Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện ba vì...

Tài liệu Quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện ba vì – thành phố hà nội hiện nay

.PDF
72
175
141

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ NGỌC BÍCH QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÀ HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vũ Thị Ngọc Bích MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1 Chương 1. QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN VÀ QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ................................................ 1.1. Quyền làm chủ của Nhân dân ............................................................................ 7 1.2. Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ........................ 16 Chương 2. THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ – THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................................................................ 2.1. Một số nét khái quát về huyện Ba Vì .............................................................. 23 2.2. Quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Ba Vì ... 30 2.3. Những kết quả đạt được và hạn chế trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì ...................... 35 Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN BA VÌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................................ 3.1. Không ngừng nâng cao nhận thức, năng lực thực hiện quyền làm chủ cho cán bộ và Nhân dân ....................................................................................................... 53 3.2. Phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân ................................................ 55 3.3. Định kỳ tổng kết thực tiễn gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ................................................................................................ 60 3.4. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp xã có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu việc thực hiện, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới .................................................. 62 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 68 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bài học kinh nghiệm dẫn đến sự thành công của Đảng là luôn coi trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân, công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Dân chủ nói chung và quyền làm chủ của Nhân dân nói riêng không chỉ là bản chất của chế độ xã hội mà còn là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Nhân dân ta xây dựng. Có phát huy cao độ quyền làm chủ của Nhân dân thì mới động viên được tất cả lực lượng của Nhân dân tham gia vào việc phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Thực hiện tốt quyền làm chủ của Nhân dân là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội nước ta, phát huy được mọi nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp của dân tộc, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong điều kiện hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạng chỉ đạo cả nước thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì điều quan trọng phải biết phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động được sức dân tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương trình mang tính tổng hợp, sâu, rông, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hôi, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu của công cuộc xây dựng nông thôn mới là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân nông thôn thông qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, trực tiếp góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm cốt lõi trong xây dựng nông thôn mới là tổ chức phong trào 1 quần chúng rộng lớn, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân, có sự tham gia tích cực chủ động của mỗi người dân, mỗi cộng đồng dân cư, cần phát huy quyền làm chủ và sự đóng góp của mỗi người dân, dựa vào dân để xây dựng nông thôn mới. Trong xây dựng nông thôn mới, Nhân dân vừa là chủ thể thực hiên, vừa là chủ thể hưởng thụ thành quả của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Do vậy, quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là giải pháp cơ bản, quyết định sự thánh công xây dựng nông thôn mới. Trong những năm qua, huyện Ba Vì là một trong những điểm sáng trong xây dựng nông thôn mới của thành phố Hà Nội. Sau 5 năm thực hiện Chương trình số 02-CT/TU của Thành Uỷ Hà Nội về “Xây dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp, từng bước nâng cao đời sống nông dân”, Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Huyện đã đạt được những kết quả nhất định và có những chuyển biến rõ nét. Việc triển khai, thực hiện, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới đã bước đầu đạt được những kết quả tích cực, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội, cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới được nâng lên; công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ được chú trọng và thực hiện có hiệu quả, việc thực hiện Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới đã huy động, tạo được sự đồng thuận cao, phát huy được sức mạnh tổng hợp của đại đa số Nhân dân trong quá trình triển khai, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương về các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng, liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhân dân; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện tăng, số hộ nghèo giảm, an sinh xã hội được đảm bảo, các điều kiện vè giáo dục, y tế, văn hóa được nâng lên, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. 2 Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy còn nhiều việc cần phải làm, nhiều vấn đề nảy sinh phải giải quyết. Việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới còn một số hạn chế, tồn tại về lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền, sự vào cuộc của các tổ chức chính trị ở cấp cơ sở; về nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân về quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới; về thực hiện vai trò, trách nhiệm của cán bộ, Đảng viên, thực hiện, phát huy vai trò quyền làm chủ của chính quần chúng Nhân dân, về tình trạng vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, về công tác kiểm tra, giám sát, sơ, tổng kết việc thực hiện. Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở về quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới còn chưa đầy đủ, thiếu vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương. Công tác vận động Nhân dân trong các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể Nhân dân nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng nông thôn mới còn hạn chế. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới tại một số nơi còn nặng về hình thức, phong trào chưa đi sâu vào bản chất vấn đề, một bộ phận của Nhân dân còn thờ ơ, lãnh đạm, chưa thích cực thực hiện quyền làm chủ của mình trong thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới. Kết quả thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì chưa xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, việc xác định đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, góp phần tích cực để huyện Ba Vì thực hiện thành công Chương trình xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới được đặt ra một cách bức thiết, làm tiền đề cho những năm tiếp theo. Do đó, tác giả chọn vấn đề “Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Chính trị học. 3 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn Vấn đề quyền làm chủ của Nhân dân từ lâu đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học, những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này của các cá nhân, tập thể được công bố. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu cụ thể sau: - GS.TS Dương Xuân Ngọc, Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vấn đề đặt ra và một số giải pháp. Tạp chí thông tin lý luận số 9, năm 2000; - GS.TS Hồ Văn Thông, Bàn về một số vấn đề về nông thôn nước ta hiện nay, Nxb chính trị Quốc gia năm 2002; - GS Hoàng Chí Bảo, Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb chính trị Quốc gia năm 2010; - Vũ Quỳnh Lê, Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học, ĐHKHXH&NV năm 2010. Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với việc tăng cường, củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở, cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả cũng đã phân tích, lý giải, yêu cầu và chỉ ra phương hướng và giải pháp nhất định nhằm nâng cao chất lượng việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với xu hướng của thời đại. Đó là những kết quả bước đầu, là tư liệu quý giá để tác giả tham khảo, kế thừa để tiếp tục làm căn cứ nghiên cứu đề tài. Vấn đề quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới là vấn đề đặc biệt quan trọng trong công cuộc đổi mới đang được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta chú trọng triển khai thực hiện. Vì vậy, nghiên cứu đề tài Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội, tác giả mong muốn có đóng góp làm sáng tỏ thêm về lý luận và thực tiễn; trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng và giải pháp thiết thực để phát huy cao quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, góp phần vào sự thành 4 công của Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích một số vấn đề lý luận về quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới. - Phân tích quá trình thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội hiện nay 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-1016 (từ khi triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới). 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luân văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền làm chủ của Nhân dân. Bên cạnh đó, luận văn kế thừa, chọn lọc những kết 5 quả nghiên cứu của một số nhà khoa học đã được công bố về vấn đề quyền làm chủ của Nhân dân. 5.2. Cơ sở thực tiễn Dựa vào kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn của tác giả tại địa phương, nơi tác giả nghiên cứu. Dựa vào kết quả các báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện của địa phương, nơi tác giả nghiên cứu 5.3. Phương pháp nghiên cứu Từ góc độ chính trị, xã hội; vận dụng các phương pháp logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh, đồng thời sử dụng phương pháp chuyên gia để thực hiện luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đánh giá khách quan những kết quả và hạn chế, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì từ khi triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới đến năm 2015. - Đề xuất những giải pháp cụ thể, phù hợp nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới của huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. 6 Chương 1 QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN VÀ QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1. Quyền làm chủ của Nhân dân Làm chủ là nguyện vọng thiêng liêng, thiết tha và muôn thuở của con người. Con người sinh ra cần phải có quyền làm chủ. Thời tiền sử, con người sống trong cộng đồng mà ở đó, tập thể hầu như chi phối hoàn toàn, ở đó có sự làm chủ một cách hết sức giản đơn, trình độ làm chủ của con người hết sức thấp kém. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, ở buổi bình minh của lịch sử nhân loại, trước sức mạnh huyền bí của thiên nhiên hoang sơ, để tồn tại và phát triển, con người buộc phải gắn bó với nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh cộng đồng. Và con người, ngay từ buổi đầu ấy đã sử dụng sức mạnh cộng đồng để thực hiện quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà Nhân chủng học người Mỹ đầu thế kỷ XIX L.Moocgan đã nhận xét: “Toàn thể các thành viên của Thị tộc đều là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau, họ đều có những quyền cá nhân ngang nhau - cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những quyền ưu tiên nào cả, họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của Thị tộc” [28, tr.136]. Thoát khỏi thời kỳ mông muội, con người tiến xa hơn cùng với việc xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước. Trong các xã hội đó, các giai cấp bóc lột thay nhau chia phần, chiếm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất. Quyền làm chủ thuộc về họ, còn giai cấp lao động bị tước đoạt về tư liệu sản xuất và bị tước luôn quyền làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Chính điều đó đã dấn đến các cuộc đấu tranh của Nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị để giành quyền làm chủ cho bản thân. Chính cuộc đấu tranh cách mạng ấy của nô lệ chống chủ nô, nông nô chống phong kiến đã thúc đẩy lịch sử tiến lên. Trong xã hội tư bản, quyền làm chủ của mọi người được ghi nhận và thừa nhân trong hệ thống pháp luật. Song thực tế, trong xã hội tư bản, “chủ nghĩa tự do” 7 cho toàn xã hội bị thay thế bằng chủ nghĩa mất tự do cho giai cấp bị trị. Do vậy, sự tha hóa quyền lực của Nhân dân là tất yếu phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đúng như nhận xét của C.Mác: Chế độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư bản biến thành tự do của Nhân dân lựa chọn những người thống trị mình. Tuyệt nhiên không phải là sự lựa chọn những người đại diện cho lợi ích bản thân mình. Lênin trong tác phẩm “ Nhà nước và Cách mạng” đã nói: Chế độ đại nghị Tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho Nhân dân) với chế độ quan liêu (chống Nhân dân)” [29, tr.135]. Như vậy, theo Lênin, hình thái chính trị của nhà nước tư sản chính là chế độ dân chủ tư sản đầy gian dối và cạm bẫy. Dân chủ tư sản vì thế, không thể là mục đích cuối cùng mà loài người hướng tới. Đến chủ nghĩa tư bản, một lực lượng xã hội mới là giai cấp công nhân hiện đại ra đời dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiên phong đó, đội ngũ đông đảo Nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ mới, đem lại ấm no, hạnh phúc và bình đẳng cho tất cả mọi người lao động, trả lại địa vị chính đảng của họ trong xã hội. Kế tục tư tưởng của những nhà lý luận Mácxít, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến quyền làm chủ của Nhân dân, coi đó là mục tiêu xuyên suốt và cơ bản nhất của cuộc cách mạng. Người nói: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được, Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” [26,293]. Theo Người, dân chủ có nghĩa là Dân là chủ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của Nhân dân là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng Nhân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác – Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn, Người đã nâng tư tưởng này lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhân dân là người giữ vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi các nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, 8 lựa chọn người đứng đầu nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ thân thể, tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập,… trong khuôn khổ quy định của luật pháp. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sinh sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ các ngành, các cấp đều là “đầy tớ” của dân, do dân cử ra và bãi miễn. Dân là gốc của nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì, đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Tóm lại, Nhân dân là lực lượng xây dựng đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy Nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình khi họ được giáo dục, khi họ được nhận thức rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải động viên – giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và nếu Nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Người dân chỉ có thể thực hiện quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân và vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng 9 đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Hơn 70 năm lãnh đạo Nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta bao giờ cũng coi dân chủ là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của nước ta. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), phát huy cao độ quyền làm chủ của Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để Nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược, đó cũng là bản chất, là đặc trưng của chế độ mới. Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ “lấy dân làm gốc”, “coi dân là trọng” vốn dĩ đã hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Nhân dân ta từ mấy ngàn năm trước cũng đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta lãnh đạo Nhân dân đấu tranh thực hiện Cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân. Hai mục tiêu dân tộc và dân chủ gắn bó chặt chẽ với nhau từ buổi khởi đầu sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nội dung dân chủ trong giai đoạn cách mạng trước chủ yếu là đem lại ruộng đất cho dân cày – thành phần đông đảo nhất trong dân cư. Sau cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng ta lãnh đạo đất nước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới – cách mạng XHCN. Thực hiện cách mạng XHCN chính là giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở trình độ hoàn thiện và toàn diện hơn. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN là một trong những mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN, và cũng là một trong những đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước ta, quan điểm đó tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa từng bước trong nghị quyết Đại hội V của Đảng. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội mở đầu cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, đổi mới nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc, kiên định chủ 10 nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh của nhân loại, đảm bảo quá trình đổi mới diễn ra theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ… Bởi vậy, trên thực tế, quyền làm chủ của Nhân dân đã từng bước khơi dậy và phát huy. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nhấn mạnh: “Xã hội mà do Nhân dân ta xây dựng là một xã hội do Nhân dân lao động làm chủ”, và “Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về Nhân dân”, “Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ truong, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của Nhân dân “làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở’ [15,43]. Việc ban hành Chỉ thị 30/CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 29/1998/NĐ-CP và Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở phường, thị trấn là sự cụ thể hóa quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được xem là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này, nội dung dân chủ lại càng được coi trọng. Dân chủ đã được đặt trong những mục tiêu của con đường đi lên XHCN ở nước ta, đó là: “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [16,22]. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”, Đảng ta chỉ rõ: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực 11 hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực”; “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”. Như vậy, nội dung dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân luôn là nội dung quan trọng và nhất quán trong toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng ta từ trước đến nay, và được phát triển, nâng cao thêm qua các gaii đoạn cách mạng. Dân chủ gắn liền với “dân sinh, dân trí”, dân chủ vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng nói chung, của công cuộc đổi mới nói riêng. Qua gần 30 năm đổi mới, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, quyền làm chủ của Nhân dân đã được phát huy thêm một bước, nhờ vậy mà tiềm năng to lớn về vật chất, tinh thần và trí tuệ của Nhân dân được khơi dậy. Dân chủ đã đem lại cho Nhân dân không phải những giá trị trừu tượng mà bằng những kết quả cụ thể, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ trở thành nhu cầu khách quan đi liền với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; dân chủ cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp. Vì thế, chỉ có mở rộng dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh quyền làm chủ của Nhân dân, chống tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng, củng cố Đảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội… mới có thể tạo động lực to lớn xây dựng và phát triển đất nước Nhận thức được những vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội. Việc thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân được tiến hành dưới nhiều cấp độ, nhiều hình thức. Trong đó, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung, ở phường – xã nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa lâu dài. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013, đây là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng của đất nước. Hiến pháp thể hiện những nội dung mới quan trọng nhằm thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); quy định đầy đủ, rõ nét 12 về chủ thể là Nhân dân trong Hiến pháp, về quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân. Thứ nhất, ngay Lời nói đầu Hiến pháp 2013 thể hiện: "... Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" đã thể hiện rõ trách nhiệm của nhân dân trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời thể hiện đất nước Việt Nam là do chính nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ thể quan trọng trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết hoa, đây không phải đơn thuần là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý nghĩa của một chủ thể quan trọng của đất nước theo tư tưởng của Bác Hồ. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân, Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân, Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra, Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên, Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Chính vì lẽ đó mà từ Nhân dân được viết hoa là thể hiện đầy đủ và sâu sắc tư tưởng của Bác Hồ về vai trò của Nhân dân. Thứ hai, khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định:" Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình", đây là điểm bổ sung mới quan trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân 13 giao phó trách nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì vậy, Đảng phải chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình. Thứ ba, tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", quy định đa dang hơn về thực hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ của Nhân dân. Thứ tư, lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 2003 ghi nhận quyền con người, quyền cơ bản của công dân tại chương II, đặt trang trọng sau chương I quy định về chế độ chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài việc thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong Hiến pháp, còn thể hiện các cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Thứ năm, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thể hiện: "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" đã khẳng định quyền sở hữu của Nhân dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện Nhân dân để sở 14 hữu và thống nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân dân ủy quyền. Thứ sáu, Điều 65 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế" thể hiện trách nhiệm của lực lượng vũ trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là phải bảo vệ Nhân dân là một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thứ bảy, Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, thảo luận và biểu quyết thông qua Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định... Quốc hội có trách nhiệm quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập và bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đứng đầu các cơ quan này nhằm đảm bảo sự vận hành và thực thi hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã hội theo theo sự ủy quyền của Nhân dân cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Tóm lại, Quyền làm chủ của Nhân dân là quyền của Nhân dân tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước đều phải thông qua Nhân dân, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra theo quy định của pháp luật. Nội dung cốt lõi quyền làm chủ cuả 15 Nhân dân là mọi quyền lực thuộc về Nhân dân, là sự kiểm soát của Nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và thực thi các quyết định chung của chính thể nhà nước. Nguyên tắc nền tảng quyền làm chủ của Nhân dân là tập trung – dân chủ, mọi công dân đều có quyền tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả những vấn đề chung của xã hội và được hưởng quyền tự do, bình đẳng, đồng thời có trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với xã hội, cùng với những điều kiện để thực hiện quyền làm chủ đó. 1.2. Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã quy định những vấn đề cơ bản về thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân ở cấp xã liên quan đến việc xây dựng, thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, quy định, thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân phải công khai để Nhân dân được biết, những nội dung Nhân dân được bàn và quyết định, những nội dung mà Nhân dân được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, những nội dung Nhân dân kiểm tra, giám sát, quy định hình thức Nhân dân thực hiện các quyền được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra; quy định trách nhiệm của chính quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân và Nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Cơ chế để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được quy định dưới hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; trong đó, ở cấp cơ sở, dân chủ trực tiếp là quan trọng hơn cả. Quy trình “biết, bàn, làm, kiểm tra” là quy trình phản ánh quá trình từ nhận thức đến hành động, qua kiểm tra, đánh giá lại kết quả hành động, rồi tiếp tục nhận thức và hành động với kết quả cao hơn. Đó cũng là sự thể hiện của quy trình lãnh đạo, quản lý của chế độ do Nhân dân làm chủ, từ khâu thu thập thông tin, hình thành chủ trương, chính sách, đến kiểm tra, rồi tiếp tục thu thập thông tin mới cho một chu trình quản lý mới. Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới thực chất là phải được quán triệt trên cơ sở lấy dân làm gốc, dân làm chủ thể, thực hiện triệt để phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ thành quả. 16 Khái niệm “dân” ở đây, cần được nhận thức trong mối quan hệ được quy định bởi cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Mặt khác, “Nhân dân làm chủ” là mục tiêu của sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu phát huy quyền làm chủ, sáng tạo của Nhân dân một cách rộng rãi. Đảng lãnh đạo nhưng dân phải được biết, được bàn, được tham gia ý kiến và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, phải cùng tham gia kiểm tra cán bộ, đảng viên. Đây là đối tượng quản lý của cơ quan Nhà nước nhưng dân phải được biết, được bàn, được tham gia quản lý và phải cùng kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan và cán bộ Nhà nước, được hưởng các lợi ích từ hoạt động Nhà nước. Nội dung cơ bản Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, đó là: Nhân dân được biết, được thông tin đầy đủ, kịp thời mọi vấn đề về xây dựng nông thôn mới, được bàn, thảo luận xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện; được làm, được thực hiện các nội dung tiêu chí về nông thôn mới; được kiểm tra, giám sát việc thực hiện; được đánh giá kết quả và hưởng thụ thành quả của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ thành quả” không chỉ là khẩu hiệu dân vận hoặc phương châm thực hiện chủ trương, đường lối mà phải trở thành một định chế về quyền làm chủ trong xây dựng nhà nước XHCN. Nhân dân có quyền được biết, được thông tin đầy đủ, kịp thời mọi vấn đề về xây dựng nông thôn mới. “Dân biết” trong ý nghĩa này, không phải là vấn đề nhận thức một cách chung chung; không phải là toàn bộ vấn đề về dân trí. “Biết” ở đây là quyền được thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, trung thực. Qua sự nhận biết từ thông tin, dân biết được quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó mới hiểu, mới có cơ sở để bàn, để làm và kiểm tra. Do vậy, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và hệ thống chính trị cơ sở là phải thông báo thường xuyên, đầy đủ đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới, những vấn đề kinh tế, xã hội của địa phương mình một cách sâu rộng. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan