực tiễn áp dụng Điều 249 của các Tòa án nhân dân trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền. Các giải pháp luận văn đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn cũng tiến hành thu thập số liệu thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm của TANDTC trong những năm gần đây, đồng thời so sánh và giải thích những quan điểm khác nhau đối với các vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn Đây là luận văn nghiên cứu một cách chuyên sâu về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc góp phần nhận thức đúng đắn, thống nhất về nội dung của quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn đưa ra các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật TTHS của nước ta trong thời kì mới. Thông qua việc tổng hợp phân tích số liệu xét xử phúc thẩm, luận văn đưa ra được một cái nhìn tổng thể về thực tiễn thi hành quy định về sửa bản án sơ thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn cũng có thể được tham khảo trong việc xây dựng dự án BLTTHS (sửa đổi) 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm. Chương 2: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM 1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm Trong hệ thống pháp luật của nước ta, nguyên tắc “hai cấp xét xử” đã được đề cập đến ngay trong những văn bản pháp luật đầu tiên là sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, và sau đó lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Luật tổ chức TAND năm 1960. Phúc thẩm vụ án hình sự là cấp xét xử thứ hai đối với vụ án hình sự, có nhiệm vụ trực tiếp xét xử lại hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Phúc thẩm có vai trò rất quan trọng, một mặt đây là giai đoạn kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để phát hiện sai sót và kịp thời sửa chữa, mặt khác thông qua việc xem xét lại để kịp thời bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhờ có thủ tục phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm buộc phải thận trọng và tuân thủ nghiêm các quy định về tính hợp pháp và có căn cứ pháp luật khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Tòa án cấp có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của nước ta là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm, bao gồm: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa phúc thẩm TANDTC, Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự trung ương. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, Tòa án cấp phúc thẩm có những quyền hạn nhất định. Quyền ở đây được hiểu là thẩm quyền, là cái mà luật pháp cho phép đối với một tổ chức hoặc cá nhân. Để hiểu khái niệm về Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc 7 thẩm, trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là thẩm quyền của của Tòa án cấp phúc thẩm. Theo từ điển luật học thì thẩm quyền của Tòa án là “quyền xem xét để kết luận và định đoạn một vấn đề pháp luật” [27, tr.890]. Như vậy, thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng phải bao gồm 2 yếu tố cần và đủ là “xem xét” và “kết luận, định đoạt” (quyết định). Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Tòa án chỉ có thể kết luận và định đoạt sau khi đã tiến hành xem xét, và sau khi xem xét phải đưa ra được kết luận và định đoạt thì việc xem xét mới có ý nghĩa. Tiến sĩ Nguyễn Đức Mai đưa ra khái niệm về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là “toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự do các Tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm, mà bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo chúng tôi đây là một khái niệm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh. Khi sửa bản án sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã làm cho một phần hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm trở nên khác với ban đầu, hay nói cách khác là làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm. Như vậy có thể rút ra khái niệm: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là quyền mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét quyết định các vấn đề cụ thể nhằm làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. BLTTHS năm 2003 quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: 1. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; c) Giảm hình phạt cho bị cáo; 8 d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. 2. Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. 3. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại [24, Điều 249]. Qua nghiên cứu quy định trên cho thấy quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được quyền sửa các nội dung của bản án sơ thẩm có sai sót liên quan đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, hình phạt, điều luật áp dụng đối với bị cáo, xử lý vật chứng, không sửa các sai sót liên quan đến thủ tục tiến hành tố tụng. Điều này xuất phát từ lý do các sai sót về thủ tục tố tụng là sai sót ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền, lợi ích chính đáng của đương sự và bị cáo, làm cho quá trình xác định sự thật của vụ án không khách quan toàn diện và đầy đủ. Sai sót về thủ tục tố 9 tụng là những gì đã xảy ra không thể lặp lại được nên không thể sửa lại được. Nếu không sai lầm vi phạm nghiêm trọng thì chỉ rút kinh nghiệm, rút ra bài học, nếu là sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì chỉ có thể hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại. Thứ hai, phạm vi quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm được quy định theo hướng mở rộng quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo, hạn chế quyền sửa bản án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo. Hầu như tất cả các vấn đề liên quan tới trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo Tòa án cấp phúc thẩm đều có thể xem xét và sửa theo hướng có lợi cho bị cáo. Điều kiện để Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng này được quy định khá mở rộng nhưng cũng không quá lỏng lẻo để tránh việc biến cấp phúc thẩm trở thành cấp sơ thẩm thứ hai. Ngoài yêu cầu chung là có kháng cáo kháng nghị (kể cả kháng cáo, kháng nghị theo hướng không có lợi cho bị cáo) thì không có bất kì một hạn chế nào khác trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa phúc thẩm. Ngoại trừ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và trường hợp giảm mức bồi thường thiệt hại, các trường hợp khác Tòa án phúc thẩm đều xem xét và áp dụng đối với cả bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. Điều 241 BLTTHS quy định nguyên tắc, “Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”, tuy nhiên “nếu xét thấy cần thiết thì toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Điều 241 BLTTHS không quy định thế nào là trường hợp “cần thiết” và hiện nay cũng chỉ có Thông tư liên ngành số 01TANDTC-VKSNDTC/TTLN ngày 08/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS giải thích “trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Một điểm nữa là Tòa án 10 có thể xem xét sửa bản án sơ thẩm có lợi cho cả bị cáo bị kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng. Đối với việc sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo, Khoản 3 Điều 249 BLTTHS 2003 quy định rất rõ ràng về giới hạn Tòa án phúc thẩm chỉ được sửa tăng nặng ba vấn đề, đó là: Tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn và tăng mức bồi thường thiệt hại. Điều kiện để được sửa theo hướng này cũng bị ràng buộc với nhiều yêu cầu chặt chẽ hơn như: Nội dung kháng cáo, kháng nghị phải có yêu cầu Tòa án xem xét tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo; Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát không được thay đổi nội dung kháng cáo kháng nghị làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; Mặt khác nếu người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo kháng nghị vắng mặt tại phiên tòa có lý do chính đáng thì Tòa án có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Đặc biệt, Tòa án phúc thẩm không xem xét tăng nặng đối với bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. Quy định trên buộc người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát phải thận trọng trong việc kháng cáo hoặc kháng nghị, buộc Tòa án cấp phúc thẩm phải thận trọng trong việc quyết định sửa án sơ thẩm theo hướng bất lợi. Thứ ba, Tòa án cấp phúc thẩm không sửa bản án sơ thẩm từ tuyên bố bị cáo không có tội thành có tội. Xuất phát từ nguyên tắc chung là “bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội thành có tội sẽ làm mất đi quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo đối với tội danh mới bị tuyên trong bản án phúc thẩm. 11 Tóm lại, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm là một quy định rất quan trọng. Tòa án cấp phúc thẩm làm thay đổi các nội dung của bản án hình sự sơ thẩm có sai sót để kịp thời sửa chữa khắc phục sai lầm trong công tác xét xử, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và đương sự, đồng thời góp phần hạn chế tình trạng oan sai trong xử lý hình sự. 1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm chính là có kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Kháng cáo là việc những người tham gia tố tụng do pháp luật tố tụng quy định đề nghị Toà án cấp trên trực tiếp xét lại bản án và quyết định của tòa án cấp sơ thẩm đang trong thời hạn kháng cáo nhằm bảo đảm cho họ có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tòa án xử lí vụ án [13, tr.192]. Theo quy định tại Điều 231 BLTTHS và Nghị quyết số 05/2005/NQHĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS, chủ thể có quyền kháng cáo gồm có: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo; người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ; người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội. Thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 234 BLTTHS: Đối với những người có mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc 12 phản đối toàn bộ hay một phần nội dung bản án, quyết định của Toà án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án [27, tr.418]. Chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp với Toà án đã ra bản án sơ thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm Lịch sử pháp luật TTHS nước ta trong từng giai đoạn có những quy định khác nhau về quyền sửa bản án sơ thẩm. 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 Ngay sau khi giành được chính quyền, đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Sắc lệnh số 33c/SL ngày 13/9/1945, sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946, sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946.... quy định việc thành lập Tòa án quân sự và thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 và sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 nêu rõ việc phân định thẩm quyền của Tòa án quân sự, trong đó đối với các vụ án hình sự thì Tòa án sơ cấp vừa có thẩm quyền xử sơ thẩm và chung thẩm, Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền xử chung thẩm những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo, Tòa thượng thẩm có thẩm quyền xử chung thẩm những án kháng cáo sơ thẩm của Tòa đệ nhị cấp. Riêng đối với các vụ án phản cách mạng hoặc vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự thì giai đoạn 1946 - 1957 không xét xử đến cấp thứ hai, bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật và được thi hành ngay (sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 và sắc lệnh số 156/SL ngày 17/11/1950). 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan