Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận 10 –...

Tài liệu Quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận 10 – thành phố hồ chí minh

.PDF
88
292
116

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN TRUNG TÍNH QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN TRUNG TÍNH QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS. TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI – 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................... 8 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự ....................................................................................................... 8 1.2. Chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo...................................................................... 21 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền kháng cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự ................................................................................ 24 Chương 2 : THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ......... 33 2.1. Quy định của pháp luật về chủ thể và phạm vi kháng cáo....................... 33 2.2. Quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo ........................................ 36 2.3. Quy định của pháp luật về thủ tục thực hiện quyền kháng cáo ............... 44 2.4. Một số quy định khác về quyền kháng cáo ............................................. 48 Chương 3 : THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TẠI QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ....................................................... 56 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh .................................... 56 3.2. Các giải pháp đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo .............................. 69 KẾT LUẬN ................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tàỉ Có thể nói, quyền con người là thành quả của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là một trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh trong thời đại ngày nay. Ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thực tế là thể hiện của một Nhà nước nhân dân, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Các quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận về pháp lý, trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của Nhà nước. Quyền kháng cáo là một quyền cơ bản của người tham gia tố tụng, đây là cách thức để người tham gia tố tụng có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình trước những phán quyết không hợp pháp, không có căn cứ của Tòa án cấp sơ thẩm. Bảo vệ và nâng cao quyền kháng cáo cũng góp phần bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Việt Nam đang ra sức xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước mà trong đó quyền con người đươc thừa nhân, tôn trọng và bảo vệ. Vì vậy, bảo đảm quyền còn người nói chung và quyền kháng cáo nói riêng là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, quyền kháng cáo được ghi nhận từ lâu và không ngừng được hoàn thiện, mở rộng nhằm đảm bảo quyền con người của người tham gia tố tụng, về cơ bản các quy định về quyền kháng cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện quyền này trên thực tế, đảm bảo được ý nghĩa thực sự của nó. 1 Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự hiện nay, nhiều quy định về quyền kháng cáo đã dần bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế cũng như những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng mà đặc biệt là đối với bị cáo. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về quyền kháng cáo cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo đối với bị cáo là một nhu cầu tất yếu khách quan trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã được xây dựng với nhiều thay đổi quan trọng, trong đó quyền kháng cáo của bị cáo được nâng cao hơn. Cùng với việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được thể hiện trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quvền đang được đẩy mạnh, việc nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành các quy định về quyền kháng cáo, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những nhu cầu đó, để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam, tác giả chọn đề tài “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 10 – Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kháng cáo là một chế định quan trọng trong Tố tụng hình sự, do đó về vấn đề này có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu. Như : Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Võ Ngọc Triều (2014) năm 2014, Trường đại học Luật 2 Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” (2015) của tác giả Lê Thị Thùy Dương, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến quyền kháng cáo. Tuy nhiên các công trình hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác trong Tố tụng hình sự Việt Nam, hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo trên phạm vi địa phương nhất định, có đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau nên kết quả nghiên cứu có thể khác nhau khi liên hệ với thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu, tiếp cận quyền kháng cáo bị cáo trong