ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LỪ VĂN TUYÊN
QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘIQUA CÁC BẢN HIẾN
PHÁP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫnkhoa học: PGS.TS.CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI-2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LỪ VĂN TUYÊN
QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘIQUA CÁC BẢN HIẾN
PHÁP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫnkhoa học: PGS.TS.CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI-2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.Vậy tôi viết Lời cam đoan
này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi cóthể bảo vệ Luận văn.Tôi xin chân thành
cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOANLừ Văn Tuyên
MỤC LỤC
TrangTrang phụ bìaLời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ
HỘI VÀ HIẾN PHÁP............................................6
1.1.Khái quát về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội...................................6
1.1.1. Quan niệm về quyền con người...........................................................6
1.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người...................................12
1.2. Hiến pháp và quyền con người.......................................................22
1.2.1. Khái niệm về Hiến pháp.....................................................................22
1.2.2. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người.............................24
Chương2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUYỀN KINH TẾ , VĂN HÓA, XÃ
HỘI QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM........29
2.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp trước Hiến pháp
2013.................................................................................29
2.1.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1946.......................29
2.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1959.......................32
2.1.3. Quyền kinh tế, vănhóa, xã hội trong Hiến pháp 1980.......................35
2.1.4. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1992.......................38
2.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013.................45
2.2.1. Quyền kinh tế.....................................................................................46
2.2.2. Quyền văn hóa....................................................................................48
2.2.3. Quyền xã hội......................................................................................50
2.2.4. Một số nhận xét về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp
2013...........................................................................................51
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI
TRONG HIẾN PHÁP 2013..................................66
3.1. So sánh các quy định về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013
với các bản Hiến pháp trước và quy định của Luật nhân quyền quốc
tế.................................................66
3.1.1. Quyền kinh tế.....................................................................................66
3.1.2. Quyền văn hóa....................................................................................71
3.1.3. Quyền xã hội......................................................................................75
3.2. Một số kiến nghị về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp
2013.................................................................................79
3.2.1. Về bảo hiểm xã hội.............................................................................82
3.2.2. Bảo đảm an sinh xã hội với một số nhóm yếu thế trong xã hội.........86
KẾT LUẬN..................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................110
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắtTên/ cụm từ đầy đủ
CEDAWCông ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đỗi xử với phụ nữ
(Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women)
CRCCông ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights of the Child, CRC)
ICCPRCông ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị(International Covenant on
Civil and Political Rights)
ICESCRCông ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (International
Covenant on Economic, Social and Cultural Rights)
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization)
UDHRTuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (Universal Declaration of Human Rights)
UPRCơ chế đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review)
WHOTổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tàiQuyền con người là một phạm trù đa diện, kết tinh những giá trị
cao đẹp trong nền văn hóa của tất cả các dân tộc. Đây không chỉ là “ngôn ngữ
chung” mà còn là “sản phẩm chung”, “mục tiêu chung” và “phương diện chung”
của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con
người, mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới.Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên
thế giới, các quyền con người đều được ghi nhận trong Hiến phápở những mức độ
khác nhau. Như vậy, với hiệu lực pháp lý tối cao của nó, Hiến phápđang đóng vai
trò là công cụ pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con
người ở các quốc gia.Ở nước ta, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức
cuộc bầu cử Quốc hội để thông qua Hiến phápghi nhận các quyền tự do, dân chủ
của nhân dân. Người chi rõ: “Nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân
ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có Hiến phápdân
chủ”[5].Như vậy trong tư tưởng của Người, quyền con người luôn gắn liền với
Hiến pháp, Hiến phápchính là công cụ để đảm bảo quyền con người. Vì vậy, không
chỉ trong việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp1946 –bản Hiến phápđầu tiên của
nước ta mà các bản Hiến phápsau này đều có những quy định về các quyền con
người.Cho đến nay Việt Nam đã có năm bản Hiến pháp: Hiến pháp1946, Hiến
pháp1959, Hiến pháp1980, Hiến pháp1992, và hiện nay là Hiến pháp2013.Mặc dù
ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau,nhưng cả năm bản Hiến pháptrên đềuđãcó
quy định về quyền con người, đặc biệt là những quy định về nhóm quyền kinh tế,
văn hóa, xã hộiphù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.Hiến phápnăm 1992 được đánh
giá là Hiến phápcủa thời kỳ đầu đổi mới, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, phản ánh
bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến
phápnăm 1992 cũng đã ghi nhận các quyền con người, quyền công dân cơ bản
trong đó cócác quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.Góp phần quan trọng thể chế hóa
đường lối của Đảng. Tuy nhiên, sau 20 năm thi hành, Hiến phápnăm 1992 đã bộc
lộ một số điểm hạn chế không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, tại kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII đã nhất trí thông qua Nghị quyết số
06/2011/QH13ngày 06 tháng 8 năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung Hiến phápnăm
1992 và thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến phápnăm 1992.Hội nghị lần thứ 5
của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI diễn ra vào tháng 5/2012 đã nêu
định hướng sửa đổi Hiến phápnăm 1992 trong đó chỉ rõ cầntiếp tục phát huy nhân
tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người,
bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dânTại kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khóa XIII, Hiến phápnước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được
thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013. Hiến phápmới được ban hành có một điểm
nhân dân cả nước rất đồng tình ủng hộ và coi đây là một điểm sáng.Đó là hiến
chương về quyền con người.Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài “Quyền
kinh tế,văn hóa, xã hộiqua các bản Hiến phápViệt Nam” sẽ góp phần làm sâu sắc
hơn cơ sở lý luận và thực tiễn quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hộitrong
Hiến pháp, qua đó góp phần hiểu sâu hơn về việc hiến định và sự phát triển của
nhóm quyền quan trọng này ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tàiQuyền con người là một phạm trù đa diện, đòi hỏi
cách tiếp cận và nghiên cứu đa ngành, liên ngành, song tiếp cận và nghiên cứu luật
học là một hướng chính. Các hoạt động nghiên cứu,giảng dạy về quyền con người
ở Việt Nam những năm gần đây đang phát triển mạnh mẽ. Hiện đã có một số công
trình nghiên cứu về quyền con người nói chungnhư: Quyền con người, quyền công
dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu thuộc Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993; Chu Hồng Thanh, Quyền con người và luật quốc
tế về quyền con người,NXB Chính trị quốc gia, 1997;Tường Duy Kiên,Đảm bảo
quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam, Hà Nội,2004; Phạm Văn
Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con người,NXB Khoa học xã hội, 2006...Quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa là một trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận và bảo
đảm trong luật pháp quốc tế và pháp luật của quốc gia. Các quyền này được ghi
nhận ngay trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948, sau đó được cụ thể
hóa tại một trong hai Công ước cơ bản nhất về nhân quyền là Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966.Việt Nam cũng đã tham gia Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa từ rất sớm (năm1982). Mặc dù vậy,
do một số lý do khách quan và chủ quan, việc nghiên cứu về quyền con người nói
chung, về các quyền kinh tế,văn hóa, xã hộinói riêng ở nước ta trong thời gian qua
vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc hiểu biết chưa đầy đủ hoặc sai lệch về nhóm quyền
này.Đối với việc nghiên cứu các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người, hiện
chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu như: Trần Thị Hòe, Vai trò của nhà
nước trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay,2002; Nguyễn Duy
Sơn, Quyền phát triển của con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Trung tâm
Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005; Tường Duy
Kiên, Trần Thị Hòe, Bảo đảm quyền của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, 2007; Trần Thị Hòe, Vũ
Công Giao, Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt
Nam, Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa luật –
ĐHQG Hà Nội, 2011...Tuy nhiên, các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu góc độ nhất
định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung và nhóm quyền này trong
pháp luật nói riêng, chưa có đề tài nào đi sâu phân tích và so sánh nội dung các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháptrên thế giới và các bản Hiến
phápcủa Việt Nam. Luận văn này sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu-Phân tích so sánh các quy định về các quyền kinh tế, văn
hóa,xã hội trong các bản Hiến phápcủa Việt Nam.-Đánh giá sự phát triển của các
quyền hiến định vềkinh tế, văn hóa, xã hộiở Việt Nam với Công ước về các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.-Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật về các quyền kinh tế, văn hóa,xã hội trong Hiến phápvà pháp
luật Việt Nam.
3.2.Phạm vi nghiên cứuLuận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích quy định về quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội trong các Hiến phápViệt Nam và trongCông ước về các
quyền kinh tế,xã hội, văn hóanăm 1966 của Liên hiệp quốc.
4.Phương pháp nghiên cứu luận vănLuận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng
các phương pháp luận duyvật biện chứng, duy vật lịch sửcủa Chủ nghĩa Mác –Lê
nin, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng pháp
luật và nhânquyền.Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận
văn này bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh...
5.Những nét mới của luận vănLuận văn làm rõ mối quan hệ giữa Hiến phápvới
quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế,văn hóa, xã hội. Đánh giá vai trò
của Hiến pháptrong việc bảo vệ các quyền con người.Luận văn cũng nêu và phân
tích hệ thống các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người được các Hiến
phápViệt Nam ghi nhận và bảo vệ. Trên cơ sở đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế
về quyền con người, luận văn nêu ra những đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ
pháp luật về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam.
6.Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận vănKết quả nghiên cứu là một bản luận
văn từ 80-150 trang.Luậnvăn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc sửa đổi,
bổ sung Hiến phápvà là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học, đặc biệt là chuyên ngành pháp
luật về quyền con người và chuyên ngành luật Hiến pháp.
7.Kếtcấu của luận vănNgoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo
và Phụ lục, nội dung đề tài được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đềlý luận về quyền kinh tế, văn hóa, xã hộivà Hiến pháp
Chương 2: Sự phát triển củacác quyền kinh tế,văn hóa, xã hộiqua các bản Hiến
phápViệt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị về quyền kinh tế, văn hóa, xã hộitrong Hiến
pháp2013.