Tố tụng Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ là một quyền tố tụng, nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận, đồng thời tổng kết đánh giá qua các vụ án hình sự đã đưa ra xét xử trên thực tế, xem xét quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo là điều cần thiết trong gia đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu luận văn là từ việc nghiên cứu lý luận, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền kháng cáo và thực tiễn thi hành các quy định này trong thực tiễn xét xử trong phạm vi xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Toà án nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích các điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, từ đó có kết luận, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự. 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm : - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự. - Nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về quyền kháng cáo của bị cáo. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh - Đưa ra các giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo; các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền kháng cáo và thực tiễn thi hành các quy định về quyền kháng cáo trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đồng thời để phù hợp với mục đích, đối tượng nghiên cứu, tác giả tập trung vào một số vấn đề sau: - Những quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về quyền kháng cáo của bị cáo và một số quy định về quyền kháng cáo theo pháp luật Tố tụng hình sự quốc tế và một số nước trên thế giới. - Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo và việc đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo của các cơ quan có thẩm quyền từ thực tiễn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây. 4 - Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo, tập trung ở việc hoàn thiện các quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Tác giải vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lê Nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, về quyền con người; Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm : - Phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh dùng để làm rõ về mặt lý luận các quy định về quyền kháng cáo của bị cáo; - Phương pháp lịch sử được vận dụng nhằm phân tích, đánh giá sự kế thừa và phát triển của các quy định trong Pháp luật tố tụng hình sự; - Phương pháp thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia, khảo sát kết quả hoạt động xét xử thông qua các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm để đánh giá về thực tiễn; - Phương pháp tổng hợp những kết quả nghiên cứu để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về quyền kháng cáo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận 5 So với các công trình khác, đề tài tiếp cận, nghiên cứu quyền kháng cáo dưới góc độ đây là một quyền năng tố tụng của những người tham gia tố tụng. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự; góp phần vào việc nhận thức được bản chất, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo cũng như mối quan hệ giữa quyền kháng cáo và các quyền tố tụng khác trong tư pháp hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền kháng cáo cũng như đánh giá một cách khách quan về thực tiễn thực hiện quyền kháng cáo. Chỉ rõ những bất cập trong quy định của pháp luật cần hoàn thiện cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật cần khắc phục. Trên những cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về quyền kháng cáo cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền kháng cáo. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập về pháp luật Tố tụng hình sự. Đây cũng cỏ thể là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực tiễn cao, dùng để tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương 1 : Những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Chương 2 : Thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về quyền kháng cáo của bị cáo 6 Chương 3 : Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và các giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là một lĩnh vực mang tính nhạy cảm và phức tạp, hoạt động này có thể tác động một cách trực tiếp đến quyền tự do dân chủ của con người, của công dân. Các phán quyết của Tòa án sẽ quyết định số phận pháp lý của một cá nhân, quyết định ngay cả đối với quyền được sống của người phạm tội. Mọi sai lầm, dù lớn hay nhỏ cũng có thể để lại những hậu quả tiêu cực và có thể sẽ không khắc phục được. Do đó, để có thể phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, pháp luật Tố tụng hình sự đã đặt ra rất nhiều cơ chế, cách thức khác nhau. Một trong những phương thức để đảm bảo tính chính xác trong phán quyết của Tòa án đó chính việc quy định và đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền kháng cáo bị cáo để phát sinh thủ tục xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Quyền kháng cáo là một trong những quyền cơ bản của một số người tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Hiểu và thực hiện một cách hiệu quả quyền này giúp bị cáo có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo như chủ thể có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo, thủ tục kháng cáo...được pháp luật quy định khá rõ ràng và cụ thể, nhưng văn bản pháp lý hiện hành vẫn chưa đưa ra được một cách hiểu thống nhất về quyền kháng cáo. Việc thống nhất khái 8 niệm về quyền kháng cáo là một cơ sở để nghiên cứu quyền này trong pháp luật Tố tụng hình sự. Theo Đại từ điển Tiếng Việt: "Kháng cáo là chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử" [38, tr.888] hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì kháng cáo là “Chống án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại” [33, tr.492]. Như vậy, nếu xét về mặt ngôn ngữ thì kháng cáo là chống án, phản đối bản án và quyền kháng cáo là quyền được chống lại bản án, thể hiện sự không đồng ý với các phán quyết của Tòa án. Sự phản đối này được thể hiện bằng cách “yêu cầu xét xử lại” chứ không phải “chống đối” bằng một hành vi khác. Khái niệm này đã nêu được bản chất của quyền kháng cáo, đó chính là “chống án” và “yêu cầu xét xử lại”. Tuy nhiên, đây chi mới là một khái niệm giải quyết được về mặt ngôn ngữ, mang tính khái quát, rất chung chung và chưa cụ thể; những vấn đề có liên quan như đối tượng kháng cáo là gì, chủ thể kháng cáo là ai chưa được đề cập trong khái niệm này. Theo Từ điển Luật Học –Nhà xuất bản Tư pháp thì “Kháng cáo là hành vi chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đương sự không đồng ý với toàn bộ bản án hoặc một phần của bản án, quyết định sơ thẩm” [34, tr.417]. Khái niệm này đã nêu được cơ bản những vấn đề như chủ thể, đối tượng, mục đích nhưng vẫn còn một số điểm chưa đầy đủ. Cách đồng nhất khái niệm “kháng cáo” và”chống án” như trên là không hợp lý bởi thuật ngữ “chống án” hiện nay khoa học pháp lý đã không còn ghi nhận và thuật ngữ “đương sự” chỉ phù hợp với Tố tụng dân sự chứ không phù hợp với Tố tụng hình sự bởi trong Tố tụng hình sự, khái niệm đương sự không được quy định. Nếu suy ra từ Điều 54 Bộ luật Tố tụng hình sự thì đương sự có thể hiểu là Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, 9 người có quyền nghĩa vụ liên quan, điểm không hợp lý ở đây chính là quyền kháng cáo không chi dành riêng cho những chủ thể này mà còn có những người khác. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng cáo là biểu thị sự bất đồng của mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại ”[10, tr. 215]. Khái niệm này về cơ bản đã giải quyết được một số vấn đề có liên quan như chủ thể, đối tượng. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm chưa hợp lý như : Khái niệm chỉ mới đề cập đến đối tượng kháng cáo là bản án hoặc quyết định của Tòa án mà không kèm theo điều kiện phải là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật; Tác giả dùng từ “mình” khi nói về chủ thể có quyền kháng cáo, cách sử dụng đại từ này không thể xác định một cách cụ thể là ai có quyền kháng cáo; Thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo khái niệm mà tác giả Đinh Văn Quế đã đưa ra là thuộc về “Tòa án cấp trên” là chưa cụ thể. Theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 thì hệ thống Tòa án nhân dân nước ta hiện nay được tổ chức theo 4 cấp : Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối cao. Vì vậy, nếu phát biểu như định nghĩa trên có thể hiểu rằng chỉ cần là Tòa án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm là Tòa án có thẩm quyền. Phát biểu như vậy là chưa chuẩn xác vì Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo quy định hiện hành phải là Tòa án cấp trên trực tiếp. Theo giáo trình Luật Tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, quyền kháng cáo được hiểu “là quyền của những chủ thể theo quy định của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ”[28, tr. 10 525]. Với khái niệm này, có thể đã có được cái nhìn khái quát về kháng cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Nhưng để đưa ra được khái niệm về quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự theo đúng bản chất của nó thì cần phải thông nhất một số vấn đề sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo nói chung và kháng cáo trong Tố tụng hình sự nói riêng là một trong số những quyền cơ bản của con người, của công dân đã được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Quyền này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966, cũng như một số công ước mang yếu tố vùng như Nghị định thư số 7, Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của cộng đồng Châu Âu hay Công ước Châu Mỹ về nhân quyền. Quyền kháng cáo thể hiện khả năng của công dân được trình bày thái độ “chống đối” của mình đối với bản án, quyết định của Tòa bằng việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại đối với vụ án. Với pháp luật nước ta thì Tòa án cấp phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên trực tiếp. Như vậy, nếu tiếp cận ở mức độ chung nhất thì có thể hiểu kháng cáo là quyền của công dân nhằm chống lại bản án, quyết định của Toà án, yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại. Thứ hai, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của công dân nhưng trong Tố tụng hình sự quyền này chỉ có thể thực hiện khi công dân đó trở thành bị cáo trong một vụ án hình sự cụ thể. Điều đó không có nghĩa rằng, quyền kháng cáo là quyền giành riêng cho bị cáo. Nhưng không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền này bởi thực