Chương1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀQUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA,XÃ
HỘIVÀHIẾN PHÁP
1.1. Khái quát về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
1.1.1. Quan niệm về quyền con người
1.1.1.1.Nguồn gốc về quyền con ngườiKhát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con
người là cốt lõi của khái niệm quyền con người. Nó coi cá nhân con người là trọng
tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một hệ thống toàn cầu giá trị phổ biến nhằm
hướng đến những giá trị cao quý của cuộc sống và tạo ra một khuân khổ để xây
dựng hệ thống quyền con người, được các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ.
Ý tưởng về nhân phẩm con người đã có từ thời xa xưa đã được hình thành từ rất
sớm trong lịch sử nhân loại, dưới các hình thức khác nhau, trong tất cả các nền văn
hóa và tôn giáo.Trong thời kỳ cổ đại, các nhà chính trị, tư tưởng, tôn giáo đã có
những tư tưởng, giáo luật thể hiện sự tôn trọng phẩm giá con người, bảo vệ con
người, đặc biệt là những nhóm yếu thế (phụ nữ, trẻ em, người già, người khuyết
tật....) đề cao sự bình đẳng...Đây có thể coi là những tư tưởng đầu tiên của nhân
loại có tính hệ thống và nội dung rõ ràng về quyền con người.Quyền conngười gắn
liền với lịch sử loài người. Đó là những sản phẩm của điều kiện lịch sử kinh tế -xã
hội nhất định và chịu sự chi phối của các cơ sở kinh tế -xã hội đó. Tuy nhiên, do
tính độc lập tương đối của tư tưởng, quan niệm về quyền con người còn phụ thuộc
một phần quan trọng vào sự phát triển của tư duy về xã hội nói chung, đặc biệt là
tư duy triết học,chính trị, của mỗi thời đại nóiriêngNhìn lạilịch sử, các quốc gia
trên thế giới cũng đã hình thành và ban hành pháp luật làm phương tiện cai trị, các
văn bản pháp luật từ thời cổ đại thông qua các quy định một phần thể hiện các giá
trị quan trọng về lịch sử, văn hóa, pháp lý nhưng một phần cũng phản ánh nhận
thức quan niệm về công bằng, giá trị của nhân phẩm, và quyền lợi ích chính đáng
của con ngườiCóthể kể đến như Luật Hammurabi, Luật Manu, Luật Kautilya, Luật
Asoka...Ví dụ trong Luật Hammurabi là văn bản luật cổ nhất của nhân loại còn
được bảo tồn tốt. Bộ luật này được ban hành vào khoảng thập niên 1760 TCN, Bộ
luật thể hiện tư tưởng đề cao pháp luật,coi pháp luật là phương tiện hữu hiệu để
bảo đảm các quyền con người, vì vậy mà vua xứ Babylonlà Hammurabi (18101750 TCN) đã nói rằng mục đích của việc ban hành đạo luật cổ nối tiếng này là để:
“...ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu”[30]. Bộ luật quyđịnh nhiều hình phạt
đối với những tội vi phạm tự do ngôn luận, vu khống người vô tội, hay những hành
vi xâm phạm quyền sở hữu. Đặc biệt tư tưởng mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật còn được thể hiện rất rõ nétsức mạnh của hình phạt, khi được thực thi một
cách công bằng tương ứng với mức độ phạm tội và bất chấp kẻ bị chừng phạt là
con vua hoặc kẻ thù, là bảo vệ xã hội này và xã hội sau.Trong những giai đoạn sau
này, tư tưởng đề cao pháp luật với việc bảo đảm quyền con người cũng được sự
phát triển bởi nhiều nhà tư tưởng nối tiếng của nhân loại, và được minh chứng
bằng sự ra đời của ngày càng nhiều các văn bản pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế về các quyền tự do của con người, quyền con người thực sự trở thành vấn
đề mang tính chất toàn cầu và dần được thể chế hóa toàn diện, có tính hệ thống vào
pháp luật và đời sống chính trị quốc tế, từ Đại hiến chương Magna Carta (the
Magna Carta, 1251), Bộ luật về các quyền (the Bill of rights, 1689) của nước Anh;
Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân (the Declaration of the
Rights of Man and of the Citizen, 1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (the
Declaration Independence, 1766) và Bộ luật về các quyền (the Bill of Rights,
1789/1791) của nước Mỹ cho đến Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền conngười
năm 1948 và hệ thống đồ sộ hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người do
Liên Hợp Quốcvà các tổ chức quốc tế khác thông qua từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Tất cả đã cho thấy pháp luật đã có một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
quyền con người.Có hai trường phái trái ngược nhau về nguồn gốc của nhân quyền
mà đôi khi chi phối khá mạnh mẽ quan điểm và cách thức thực hiện quyền con
người của các quốc gia. Trường phái thứ nhất -những người theo thuyết về quyền
tự nhiên (natural rights)-cho rằng nhân quyền là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi
cá nhân từ khi sinh ra đều đã được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ là con người. Do đó,
các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà
nước nào. Xuất phát từ thuyết pháp quyền tự nhiên, không một chủ thể nào, kể cả
các nhà nước, có thể ban phát hay tùy tiện tước bỏ các quyền con người. Ngược
lại, trường phái thứ hai -những người theo thuyết về quyền pháp lý(legal rights)
-cho rằng, quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có của con
người mà nó chỉ nảy sinh khi các nhà nước quy định trong pháp luật. Xuất phát từ
thuyết này, phạm vi, giới hạn của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của
tầng lớp thống trị và bị chi phối bởi các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa...của các xã hội.Thực tế cho thấy, quan điểm cực đoan phủ nhận
hoàn toàn bất cứ thuyết nào kể trên đều không phù hợp, bởi lẽ nếu không được thể
chế hóa vào pháp luật thì các quyền tự nhiên của con người không thể được thực
hiện; song nếu cực đoan hóa vai trò của nhà nước, của pháp luật sẽ dẫn đến tùy
tiện, lạm dụng, vi phạm các quyền tự nhiên của con người.Kể từ khi Liên Hợp
Quốcchính thức thừa nhận quyền con ngườivào năm 1948, với sự ra đời của Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người,và nhiều văn kiện chính trị, pháp lý quốc
gia về nhân quyền đều thừa nhận nguồn gốc tự nhiên song cũng nhấn mạnh vai trò
của nhà nước và pháp luật trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, từ đóquyền
con người đã phát triển như một khuân khổ đạo đức, chính trị, pháp lý và như một
định hướng nhằm phát triển thế giới tự do khỏi sự sợ hãi và tự do làm điều mong
muốn.Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 đã
nhấn mạnh: “Việc thuần nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể
tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng
và hòa bình trên thế giới” [9].Như vậy trong lời nói đầu của Tuyên ngôn, quyền
con người được hiểu là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tách rời, không
thể chuyển nhượng được của cá nhân. Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về
quyền con người mà nói về nội hàm đưa ra các quyền chính trên cơ sở sự đồng
thuận của đông đảo các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc.
1.1.1.2.Khái niệm quyền con ngườiNgày nay, quyền con người được thừa nhận là
một khái niệm toàn cầu như được ghi nhận trong tuyên bố của hội nghịthế
giớiWien (Áo)về quyền con người năm 1993 và các nghị quyết của Liên Hợp
Quốcđãđược thông qua nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người (1948-1998).Tuy nhiên cho đến nay cách hiểu về
quyền con người vẫn chưa có sự thống nhất, Một mặt, đang còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Mặt khác, quyền con
người được xem dưới nhiều góc độ khác nhau như: triết học, đạođức, chính trị,
pháp luật...Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những
thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm tất cả các thuộc tính
của quyền con người.
Tùy vào tính chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà quyền con
người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế,
định nghĩa phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của văn phòng Cao ủy Liên Hợp
Quốcvề quyền con người (OHCHR). Theo định nghĩa này:Quyền con
người(human rights)là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệcác cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động (actions) hoặc sựbỏmặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sựđược phép (entitlements) và tựdo cơ bản (fundamental freedoms) của con
người[39, tr.8].Liên quan đến các khái niệm trên, cũng cần lưu ý, thuật ngữ human
rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt)
hoặc nhân quyền (theo Hán-Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền”
chính là “quyền con người”[37], Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là hai từ
đồng nghĩa, và hoàn toàn có thể sử dụngtrong nghiên cứu, và hoạt động thực tiến
về quyền con ngườiMộtsố tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, định nghĩa về quyền con
người cũng không hoàn toàn giống nhau nhưng xét chung quyền con người được
hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và
bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”[14,tr.37].Như
vậy, trong hai định nghĩa trên thì quyền con người là những quyền vốn có của con
người, không phân biệt quốc tịch, nơi cư trú, giới tính, nguồn gốc, hay quốc gia,
dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ hay bất kỳ một thân phận nào khác. Mọi người
được hưởng các quyền của mình một cách bình đẳng không có sự phân biệt đối xử.
Những quyền này có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời.
1.1.1.3.Đặc tính của quyền con ngườiTheo nhận thức chung của cộng đồng quốc
tế, quyền con người có các tính chất cơ bản là: “tính phổ biến, tính không thể
chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn
nhau”[14,tr.41]Các quyền con người đều khôngthể phân chia và có tính phụ thuộc
lẫn nhauthể hiện ở chỗ bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm
trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.Ví dụ, để đảm bảo các quyền bầu
cử, ứng cứ (các quyền dân sự chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt
quyền kinhtế, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền
được chăm sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng...vì nếu không, các quyền bầu
cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ bệnh tật hay mù chữ. Vì vậy
mà các quyền con người được đảm bảo theo quy định của pháp luật quốc gia, các
điều ước, cam kết, thỏa thuận hoặc tập quán quốc tế. Vàluật quốc tế cũng đặt ra với
các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, và thực hiện các quyền con ngườicốt
yếu để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.Xét bản chất và từ lịch sử phát triển
của quyền con người, có thể khẳng định nhânquyền là sự kết tinh những giá trị
nhân văn cao đẹp nhất trong nền văn hóa của mọi dân tộc. Đó là sản phẩm chung
của toàn nhân loại, không phải là sáng kiến hay phát minh riêng của bất kỳ giai
cấp, dân tộc, quốc gia hay khu vực
nào.Từnhữngtưtươngvêquyênconngươixuâthiêntưrấtlâutronglịchsử nhân loại, thể
hiện qua những bộ luật, thư tịch cổ của nhiều quốc gia và
trongcackinhđiểncủatấtcảcáctôn giáo lớn trên thế giới. ĐếnthơikyPhucHưng,
những tư tưởng đó được kế thừa, phát triển thành các học thuyết về quyền bởi một
số nhà tư tưởng nổi tiếng ở châu Âu. Những học thuyết này tác
động đến sự ra đời của các văn kiện pháp lý nổi tiếng về nhân quyền, bao gồm
Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của nước Pháp (1789) và một loạt Hiến phápở châu Âu và Bắc Mỹ.
TừđầuthêkyXIX, nhânquyênbắtđầuđượcđềcậptrongmộtsốđiềuước của Hội Chữ
thập đỏ-Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, HôiQuôcliênvaTôchưcLaođôngquôctê, tuy
nhiên, chỉ sau sự ra đời của Liên Hợp Quốc(1945), vấn đề nhân quyền mới nổi lên
thành một vấn đề chi phối một cách ngày càng mạnh mẽ và toàn diện đời sống
chính trị quốc tế. Một ngành luật quốc tế mới –luật nhân quyền quốc tếđã ra đời từ
sau 1945, do những nỗ lực của Liên Hợp Quốc. Hiện nay, ngành luật này đã bao
gồm hàng trăm văn kiện, đề cập đến một phạm vi rộng lớn các quyền áp dụng
chung cho mọi cá nhân và các quyền đặc thù áp dụng riêng cho một số nhóm xã
hội nhất định. Ở thời điểm hiện tại, có thể khẳng định rằng, không một dân tộc,
quốc gia nào trên thế giới có thể đứng ngoài sự tác động của luật nhân quyền quốc
tế.Xem xét sự phát triển của vấn đề nhân quyền trong lịch sử nhân loại, năm 1977,
Karel Vasakđưa ra ý tưởng về ba “thêhêquyềnconngười”(generationsof human
rights)[14, tr.58],trongđóthêhêthưnhât(bắt đầu từ các thế kỷ XVII-XVIII) thể hiện
ởsựghinhậncacquyêndânsư, chínhtrị; thế hệ thứ hai (bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX)
đánh dấu bằng việc thừa nhận cácquyênkinhtê, xãhội, văn hóa; cònthêhêthứba(bắt
đầu từ giữa thế kỷ XX) với đặc trưng là mở rộng sự ghi nhận các quyền tập
thể,tiêubiêunhưquyêntưquyêtdântôc,quyênphattriên, quyênđươcsôngtronghoabinh.
1.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người
1.1.2.1. Khái quátchung về quyền kinh tế, văn hóa, xã hộiNhư đã nêu ở phần trên,
nhóm quyền kinh tế,văn hóa, xã hộilà thế hệ quyền thứ hai, hướng vào việc tạo lập
các điều kiện và sựđối xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã
hội.Quyền kinh tế,văn hóa, xã hộicó một vị trí rất quan trọng trong hệ thống quyền
con người. Do vậy trongquá trình nghiên cứu về quyền con người, chúng ta không
thể đi sâu nghiên cứu quyền kinh tế, văn hóa, xã hộinhư một bộ phận cơ bản, thiết
yếutrong tổng thể quyền con người. Về lịch sử pháp điển hóa quyền con người, các
tiêu chuẩn quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã hộiđược coi là ra đời muộn hơn
các quyền dân sự, chính trị. Tuy nhiên, về lịch sử nhân loại nói chung, các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hộiđược quan tâm đề cập đồng thời thậm chí là sớm hơn các
quyền dân sự chính trị. Bởi điều đó thể hiện ở khát vọng giải phóng con người khỏi
đói rét, dịch bệnh...được phản ánh trong nhiều học thuyết, tôn giáo chủ
yếu.Quyềnkinh tế, văn hóa, xã hội được ghi nhận trong trong pháp luật của nhiều
quốc gia thời kỳ Cổ -Trung đại thông qua những quy định về sự bảo vệ nhà nước
và cộng đồng đối với nhóm cư dân yếu thế trong xã hội.Theo dòng chảy của lịch
sử, chúng được đề xướng và vận động mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX, và bắt đầu
được quan tâm bởi một số Chính phủ kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Các quyền tiêu biểu thuộc nhóm quyền này bao gồm: quyền có việc làm, quyền
được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở...Động lực chính
thúc đẩysự hình thành của nhóm quyền này được cho là từ cuộc khủng hoảng của
xã hội tư bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thếkỷ XX, dẫn tới tình cảnh khốn khổ của
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Trong bối cảnh đó, những
người theo chủ nghĩa tự do mới đã đưa ra ý tưởng cải tổ các xã hội tư sản nhằm
giảm bớt những bất công xã hội và khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Do tác động của cuộc đấu tranh này, một số nhà nước tư sản đã ban hành những
chính sách về phúc lợi xã hội để cải thiện đời sống của người dân. Một ví dụ điển
hình trong số đó là chính sáchxã hội của thủ tướng Đức Bismarck. Trên cơsở
Tuyên ngôn Keider (1881), nước Đức dưới sự lãnh đạo của Bismarckđã thiết lập
một hệ thống bảo trợ xã hội thống nhất trên toàn quốc mà trọng tâm là bảo hiểm xã
hội. Từ năm 1919, Hiến phápcủa nước này đã quy định quyền được bảo hiểm xã
hội trong các trường hợp già yếu, bệnh tật...Có hai sự kiện tác động hết sức quan
trọng đến sự phát triển của nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự kiệnthứ nhất là
sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới –nước Nga Xô viết
vào năm 1917. Ngay từ Hiến pháp1918, Nước Nga Xô viết đã ghi nhận các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hộicơ bản của con người như quyền có việc làm, quyền học
tập, quyền được chăm sóc y tế...Các quyền này tiếp tục được khẳng định, mở rộng
và bổsung, trở thành một trong những nội dung chính của các Hiến phápnăm 1924,
1936, 1977 của Liên Xô (tương tự là trong Hiến phápcủa các nước xã hội chủ
nghĩa). Sự kiện thứhai là việc thành lập hai tổ chức liên chính phủ quốc tế lớn là
Hội Quốc liên và Tổ chức Lao động quốc tế, hai tổ chức này,đặc biệt là Tổ chức
Lao động quốc tế đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các quyền về lao
động, việc làm của người lao động[14,tr.60].Cùng với hệ thống quyền con người
nói chung, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hộiđược chính thức pháp điển hóa trong
luật quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, với việc Liên Hợp
Quốcthông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và đặc biệt
là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Trong vấn đề
này, sự đóng gópcủa hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa là hết sức to lớn. Chính
do sự đấu tranh kiên quyết và kiên trì của phe các nước xã hội chủ nghĩa mà đứng
đầu là Liên Xô trên diễn đàn Liên Hợp Quốctrong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã
buộc khối các nước tư bản chủ nghĩa phải nhượng bộ, dẫn đến việc Đại hội đồng
Liên
Hợp Quốcthông qua cả hai công ước về các quyền dân sự, chính trị và các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa cùng vào năm 1966 –mà hiện đóng vai trò là hai điều ước
nền tảng của luật nhân quyền quốc tế.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản các quyền kinh tế, văn hóa, xã hộicơ bản trong luật nhân
quyền quốc tếCác quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội tạo thành ba bộ phận có mối
liên kết vớinhau trong mối quan hệ tổng thểcủa một nhóm quyền, đồng thời, tất cả
các bộ phận nàylại có mối liên kết với một nhóm các quyền về dân sự và chính
trị.Trên thực tế, hiện vẫn còn có những tranh luận xung quanh hệ thống các quyền
con người được gọi là các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, bởi lẽ một số quyền con
người (tùy theo bối cảnh và hoàn cảnh) có thể xếp vào nhiều hơn một nhóm.Xét ở
góc độ pháp điển hóa, các quyền và tự do này đầu tiên được ghi nhận trong Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), sau đó, được tái khẳng
định và cụ thể hóa trong nhiều văn kiện quốc tếkhác mà đặc biệt là Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) (được Đại hội đồng Liên Hợp
Quốcthông qua vào năm 1966).Dựa trên cách tiếp cận liên kết mà theo đó các
quyền kinh tế, văn hóa, và xã hộiđược chia thành ba nhóm, cụ thể như sau:-Nhóm
quyền kinh tế (economic rights), bao gồm:a) Quyền được hưởng và duy trì tiêu
chuẩn sống thích đángb) Quyền lao động-Nhóm quyền xã hội (social rights), bao
gồm:c) Quyền được hưởng an sinh xã hội.d) Quyền được hưởng sức khỏe về thể
chấtvà tinh thấn.-Nhóm quyền văn hóa (cultural rights), bao gồm:e) Quyền giáo
dụcf) Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của
khoa học.Cũng cần lưu ý rằng, để phục vụ mục đích nghiên cứu và trong quá trình
áp dụng, một số quyền thuộc các nhóm ở trên đôi khi còn được chia tách thành
những quyền khác cụ thể hơn.Dưới đây là khái quát nội dung cốt lõi của những
quyền này.a) Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đángQuyền được
hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng hàm nghĩa việc đáp ứng nhữngnhu cầu
tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở vàchăm sóc y tế, v.v...cũng như được cải thiện không
ngừng điều kiện sống. Trong đó quan trọng nhất là quyền có đủ lương thực, thực
phẩm và quyền có nhà ở thích đáng.Quyền này được ghi nhận tại Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người, trong đó có nêu rằng: Mọi người đều có quyền được
hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân
và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụxã hội cần
thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn
phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách
quan vượt quá khả năng đối phó của họ[32, Điều 25]Ngoài ra quyền này còn được
ghinhận tại Điều 11 ICESCR, Điều 27, Công ước quyền trẻ em và một số văn kiện
khác. Quyền này cũng đồng thời được ghi nhận trong một số văn kiện nhân quyền
khu vực (ví dụ, Khoản 1 Điều 12 Nghị định thư bổ sung Công ước của Châu Mỹ
về quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa).Uỷ ban giám sát
ICESCR đã giải thích nội hàm của quyền có mức sống thích đáng trong các Bình
luận chung số 4 (năm 1991), số 7 (năm 1997), số 12 (năm 1999), số 14 (năm 2000)
và số 15 (năm 2002).b) Quyền lao động, việc làmQuyền về lao động, việc làm là
một nội dung quan trọng trong hệ thống các quyền kinh tế, xã hội cơ bản của con
người. Quyền này bao gồm các khía cạnh như quyền có việc làm, tự do lựa chọn
nghề nghiệp, được trả lương công bằng, xứng đáng, được bảo đảm các điều kiện
lao động an toàn, tôn trọng nhân phẩm...Trước khi được ghi nhận trong các Điều
6,7,8 của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR), quyền
này được đề cập trong nhiều công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế. Một số khía
cạnh của quyền này, cụ thể như vấn đề cấm lao động cưỡng bức, còn được đề cập
trong các điều ước quốc tế khác về quyền con người của Liên Hợp Quốcnhư Công
ước về cưỡng bức lao động năm 1930; Công ước về trả công bình đẳng giữa lao
động nam và lao động nữ cho mộtcông việc có giá trị như nhau năm 1957; Công
ước vê chính sách việc làm năm 1964; Công ước vềquyền dân sự chính
trịnăm1966;c)Quyền được hưởng an sinh xã hộiNội dung cơ bản của quyền được
hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội bao gồm các khía cạnh: chăm sóc sức
khỏe và trợ cấp cho người lao động và gia đình khi gặp khó khăn; trợ cấp tàn tật và
bảo đảm phúc lợi cho người lao động khi cao tuổi, nghỉ hưu, bệnh tật hoặc bị tai
nạn khi làm việc. Đối tượng được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội là tất cả
mọi người, trong đó đặc biệt chú trọng đến những người cao tuổi, bệnh tật, thất
nghiệp, những người góa bụa và trẻ mồ côi.Quyền được hưởng an sinh xã hội được
quy định trong UDHR đãnêu rằng: “...mọi người đều có quyền được hưởng an sinh
xã hội...”[32, Điều 22]; Điều 9ICESCR có nêu một cách ngắn gọn rằng, “các quốc
gia thành
18viên Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội,
kể cả bảo hiểm xã hội” [19, Điều9]; Điều 26, Công ước về quyền trẻ em;Điều
11,Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và nhiều điều
ước quốc tế khác.d)Quyền được hưởng sức khỏevề thể chất và tinh thầnSức khỏe
được hiểu bao gồm cả về thể chất và tinh thần ở mức độ cao nhất có thể được. Trên
thực tế có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, ví dụ như đói
nghèo, dịch bệnh, môi trường sống, dịch vụ y tế, vệ sinh cá nhân...Do đó, trách
nhiệm bảo đảm quyền về sức khỏe không chỉ thuộc về nhà nước mà còn về các cá
nhânVới ý nghĩa như vậy, trong những năm gần đây, quyền được bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Ngày 11 tháng 5 năm
2000, Uỷ ban Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã thông qua khuyến
nghị chung về vấn đề này. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 49 của Uỷ ban nhân quyền
LiênHợp Quốcngày 22 tháng 4 năm 2002 cũng đã thông qua Nghị quyết về nhiệm
vụ của Báo cáo viên đặc biệtvề quyền được những tiêu chuẩn cao nhất cho sức
khỏe, thể chất và tinh thần của tất cả mọi người.Thực tế, quyền được hưởng tiêu
chuẩn cao nhất về sức khỏe mang ý nghĩa là một quyền cơ bản của con người lần
đầu tiên được đề cập trong văn kiện thành lập của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO),
sau đó được pháp điển hóa trong UDHR, theo đó“mọi người có quyền được hưởng
một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏevà phúc lợi của bản thân và gia
đình về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần
thiết...Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”
[32, Điều 25]Quy định của Điều 25 UDHR sau đó được cụ thể hóa trong các Điều
7,11,12 ICESCR; Điều 10,12,14 CEDAW, Điều 24 CRC, Điều 5 Công ước quốc tế
về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Tuyên bố Viên và Chương
trình hành động thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai
năm 1993. Ngoài ra, quyền về sức khỏe còn được ghi nhận trong một số văn kiện
khi vực về quyền con người, chẳng hạn như Hiến chương xã hội châu Âu năm
1961 sửa đổi (Điều 11), Hiến chương châu Phi về quyền con người và các quyền
của các dân tộc năm 1981 (Điều 16), Nghị định thư bổ sung Công ước Châu Mỹ về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1988 (Điều 10)...e)Quyền được giáo
dụcQuyền này đầu tiên được đề cập trongĐiều 26 UDHR, trong đó nêu rõ:Mọi
người đều có quyền được học tập, Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ởcác bậc tiểu
học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và
dạy nghề phải mang tính phổ thông và giao dục đại học hay cao hơn phải theo
nguyên tắc công bằng chobất cứ ai có khả năng.Mục tiêu của giáo dục, trong đó
nêu rõ: Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về nhân cách và thúc
đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo dục cũng phải
nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các
dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như phải nhằm đẩy mạnh các
hoạt động của Liên Hợp Quốcvề duy trì hòa bình. Theo Khoản 3 Điều này, cha mẹ
có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cái họ[32, Điều 26].Điều
26 UDHR được cụ thể hóa trong các Điều13 và 14 ICESCR. Điều 13 ICESCR đề
cập đến quyền được giáo dục nói chung, theo đó, các quốc gia thành viên Công
ước thừa nhận quyền của mọi người được học tập. Các quốc gia nhất trí rằng giáo
dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm nhằm
tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người. Các quốc gia
cũng nhất trí rằng giáo dục cần giúp mọi người tham gia hiệu quả vào xã hội tự do,
thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc và các nhóm
về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt
động duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc.Liên quan đến Điều 13 ICESCR, Uỷ ban
về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã giải thích một cách khá toàn diện và chi tiết về
quyền này trong Bình luận chung số 13 (năm 1999). Theo văn kiện này, mọi hình
thức giáo dục, cho dù là công lập hay tư thục, chính quy hay không chính quy, đều
phải hướng tớinhữngmục tiêuđược xác định trong Điều 13 (Khoản 1) ICESCR.
Mặc dù mức độ và cách thức thực hiện quyền này phụ thuộc vào điều kiện hiện tại
của mỗi quốc gia thành viên, song mỗi quốc gia cần bảo đảm giáo dục dưới mọi
hình thức và ở tất cả các cấp.Điều 14 cụ thể hóa vấn đề quyền phổ cập giáo dục
tiểu học, theo đó, mỗi quốc gia thành viên. Công ướcmà lúc trở thành thành viên
chưa thể bảo đảm thực hiện được việc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí trong
phạm vi lãnh thổ nước mình hoặc các cùng lãnh thổ khác thuộc quyền tài phán của
nước mình, cam kết, trong vòng hai năm sẽ lập ra và thông qua một kế hoạch hành
động chi tiết, nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc giáo dục tiểu học phổ cập và
miễn phí cho mọi người trong một khoảng thời gian hợp lý đã được ấn định trong
kế hoạch đó.Liên quan đến Điều 14 ICESCR, Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn
hóađã giải thích thêm trong Bình luận chung số 11 (năm 1999). Theo Uỷ ban, yêu
cầu bắt buộc nêu trong nội dung của quyền này hàm ý không một bậc phụ huynh,
người giám hộ pháp lý hoặc quốc gia nào có thể chối bỏ trách nhiệm đảm bảo cho
trẻ em có thể tiếp cận giáo dục ở bậc cơ sở. Yêu cầu miễnphí hàm ý giáo dục cơ sở
phải luôn rộng mở cho mọi trẻ em và không được yêu cầu trẻ em hay các bậc phụ
huynh, ngườigiám hộ pháp lý phải đóng bất kỳ một khoản học phí nào. Việc quy
định một số khoản phí gián tiếp (ví dụ như thu lệ phí xây dựng mà được ngụy trang
dưới hình thức tình nguyện đóng góp, hoặc quy định mua và mặc đồng phục có giá
cao của nhà trường....) là vi phạm yêu cầu này.f) Quyền được tham gia vào đời
sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa họcQuyền này đầu tiên được
đề cập trong Điều 27 UDHR. Theo Điều này:Mọi người có quyền tự do tham gia
vào đời sống văn hóa của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ
những tiến bộ khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa
học. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát
sinh từ bất kỳ sang tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác
giả[32, Điều 27]Điều 15 ICESCR cụ thể hóa nội dung Điều 27 UDHR, theo đó,
các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận mọi người đều có quyền:a) Được
tham gia vào đời sống văn hóa; b) Được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và
các ứng dụng của nó; c) Được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh
- Xem thêm -