hiện quyền kháng cáo trước hết là để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng đối với những phán quyết của Tòa án mà theo họ là không hợp lý, không đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, chỉ những người tham gia tố tụng nào có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi những phán quyết của Tòa án thì mới có 11 quyền thể hiện sự bất đồng của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo. Thứ ba, đối tượng để bị cáo kháng cáo là những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm chưa phát sinh hiệu lực ngay mà pháp luật giành cho bị cáo một khoản thời gian nhất định để xem xét và thể hiện ý kiến của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo. Như vậy, có thể khẳng định rằng bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực thì không thể là đối tượng kháng cáo để phát sinh thủ tục phúc thẩm, nếu trong trường hợp cần xem xét lại vì có vi phạm thì sẽ xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm hoặc thủ tục Tái thẩm. Thứ tư, quyền kháng cáo là quyền của bị cáo, quyền này sẽ được đảm bảo thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, quyền kháng cáo phải được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng quy định về thời hạn, thủ tục, đúng cách thức cũng như các quy định khác mà pháp luật đã ghi nhận. Có như vậy, thì kháng cáo mới được xem là cơ sở để phát sinh thủ tục phúc thẩm. Như vậy, khái niệm về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự có thể được hiểu như sau: “Quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự là quyền của một số người tham gia tố tụng mà pháp luật ghi nhận trong thời hạn bằng thủ tục luật định được yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án xét lại quyết định mà bản án, quyết định sơ thẩm đó chưa phát sinh hiệu lực pháp luật”. 1.1.2 Đặc điểm của quyền kháng cáo của bị cáo Thông qua việc phân tích khái niệm quyền kháng cáo cũng như nghiên cứu các quy định về quyền kháng cáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật 12 Việt Nam có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của quyền kháng cáo của bị cáo như sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của bị cáo trong lĩnh vực tư pháp hình sự, là phương tiện để bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tư pháp hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền của mình nhằm thực hiện quyền tư pháp. Lĩnh vực này mang tính nhạy cảm do nó tác động trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc iệt là bị cáo từ phía những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền là rất cao nếu như có sai lầm trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Trong lĩnh vực tư pháp, bị cáo có nhiều quyền khác nhau như quyền bào chữa, quyền được suy đoán vô tội, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự...trong đó có quyền kháng cáo đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây chính là khả năng mà pháp luật cho phép bị cáo được quyền bày tỏ sự không đồng ý với phán quyết cùa Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án, quyết định. Quyền kháng cáo được xem là một quyền cơ bản của người người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với bị cáo. Thứ hai, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền gắn liền với một xã hội mang tính dân chủ Sự hình thành và phát triển của quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên 13 tắc dân chủ, tiến bộ của Tố tụng hình sự như công bằng, nhân đạo, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo... Quyền kháng cáo ra đời như một tất yếu khách quan khi các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự ngày càng hướng đến việc bảo vệ hiệu quả quyền con người. Quy định quyền kháng cáo và đảm bảo thực hiện quyền này đã tạo cơ hội cho bị cáo được nói lên được tiếng nói của mình, thể hiện thái độ bất đồng với những phán quyết của Tòa án sơ thẩm, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm. Điều đó khẳng định quyền kháng cáo chỉ có thề tồn tại trong Tố tụng tụng hình sự của những chế độ có nền dân chủ, tôn trọng quyền con người. Còn ở những chế độ phi dân chủ như chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, khi vấn đề quyền con người không được xem trọng thì người bị kết tội sẽ không có quyền phản đối những phản quyết của Tòa án. Thứ ba, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền mang tính quốc tế Sự ra đời của quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự như một tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất dân chủ, tiến bộ của hệ thống tư pháp hiện đại. Ở bất cứ quốc gia nào mà vấn đề quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được quan tâm thì ở đó, quyền kháng cáo sẽ tồn tại. Chính vì vậy, không chỉ được ghi nhận trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, quyền kháng cáo còn được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế, cũng như trong quy định pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới. Quyền kháng cáo được đề ra lần đầu tiên trong kỳ họp thứ 14 của ủy ban thứ 3 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên sau đó, vấn đề này bị dừng lại, không bàn bạc thêm và cũng không pháp điển hóa thành một quy định trong Công ước về nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của Cộng đồng Châu Âu. Năm 1966, khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và 14 chính trị được thông qua, quyền kháng cáo của bị cáo đã chính thức được ghi nhận tại Khoản 5 Điều 14 của Công ước: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định pháp luật. ” Một văn bản pháp lý khác ghi nhận quyền kháng cáo đó chính là Công ước Châu Mỹ về nhân quyền; Quyền kháng cáo được quy định tại Khoản 2 Điều 8 của Công ước: "... Trong tố tụng, bất kì ai cũng đều hoàn toàn bình đẳng trong việc bảo đảm những điều tối thiểu sau đây : Quyền kháng cáo bản án lên toà cấp cao hơn…” [27, tr 30 và tr. 257]. Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền kháng cáo của bị cáo là một quyền cơ bản của con người; quyền năng này mang tính quốc tế, trở thành một chuẩn mực chung cho cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Việc ghi nhận và thực hiện quyền kháng cáo không còn là câu chuyện nội bộ của một quốc gia, mà trở thành trách nhiệm của các quốc gia thành viên khi tham gia vào các công ước có liên quan. Thứ tư, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền được xét xử công bằng Trong hoạt động xét xử của Tòa án, quyền được xét xử công bằng thể hiện ở quy định : mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án và được xét xử bởi Toà án độc lập, công khai và không thiên vị. Quyết định hình phạt đối với người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, với các đặc điểm nhân thân của người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... Đồng thời, quyền được xét xử công bằng còn thể hiện ở việc trong những điều kiện và hoàn cảnh phạm tội giống nhau thì người phạm tội phải bị kết án và xử phạt như nhau. Để đưa ra một phán quyết mang tính chính xác, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải thật sự khách quan, 15 không thiên vị, đưa ra các quyết định trên cơ sở chứng cứ và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, yêu cầu này không phải bao giờ cũng đạt được do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thực hiện quyền kháng cáo là cơ hội để bị cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định mà họ cho rằng là bất lợi đối với họ. Việc xem xét nội dung kháng cáo chưa chắc sẽ được giải quyết bằng một kết quả có lợi hơn so với phán quyết ban đầu nhưng thông qua thủ tục phúc thẩm, công tác kiểm tra được thực hiện và tính chính xác của các phán quyết sẽ cao hơn, đó chính là sự đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Quyền kháng cáo sẽ trở thành sự thúc đẩy mạnh mẽ cho các Thẩm phán làm việc một cách tận tình và tránh các sai sót hay sự chuyên quyền. Như vậy, quyền kháng cáo của bị cáo và quyền được xét xử công bằng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, quyền kháng cáo là một cách thức để thực hiện hiệu quả quyền được xét xử công bằng. Ngược lại, quyền được xét xử công bằng trở thành mục tiêu để thực hiện quyền kháng cáo. Thứ năm, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền bào chữa Quyền bào chữa là tổng hợp tất cả các quyền mà pháp luật giành cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Quyền bào chữa được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như : đưa ra tài liệu, đồ vật, tham gia tranh luận với bên buộc tội. Đối với bị cáo, quyền bào chữa và quyền kháng cáo có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, quyền kháng cáo là một biểu hiện của việc thực hiện quyền bào chữa, bởi khi bị cáo thực hiện quyền kháng cáo thì bị cáo đã chống lại sự buộc tội của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ bằng cách yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại 16 để đảm bảo quyền lợi ích cho mình. Ngược lại, chính quyền kháng cáo của bị cáo đã tạo điều kiện cho quyền bào chữa được kéo dài và phát huy được hiệu quả. Khi xem xét nội dung kháng cáo, Tòa án phải mở phiên tòa và tại phiên tòa, bị cáo có quyền tiếp tục thực hiện các cách thức khác nhau để bào chữa cho mình, hoặc có thể nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình. Như vậy, tương tự như quyền được xét xử công bằng, quyền kháng cáo của bị cáo và quyền bào chữa của bị cáo có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. 1.1.3. Ý nghĩa của quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự là quyền năng tố tụng có vai trò quan trọng đối với những người tham gia tố tụng khác nói chung, đối với bị cáo nói riêng và đối với các cơ quan có thẩm quyền. Xét cả về mặt lí luận và thực tiễn, kháng cáo phúc thẩm hình sự là chế định không thể thiếu được trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nếu không quy định quyền kháng cáo, những bản án oan, sai được đưa ra thi hành có thể sẽ rất nhiều và quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo không được xem xét. Ý nghĩa của quyền kháng cáo được khẳng định thông qua một số nội dung sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo là phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo được Nhà nước bảo hộ bằng nhiều cách thức khác nhau và quyền kháng cáo là một trong những cách thức đó. Thực hiện quyền kháng cáo tức là bị cáo thể hiện một sự bất đồng với những phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại những vụ án đó nhằm đảm bảo tính chính xác trong việc xét xử. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan