Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền của phụ nữ qua các bản hiến pháp việt nam...

Tài liệu Quyền của phụ nữ qua các bản hiến pháp việt nam

.DOC
37
303
107

Mô tả:

bài viết nói về quyền phụ nữ được thể hiện trong pháp luật việt nam thông qua các bản hiến pháp
Quyền của phụ nữ qua các bản Hiến pháp Việt Nam Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến một cách thực chất từ khi Việt Nam giành được độc lập từ tay thực dân, phong kiến. ền của phụ nữ là một vấn đề mang tính thời đại. Nó không phải chỉ là vấn đề của riêng phụ nữ mà là mối quan tâm chung của toàn xã hội, toàn nhân loại,. Bởi lẽ, đời sống của phụ nữ là một bộ phận của đời sống xã hội, của đời sống gia đình. Người phụ nữ không hề tách biệt với phần còn lại của thế giới mà trái lại gắn liền và chi phối mạnh mẽ đời sống gia đình và xã hội. Trải qua hàng trăm nắm tranh đấu, ngày nay quyền của phụ nữ đã trở thành vấn đề được thừa nhận và trân trọng trên phạm vi thế giới. Nhiều văn kiện và văn bản pháp luật quốc tế đã xác định và đề cao quyền của phụ nữ, coi đó như là một trách nhiệm của văn minh thế giới. Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến một cách thực chất từ khi Việt Nam giành được độc lập từ tay thực dân, phong kiến. Sau khi giành được chính quyền, Nhà nước Việt Nam đã ban hành những bản pháp luật về quyền công dân và quyền của phụ nữ. Trong điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, nên ở mỗi thời kỳ, các quyền công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng được thể hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới. Hiến pháp năm 1946, Điều 9 quy định: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện”. Đó là những quy định lần đầu tiên có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới được thành lập. Điều này đã góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Quy định đó thực sự đã phá tan xiềng xích tư tưởng “trọng nam kinh nữ” của chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Hiến pháp 1959, Điều 24 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình’’. Như vậy so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã cụ thể hóa hơn các lĩnh vực mà người phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới. Quyền bình đẳng nam nữ được thể hiện trên 5 lĩnh vực từ xã hội đến gia đình bao hàm tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự ghi nhận và trân trọng, được đảm bảo của toàn xã hội đối với vai trò của phụ nữ. Hiến pháp năm 1980, quyền của phụ nữ vừa được lồng vào các quyền cơ bản của công dân, vừa được quy định riêng nhằm tạo ra những điểm nhấn quan trọng, khẳng định quyền của phụ nữ. Điều 52 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, là một quy định chung nhất cho tất cả các giới tính, thể hiện sự không phân biệt trước xã hội. Lần đầu tiên Hiến pháp Việt Nam xác định “Công dân không phân biệt dân tộc, nam – nữ, thành phần xã hội…. đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp” (Điều 54) Điều 64 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước, và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội. Chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ”. Điều 65 quy định: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”. Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp tiến bộ, ở đó quyền của công dân Việt Nam nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã được khẳng định ở tầm cao hơn, cụ thể hơn Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), các điều 53,54,63,65 được giữ nguyên là một sự khẳng định lại những giá trị 1 về quyền của phụ nữ đã được xác định và phát huy hơn 2 thập kỷ. Năm 2006, Luật bình đẳng giới ra đời, các quyền của phụ nữ Việt Nam được nâng lên về chất lượng. Các quy định của Hiến pháp 1992, càng ngày càng được cụ thể hóa vào các đạo luật và các văn bản pháp luật khác. Luật bảo hiểm xã hội (2006), Luật cư trú (2006), Luật phòng chống bạo lực gia đình (2007), Luật quốc tịch (2008). Như vậy, quyền của phụ nữ Việt nam ngày càng được phát triển qua các bản Hiến pháp Việt Nam. Các quyền đó bao gồm: - Quyền bình đẳng - Quyền tự do ngôn luận. - Quyền lao động. - Quyền hưởng các chế độ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. - Quyền bầu cử, ứng cử vào các bộ máy Nhà nước, quyền tham gia quản lý xã hội, quản lý Nhà nước. - Quyền tự do tín ngưỡng . - Quyền bất khả xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khoẻ. - Quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm. Trong tương quan với nam giới, các quyền của phụ nữ Việt Nam được quy định trong các bản Hiến pháp Việt nam thể hiện rõ 2 yếu tố căn bản đó là: “bình đẳng và ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế và trong đời sống gia đình. Còn quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc, nghỉ hưu...) có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội đòng thời tránh rủi ro trong nghề nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội. Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhất là từ sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (1945), quyền của phụ nữ Việt Nam có một quá trình từ không thành có, từ sơ khai đến đầy đủ hơn, đã được thể hiện đậm nét trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến sau này. Tiếp đó, các quyền của phụ nữ Việt Nam được chi tiết hoá, bổ sung thể hiện đầy đủ, cụ thể hơn qua các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Điều đó thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và toàn xã hội đối với sự phát triển của phụ nữ Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại./. BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ TRAO QUYỀN CHO PHỤ NỮ Giới thiệu tổng quan Chương trình hoạt động của UNFPA nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ tại Việt Nam, đồng thời ủng hộ việc thực hiện cam kết tại Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển (ICPD) tại Cairo năm 1994, Hội nghị quốc tế về Cương lĩnh hành động Bắc Kinh về Phụ nữ (1995), Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW), và Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ số ba, nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Các thành tố chính của chương trình trao quyền cho phụ nữ và bình đẳng giới của UNFPA là ngăn chặn bạo lực gia đình và Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về bình đẳng giới, truyền thông chính sách liên quan tới bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và vấn đề lồng ghép giới. Chương trình Phối hợp của Liên hợp quốc về bình đẳng giới là một phần của chương trình Chung Một Liên hiệp quốc tại Việt Nam. Sáng kiến chưa có tiền lệ này đã liên kết các tổ chức gồm Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc FAO, Tổ chức lao động quốc tế ILO, Tổ chức di cư quốc tế IOM, Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS, Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc 2 UNESCO, Quỹ dân số Liên hợp quốc UNFPA, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc UNICEF, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc UNIDO, Quỹ phát triển Liên hợp quốc cho phụ nữ UNIFEM, Văn phòng ma túy và tội phạm Liên hiệp quốc UNODC và Tổ chức y tế thế giới WHO. Các tổ chức cùng hoạt động hướng tới một kết quả chung là: nâng cao năng lực của chính quyền cấp quốc gia và cấp tỉnh, các cơ quan và những người có trách nhiệm để thực hiện có hiệu quả Luật bình đẳng giới và Luật phòng chống bạo lực gia đình. 1. UNFPA hỗ trợ trong các lĩnh vực Giới/Phòng chống bạo lực gia đình (DVP)  Lồng ghép giới trong vấn đề dân số và SKSS Lồng ghép giới nhằm đưa các mối quan ngại và kinh nghiệm của phụ nữ cũng như của nam giới trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình thiết kế, thực hiện, giám sát và đánh giá các chính sách và chương trình trong tất cả các lĩnh vực xã hội, kinh tế, chính trị để phụ nữ và nam giới hưởng lợi một cách bình đẳng và sự bất bình đẳng không thể kéo dài mãi. Ở Việt Nam, UNFPA đã luôn đi đầu trong các nỗ lực để lồng ghép bình đẳng giới vào quá trình xây dựng các chính sách và chương trình, đặc biệt là trong các lĩnh vực quan trọng như SKSS và SKTD, quyền sinh sản, phòng chống HIV/AIDS và phòng chống bạo lực gia đình. Công việc này tập trung vào bảy tỉnh trong Chương trình quốc gia 7 (CP7) là Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Ninh Thuận, Bến Tre, Kiên Giang và Kon Tum. Các nỗ lực lồng ghép giới được thực hiện ở các cấp chính thức và không chính thức và được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động chương trình, từ công việc điều tra dân số, điều tra sức khỏe và nhân khẩu học (DHS) tới việc thực hiện dịch vụ SKSS và an ninh hàng hóa SKSS (ví dụ như cung cấp bao cao su). Cách tiếp cận của UNFPA được thể hiện qua công tác hoạt động với cả nam nam và nữ ở mọi lứa tuổi và ở các tầng lớp xã hội khác nhau nhằm thay đổi thái độ, hành vi và chính sách có liên quan đến phân biệt đối xử.  Can thiệp trong phòng chống bạo lực gia đình – Trọng tâm vào các tỉnh Phú Thọ và Bến Tre Trong khuôn khổ Chương trình quốc gia 7, UNFPA đã đưa ra mô hình thí điểm về phòng chống bạo lực gia đình ở Phú Thọ và Bến Tre áp dụng nhiều cách tiếp cận. Các cách tiếp cận này gồm có: (1) nâng cao nhận thức của người dân về bình đẳng giới, quan trọng nhất là sự tham gia của nam giới, trao quyền cho phụ nữ, và các ảnh hưởng tiêu cực của bạo lực gia đình, (2) tăng cường hỗ trợ cho nạn nhân của bạo lực gia đình thông qua việc cung cấp các dịch vụ phù hợp như y tế, hỗ trợ pháp lý, và bảo trợ xã hội và (3) củng cố sự hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức từ trung ương tới địa phương. Các hỗ trợ chủ yếu là nâng cao nhận thức về bạo lực gia đình và coi đây như vấn đề về nhân quyền. UNFPA đang làm việc với các cơ sở y tế tại các tỉnh này, ví dụ như cung cấp tư vấn tại các bệnh viện huyện nơi mà nạn nhân có thể được sàng lọc và chuyển tuyến tới các dịch vụ khác như nhóm hòa giải, công an và Hội phụ nữ. Các nhóm mục tiêu là các chính quyền địa phương, cán bộ công an và tòa án, người cung cấp dịch vụ y tế, phụ nữ, nam giới, thanh niên, những người phạm tội và nạn nhân của bạo lực gia đình. Các cơ quan xây dựng chính sách trọng điểm gồm có Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (MOCST), Bộ y tế (MOH), Quốc hội, Đảng cộng sản Việt Nam và Tổng cục thống kê (GSO). UNFPA cũng đang hoạt động để thành lập ban chỉ đạo tại cấp tỉnh, huyện và các cấp thấp hơn để lồng ghép công an, Ủy ban nhân dân và khu vực tư pháp. Đây là sự hợp tác đa cơ quan để UNFPA có thể đào tạo các đối tác cơ sở về việc làm thế nào để giải quyết hiệu quả vấn đề bạo lực về giới.  Truyền thông chính sách vì bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ Thông qua các chương trình của mình, UNFPA áp dụng cách tiếp cận dựa trên quyền để xây dựng chương trình. Các nhóm mục tiêu chủ yếu là các nhà hoạch định chính sách và việc gần đây Quốc hội đã thông qua Luật phòng chống bạo lực gia đình vào ngày 21 tháng 11 năm 2007 là một ví dụ cho thấy công tác truyền thông của UNFPA đã có ảnh hưởng hiệu quả tới việc nâng cao quyền của phụ nữ Việt Nam. Năm 2006, Quốc hội Việt Nam đã có sáng kiến xây dựng luật về bạo lực gia đình. UNFPA sau đó đã tham gia hỗ trợ quá trình này thông qua dự án của Cơ quan hợp tác phát triển Thụy Sỹ. Việc này đã dẫn đến sự ra đời của tiểu nhóm làm việc trong Liên hiệp quốc về bạo lực gia đình, và các nhóm này có vai trò xem xét và chia sẻ nhận xét tới Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (PCSA). “Tiểu nhóm của Nhóm điều phối chương trình Giới về bạo lực gia đình” gồm có Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc, Tổ chức y tế thế giới, Tổ chức di cư thế giới, Văn phòng ma túy và tội phạm Liên hợp 3 quốc và Chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về HIV/AIDS. UNFPA coi việc thông qua luật này là một thành tựu lớn. Luật này có quy định về việc xây dựng chương trình Các địa chỉ tin cậy, đây là mô hình lấy trực tiếp từ mô hình thí điểm của UNFPA về bạo lực gia đình. UNFPA đóng góp trực tiếp vào quy trình này, thực hiện nghiên cứu và góp ý thông qua việc hợp tác với Tổng cục dân số và kế hoạch hóa gia đình (trước đây là Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em của Việt Nam - VCPFC), Bộ y tế (MOH), và Hội liên hiệp phụ nữ và các tổ chức khác. Rất ít người coi vấn đề bất bình đẳng giữa nam và nữ là gốc rễ của bất bình đẳng. Việc này phản ánh sự thật rằng người dân vẫn chưa thực sự ý thức được rằng các vấn đề về giới và bất bình đẳng về giới là gốc rễ gây ra bạo lực gia đình. Giờ đây, Luật bạo lực gia đình đã được thông qua, UNFPA tiếp tục hỗ trợ chính phủ trong quá trình chuẩn bị thực hiện. UNFPA hiện nay đang cùng với Ủy ban văn hóa thông tin MOCST góp ý về hai Nghị định mới, một Nghị định về “xử phạt hành chính” (phạt tiền) với người gây ra bạo lực gia đình và một Nghị định hướng dẫn việc thực hiện Luật phòng chống bạo lực gia đình. UNFPA hiện nay cũng đang hỗ trợ việc xây dựng kế hoạch hành động của Bộ văn hóa thông tin thông qua việc đưa ra nhận xét, góp ý. Việc này sẽ được đưa vào trong kế hoạch hành động quốc gia cho Luật phòng chống bạo lực gia đình. Các địa chỉ tin cậy dành cho phụ nữ bị lạm dụng Với sự hỗ trợ của UNFPA, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (VWU) và Trung tâm sức khỏe phụ nữ và gia đình (RAFH) đã thực hiện các chương trình can thiệp thí điểm về vấn đề bạo lực gia đình tại Hà Nội, Thái Bình và Phú Thọ với sự tham gia của Trung tâm nghiên cứu về giới và phát triển (RCGAD), để thực hiện nghiên cứu ban đầu và đánh giá cuối cùng đối với các can thiệp. Các mô hình can thiệp thí điểm ở Hà Nội, Thái Bình và Phú Thọ đã có những kết quả rất đáng khích lệ. Tại nhiều xã, các nhóm tư vấn dành cho phụ nữ đã được thành lập, thay vì “các nhóm hòa giải” vốn vẫn động viên phụ nữ quay trở về với người chồng bạc đãi. Sáng kiến thành lập các địa chỉ tin cậy – các gia đình tại cộng đồng là một ví dụ điển hình về việc cung cấp nơi trú ngụ cho các nạn nhân của bạo lực gia đình – cho thấy mô hình này phù hợp trong bối cảnh địa phương. Trong quá trình thực hiện dự án, nhiều địa chỉ tin cậy đã là những nơi trú ngụ tốt cho các nạn nhân. Năm gia đình ở Thanh Ne, Thái Bình, đã bảo vệ thành công các nạn nhân của bạo lực gia đình. 2. Chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về bình đẳng giới Là một phần của sáng kiến cải tổ Liên hợp quốc để các cơ quan của Liên hợp quốc cùng chung tay hoạt động về một vấn đề, Chương trình Phối hợp của Liên hiệp quốc về bình đẳng giới hỗ trợ việc thực hiện hai luật mới ở Việt Nam là Luật phòng chống bạo lực gia đình và Luật bình đẳng giới. Theo sáng kiến này, có 11 cơ quan của Liên hợp quốc đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật tới Chính phủ Việt Nam và xã hội dân sự. 3. Nghiên cứu hoạt động Đánh giá nhu cầu ở tỉnh Phú Thọ và Bến Tre ‘Phòng chống bạo lực gia đình: Hiện trạng, nhu cầu và ưu tiên để can thiệp tại các tỉnh Phú Thọ và Bến Tre (2006) Nghiên cứu này rà soát lại tình hình hiện nay về bạo lực gia đình, cũng như nhu cầu và ưu tiên phòng chống bạo lực gia đình tại 16 xã ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ và huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Nghiên cứu đánh giá (1) nhận thức của cộng đồng về các vấn đề bạo lực gia đình và pháp luật, (2) mức độ và sự nghiêm trọng của bạo lực gia đình tại nơi nghiên cứu và các rào cản đối với nạn nhân khi tìm kiếm dịch vụ và hỗ trợ và (3) sự tồn tại và chất lượng của các chương trình phòng chống bạo lực gia đình và sự hợp tác giữa các chính quyền. Ngoài ra, nghiên cứu cũng xác định các nhu cầu và ưu tiên, đưa ra các kiến nghị can thiệp phù hợp và các biện pháp điều phối giữa các chủ thể khác nhau trong việc phòng chống bạo lực gia đình. Đánh giá định tính đối với các chương trình bạo lực về giới ‘Bạo lực về giới: Rà soát chương trình ‘ (2006) Việc rà soát này nhằm xác định các chương trình phòng chống bạo lực về giới thành công ở Việt Nam, những thách thức còn tồn tại và các lĩnh vực hành động trong tương lai. Các thông tin này đang được UNFPA sử dụng để đưa ra các 4 kiến nghị cho việc xây dựng một mô hình giải quyết vấn đề bạo lực về giới trong các chương trình hoạt động ở các tỉnh Phú Thọ và Bến Tre. Các thông tin này cũng đã được sử dụng để truyền thông với các đối tác tham gia vào việc xây dựng Luật phòng chống bạo lực gia đình. 4. Phê duyệt Luật bạo lực gia đình Thông qua Nhóm điều phối chương trình về Giới của Liên hợp quốc, Nhóm làm việc về giới của UNFPA đã tham gia vào việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực đa khu vực, có sự điều phối và có chiến lược để xây dựng năng lực cho các cán bộ chịu trách nhiệm ở cấp quốc gia và tỉnh thành để họ có thể thi hành tốt hơn Luật bình đẳng giới và Luật phòng chống bạo luật gia đình giai đoạn 2008-2010 Quyền của Phụ nữ và Trẻ em gái Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam tham gia tích cực vào việc giảm nghèo và phát triển gia đình, cộng đồng và đất nước. Tuy nhiên, họ vẫn là nạn nhân của phân biệt đối xử, bạo lực, bất bình đẳng giới và các rào cản xã hội khác trong việc tiếp cận dịch vụ công, cơ hội việc làm và kinh tế, thu nhập, kiểm soát chính cơ thể mình, đặc biệt là trong việc tham gia chính trị. Phần lớn thời gian, công việc của họ tại nhà và tại nơi làm việc không được trả công, không được thừa nhận cho thỏa đáng, và bị coi là những việc chỉ dành cho nữ. Mô hình sản xuất định hướng xuất khẩu, tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu và thiếu việc làm khiến tình trạng di cư trong và ngoài nước gia tăng. Phụ nữ di cư có thể có thêm cơ hội cải thiện đời sống nhờ độc lập về mặt kinh tế, nhưng cũng có thêm nguy cơ bị lạm dụng và bóc lột tại nơi làm việc và ở nhà. Việt Nam đứng thứ 3 trên thế giới về tỷ lệ nạo phá thai cao ở lứa tuổi vị thành niên. Những tiêu chuẩn, tập quán, truyền thống, nhận thức xã hội thiên về sức khỏe tình dục và sinh sản vẫn phổ biến trong cộng đồng, giáo viên, cha mẹ, trẻ vị thành niên và thanh niên thiếu các kỹ năng sống cần thiết, thiếu các quan điểm chính trị chống bất bình đẳng giới, trẻ em gái và phụ nữ vẫn là nạn nhân của tình trạng bị bóc lột, bị lạm dụng tình dục và bạo lực. Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng Giới lần thứ nhất từ 2011 đến 2020 của Việt Nam đã đặt nền móng quan trọng cho việc phát huy sức mạnh và sự tiến bộ của phụ nữ trong các lĩnh vực. Với niềm tin tưởng rằng bất bình đẳng giới là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn tới đói nghèo và bất công, AAV đã góp phần phát huy quyền phụ nữ với sự ủng hộ của tất cả các cộng đồng nơi chúng tôi đã làm việc từ nhiều năm nay. Chung tay xây dựng các giải pháp thay thế về xã hội và chính trị vì phụ nữ và trẻ em gái sẽ là một ưu tiên riêng biệt và chủ đạo trong mọi chương trình của AAV. Mục tiêu Xây dựng các giải pháp xã hội và chính trị cho phụ nữ và trẻ em gái tại những nơi AAV làm việc. Hành động chiến lược - Phụ nữ và lãnh đạo nữ sẽ được hỗ trợ để thúc đẩy tốt hơn khả năng quyết định về thời gian, lao động và cơ thể của họ. - AAV sẽ làm việc cùng với tất cả mọi người, đặc biệt là trẻ em trai và nam giới- những người ủng hộ sự thay đổi, tìm cách giáo dục và nâng cao ý thức của những người khác về các quyền của phụ nữ. - Các bên liên quan tại tất cả các cấp cũng sẽ được huy động và hỗ trợ trong vận động chính sách và các chiến dịch để tìm ra những giải pháp thay thế về xã hội và chính trị nhằm thúc đẩy quyền phụ nữ và bình đẳng giới. Các can thiệp - Nâng cao nhận thức và năng lực cho phụ nữ và trẻ em gái để họ có thể tự bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo lực giới, được hưởng các dịch vụ y tế, xã hội, kinh tế, hỗ trợ pháp lý, việc làm thích đáng và cơ hội việc làm bình đẳng mà không bị phân biệt đối xử. - Xây dựng năng lực lãnh đạo cho phụ nữ có tiềm năng và hỗ trợ họ trở thành những lãnh đạo nữ trong cả lĩnh vực xã hội và chính trị. - Tăng cường các nhóm cộng đồng và liên kết họ với các mạng lưới và phong trào ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế để họ có thể đấu tranh chống lại bạo lực và bất bình đẳng giới. 5 - Tiến hành các chiến dịch và vận động nhằm thay đổi những quy chuẩn, tập quán cứng nhắc và mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Vận động tăng phân bổ ngân sách cho những hoạt động về quyền phụ nữ. ASEAN phát động chiến dịch bảo vệ quyền phụ nữ, trẻ em Ủy ban Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) về thúc Những người phụ nữ Campuchia. (Nguồn: camasean.org) đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em (ACWC) vừa tiến hành Hội nghị lần thứ 8 tại trụ sở Ban thư ký ASEAN ở Jakarta. Hội nghị đã tập trung xem xét, đánh giá kết quả 24 dự án đã và đang được triển khai, đồng thời thảo luận các nội dung hoạt động trong Kế hoạch làm việc của ACWC giai đoạn 2014-2016, nhất là dự thảo Hướng dẫn xử lý giải quyết các phụ nữ nạn nhân của hoạt động buôn người. Dự thảo trên được đưa ra trên cơ sở các kết quả của Hội thảo ASEAN về thúc đẩy tiếp cận công lý cho phụ nữ nạn nhân của bạo lực trong hoạt động buôn người, diễn ra từ 3-5/2 tại Bandar Seri Begawan, Brunei. Hội nghị đã đánh giá tích cực hoạt động của ACWC nhằm thực hiện Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 23, diễn ra ngày 10/10/2013 tại Brunei. Trên cơ sở đề xuất của Thái Lan, ACWC đã phát động và kêu gọi 10 nước thành viên ASEAN thực hiện chiến dịch tuyên truyền công cộng với chủ đề “Chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ” dưới hình thức phân phát tờ rơi, phát hành băng video nhằm hướng tới kỷ niệm Ngày quốc tế xóa bỏ bạo lực với phụ nữ và trẻ em 25/11. Hội nghị ACWC lần thứ chín dự kiến sẽ được tổ chức tại Myanmar từ ngày 29/9-1/10./. VIỆT NAM THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI, ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Nguyễn Hồng Điệp (TTXVN) lúc : 09/12/13 15:06 Lớp dạy nghề may công nghiệp cho phụ nữ dân tộc Dao, Tày tại Tuyên Quang. (Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN) Những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã luôn coi trọng xây dựng và phát triển các chính sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện để đảm bảo quyền của phụ nữ. Phát biểu tại cuộc Tọa đàm Phụ nữ dân tộc thiểu số và các vấn đề phát triển mới đây do Cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức, dưới sự chủ trì của bà Helen Clark, Tổng Giám đốc Liên hợp quốc, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng nhấn mạnh, ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định quyền bình đẳng nam nữ với quy định “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.” Ngày nay, vấn đề bình đẳng giới và đảm bảo quyền của phụ nữ được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong các nước sớm ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) và nội luật hóa các quy định của Công ước này. Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới, không phân biệt đối xử theo quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực thi pháp luật. Việt Nam cũng ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Bộ luật Lao động sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2012 quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng. Cũng trong thời gian qua, Việt Nam nghiêm túc triển khai thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ trên cả phương diện thúc đẩy hoàn thiện luật pháp và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn. Chính phủ Việt Nam cũng đã xây dựng và hoàn thành báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện công ước này giai đoạn 2004-2010 trên cơ sở kết quả tham vấn rộng rãi với các cơ quan, tổ chức có liên quan và các tầng lớp xã hội. Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện quyền con người theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ cập của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên cho thấy, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến 6 bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao. Điều này đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xóa bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình; khoảng cách về việc làm, thu nhập, địa vị xã hội… Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy. Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ giới. Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao).. Hiện nay phụ nữ dân tộc thiểu số ngày càng được thực hiện quyền bình đẳng từ trong gia đình đến hoạt động xã hội, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam còn gặp nhiều thách thức như tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp còn ít, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Do đó vẫn còn phụ nữ dân tộc thiểu số chưa biết chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số để tiếp cận với lao động chất lượng cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn của các cấp chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế và bản thân chị em phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên, học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Chính phủ Việt Nam đánh giá tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển kinh tế, xã hội và khẳng định bình đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội. Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc làm.../. Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Tháng 4. 24 8. Tư tưởng - triết học - văn hóa no comments Đặng Thị Vân Chi Tư tưởng nữ quyền là một sản phẩm của tư tưởng dân chủ. Ở Việt Nam, tư tưởng nữ quyền đã xuất hiện trong điều kiện nào và đã được nhận thức ra sao? Qua báo chí và các xuất bản phẩm bằng tiếng Việt đầu thế kỷ XX, báo cáo của chúng tôi muốn làm rõ những điều kiện lịch sử của việc xuất hiện tư tưởng nữ quyền ở Việt Nam và sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt Nam cũng như của chính bản thân phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. 1. Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam và những quan điểm đầu tiên về nữ quyền trong những năm trước Chiến tranh Thế giới I Do những điều kiện tự nhiên và xã hội đặc biệt trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam không chỉ có vai trò to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn có vai trò quan trọng trong gia đình, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến, ảnh hưởng của Nho giáo đã tạo nên vị trí ” hai mặt” của phụ nữ trong đời sống gia đình và xã hội. Tính chất ” hai mặt” này thể hiện ở chỗ: một mặt là quyền uy mạnh mẽ trên lý thuyết của người chồng đối với vợ; mặt khác là địa vị tương đối bình đẳng trên thực tế giữa vợ và chồng. Quyền uy trên lý thuyết của người chồng là kết quả của việc nhà nước chấp nhận và ủng hộ gia đình Nho giáo, còn địa vị bình đẳng trên thực tế của phụ nữ được quyết định bởi vai trò quan trọng và những đóng góp của họ trong kinh tế gia đình và xã hội. Chính vị trí ” hai mặt” này đã làm cho phụ nữ trở thành một vấn đề xã hội trong lịch sử và ảnh hưởng tới việc nhận thức tư tưởng nữ quyền trong những năm đầu thế kỷ XX. 7 Trước khi trở thành thuộc địa của Pháp, Việt Nam là một nước phong kiến nông nghiệp tiểu nông tự cấp, và tự túc, phần lớn nhân dân không biết đọc, biết viết, báo chí chưa ra đời, vấn đề phụ nữ biểu hiện tập trung trong các hình thức văn hóa, nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Nội dung của vấn đề phụ nữ là đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, đồng thời phẩn ánh địa vị thấp kém của phụ nữ cũng như khát vọng bình đẳng và tinh thần phản kháng của phụ nữ Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, dưới tác động của các chương trình khai thác thuộc địa, chính sách văn hóa giáo dục của Pháp, ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng trên thế giới, Việt Nam có sự thay đổi trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục… Khi xã hội thay đổi, tất cả đều ảnh hưởng tới phụ nữ. Cùng với sự ra đời của giai cấp công nhân là bộ phận nữ lao động làm thuê có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế. Họ làm việc trong các hầm mỏ, xưởng máy, đồn điền… Số đông phụ nữ còn được đưa vào làm công việc dịch vụ trong các đô thị, làm người bán hàng, đi ở, làm con sen, bồi bếp và thậm chí cả nghề mãi dâm… Bên cạnh đó chính sách văn hóa giáo dục của Pháp cũng tạo nên một tầng lớp phụ nữ trí thức, làm thư ký, làm giáo viên, nhà thơ, nhà báo… phụ nữ trở thành một lực lượng xã hội, một đối tượng quan tâm, tranh thủ của mọi khuynh hướng chính trị. Từ rất sớm báo chí đã đề cập tới vấn đề phụ nữ. Ngay từ năm 1907, trênĐăng Cổ tùng báo, một tờ báo tiếng Việt hiếm hoi lúc bấy giờ đã xuất hiện mục “ Nhời đàn bà” như một diễn đàn của phụ nữ. Ra đời trong bối cảnh của phong trào Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục, những vấn đề phụ nữ trênĐăng cổ tùng báo do đó chủ yếu nhằm phê phán hủ tục trong tang ma, cưới xin.. tục đa thê và những quan niệm không đúng về việc phụ nữ đi học. Năm 1913, trên Đông Dương tạp chí, mục Nhời đàn bà lại xuất hiện. Lần này, trong xu hướng “dung hòa văn hóa Đông Tây”, những vấn đề phụ nữ được mở rộng hơn, không chỉ nhằm phê phán phong tục, tập quán cũ mà còn bao hàm cả việc truyền bá khoa học và văn minh phương Tây. Nhìn chung, mục Nhời Đàn bà trên Đăng cổ tùng báo và Đông Dương tạp chí chủ yếu đều do Nguyễn Văn Vĩnh viết dưới tên phụ nữ Đào Thị Loan. Nguyễn Văn Vĩnh là người Tây học, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây, vì vậy, những vấn đề phụ nữ mà ông nêu ra phản ánh những thay đổi do điều kiện kinh tế xã hội mang lại, cũng như báo động về một lối sống mới, lối sống thị dân tư sản mới bắt đầu biểu hiện qua sinh hoạt của phụ nữ đô thị. Việc nhìn nhận vai trò và vị trí của phụ nữ tuy có tiến bộ khi đánh giá vai trò của phụ nữ trong gia đình, nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó. Sự bình đẳng nam nữ chỉ được hiểu là sự bình đẳng trong vấn đề giáo dục để phụ nữ làm tròn bổn phận của mình đối với gia đình. Những quan niệm về vị trí của phụ nữ vẫn là những quan niệm của lễ giáo phong kiến nhằm ràng buộc phụ nữ vào gia đình, chồng con như quan niệm người phụ nữ phải:” coi mình như một vật mọn trong cuộc đời người đàn ông” lấy việc hi sinh cho chồng con ” làm đạo sung sướng của đàn bà”(1), dùng tài đức của mình để đảm đang” việc nhà, giúp chồng con gây dựng việc lớn lao” (2) Vấn đề nữ quyền bắt đầu được đề cập trên Đông Dương tạp chí trong bàiVề thói trọng nam khinh nữ của ta năm 1914 và bài Sự giáo dục đàn bà con gái của Phạm Quỳnh năm 1916. Cả hai bài đều đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong gia đình, nhưng cho rằng phụ nữ vốn bị đánh giá thấp suy cho cùng chỉ vì không có học thức mà thôi” và quyền bình đẳng nam nữa được hiểu là” phải lưu tâm đến việc giáo dục đàn bà” (3). Cuộc đấu tranh đòi nữ quyền là cuộc đấu tranh” sao cho nữ quyền chúng ta ngày càng nhớn và làm thiên hạ kinh hồn bạt vía chẳng dám khinh chi đến lũ má hồng quần lĩnh chúng ta” (4) 2.Vấn đề nữ quyền và sự ra đời của tờ báo phụ nữ đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam- báo Nữ giới chung năm 1918 Ngay từ năm 1914, giới báo chí Việt Nam đã đề xuất việc ra một tờ báo dành riêng cho phụ nữ. Mặc dù được nhiều người ủng hộ, nhưng phải đến năm 1918, tờ báo dành riêng cho phụ nữ đầu tiên mới ra đời. Đó là báo Nữ giới chung xuất bản số đầu tiên ngày 1/2/1918 tại Sài Gòn do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút. Bà Sương Nguyệt Anh là con gái thứ năm của nhà thơ yêu nước Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu. Mặc dù mục đích của tờ báo được nêu trong phần mở đầu báo là “khởi xướng phong trào nữ học, nó không dám dính líu đến chính trị và không có ý tranh đua với nam giới” (5), nhưng bằng một loạt bài Nghĩa nam nữ bình quyền là gì(6) của Sương Nguyệt Anh, Bàn thêm về chữ nữ quyền ( 7) của cô Bích Đào hay Nữ quyền tự do luận (8) của cô Liễu, vấn đề nữ quyền và quyền bình đẳng nam nữ đã được đề cập đến một cách trực tiếp với nội dung cụ thể: Nữ quyền là gì? và thế nào là quyền bình đẳng nam nữ? Khái niệm nữ quyền hay quyền bình đẳng nam nữ đựơc hầu hết các tác giả của Nữ giới chung cho rằng có nguồn gốc từ phương tây và do ảnh hưởng của các sách Tân thư của các nhà cải cách Trung Quốc. Tuy nhiên cũng có ý kiến xuất phát từ vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử cũng như địa vị tương đối được tôn trọng của họ trong gia đình nên cho rằng nữ quyền đã có mầm mống từ trong lịch sử Việt Nam. Nhưng rõ ràng sự tôn trọng có tính chất tập quán này hoàn toàn không phải là sự bình đẳng về chính trị và bình đẳng trước pháp luật mà người phương Tây chủ trương. Do đó các tác giả của Nữ giới chung trở nên mâu thuẫn và khó hiểu trong khi một mặt họ hưởng ứng quan niệm phương Tây về sự bình đẳng và giáo dục cho phụ nữ, mặt khác lại né tránh ý nghĩa chính trị của khái niệm này và vẫn bám chặt lấy quan niệm Nho giáo về trật tự đẳng cấp trong xã hội. Theo bà Sương Nguyệt Anh, quyền bình đẳng nam nữ có nghĩa là “phụ nữ có cùng lợi ích như nam giới”, phụ nữ cũng thông minh như nam giới, nhưng sự bình đẳng về trí thức khác sự giống nhau về vai trò và đối với phụ nữ “việc trông coi nhà cửa, giúp đỡ chồng, dạy dỗ con cái là lẽ tự nhiên.” (9) Nữ quyền đối với phần đông người Việt Nam thời kỳ này dù sao cũng vẫn là một khái niệm xa lạ và mới mẻ. Các tác giả của Nữ giới chung đã cố gắng làm rõ khái niệm này, nhưng dường như không mấy kết quả do quá trình hấp thụ và diễn dịch khái niệm từ tiếng nước ngoài, nhất là nó lại được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo vị trí của người dịch trong bậc thang xã hội. Mặc dù vậy, có thể nói đây là lần đầu tiên trên báo chí Việt Nam, vấn đề nữ quyền được đưa ra thảo luận một cách trực tiếp, cũng như vai trò của bà Sương Nguyệt Anh với tư cách là chủ bút, vấn đề nữ quyền trên Nữ giới chung đã thực sự do chính phụ nữ nhận thức và lên tiếng. 8 3. Sự phát triển của quá trình nhận thức vấn đề nữ quyền trong những năm sau Chiến tranh Thế giới I Sau Chiến tranh Thế giới I, phong trào nữ quyền của phụ nữ châu Âu phát triển mạnh mẽ. Ảnh hưởng của phong trào này qua báo chí cũng tác động tới xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, Quy chế về giáo dục Đông Dương ban hành năm 1917 đã làm cho dư luận xã hội Việt Nam đầu những năm 1920 sôi nổi bàn về nữ học, nữ quyền. Các quan chức giáo dục của chính quyền thực dân như Tôn Thất Đàm, Trịnh Thu Tâm, Nguyễn Đình Tỵ, Trần Thúc Cáp, Vũ Ngọc Liên… và các học giả tên tuổi như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Phạm Ngọc Thiều… kể cả phụ nữ như bà Đạm Phương đều viết báo hoặc diễn thuyết về vấn đề này. Mặc dù đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong lịch sử, các tác giả này cũng phải thừa nhận phụ nữ Việt Nam vẫn phải chịu một địa vị thấp kém, bị coi là “vị thành niên”, “chung thân là vị thành niên”. Sự bất bình đẳng này là sự bất bình đẳng trong vấn đề giáo dục mà nguyên nhân của nó chỉ đơn giản là vì “nước ta từ xưa câu nệ về mấy câu sáo ngữ sách Tầu, nói đàn bà chẳng khôn khéo gì… là giống phụ thuộc đàn ông” (10), hoặc “vì tin vào thuyết âm dương, đàn bà là nhu phải thuận cương, phải tam tòng nên không chú ý đến dạy dỗ” (11). Do đó, giáo dục phụ nữ được coi là biện pháp để thực hiện bình đẳng nam nữ. Vì quan niệm vị trí của phụ nữ là ở trong gia đình nên nội dung giáo dục cũng chủ yếu nhằm giúp phụ nữ làm tốt việc nội trợ, “con gái phải học để nhân cách hoàn toàn” (12) để “hiểu được tam tòng, tứ đức”. Quyền “bình đẳng về chính trị” bị coi là ” một ảo tưởng” và ” bình đẳng tự do là quyền của đàn ông, đàn bà dùng không có lợi” (13) Đến những năm 1930, tình hình xã hội, tư tưởng Việt Nam có những thay đổi quan trọng. Chính sách Khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp sau chiến tranh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời, giai cấp tiểu tư sản thành thị ngày một đông đảo. Đặc biệt chính sách chính trị của Pháp nhằm xây dựng một tầng lớp thượng lưu mới làm chỗ dựa cho Pháp đã làm xuất hiện khuynh hướng chính trị quốc gia cải lương. Bên cạnh đó các phong trào đấu tranh sôi nổi của các lực lượng xã hội phát triển ngày một phong phú, cũng như sự khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với khuynh hướng chính trị dân tộc xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới các tầng lớp nhân dân. Về mặt văn hóa tư tưởng, chính sách văn hóa giáo dục của Pháp, cụ thể là Học chính Tổng quy ban hành năm 1917 trải qua hơn 10 năm thực hiện đã đưa lại kết quả: khoảng 35 vạn trí thức Tây học mà chế độ giáo dục lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ giảng dạy chính trong nhà trường đã làm cho ảnh hưởng của văn hóa Pháp trở nên sâu sắc hơn. Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã viết:” Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu ghét giận hờn nhất nhất như ngày trước.” (14) Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của phong trào nữ quyền, giải phóng phụ nữ, phong trào Âu hóa cũng như phong trào Thơ mới và tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn trong những năm 1930. Đặc biệt vấn đề nữ quyền, giải phóng phụ nữ, phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào trở thành vấn đề lưu tâm của xã hội. Hàng loạt tờ báo phụ nữ được xuất bản ở khắp 3 kỳ như Phụ nữ Thời đàm ( 1930-1934) ở Hà Nội, Phụ nữ Tân tiến ( 1932-1934) ở Huế, Phụ nữ tân văn (1929-1935) ở Sài Gòn. Bên cạnh đó là sự xuất hiện các sách chuyên khảo về phụ nữ như Nam nữ bình quyền của Đặng Văn Bẩy ở Sài Gòn năm 1928,Vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu năm 1929, Nam quốc nữ lưu, Nữ lưu văn học sử của Sở Cuồng- Lê Dư năm 1929… Tại các Hội chợ Đêm ở Sài Gòn, ở Huế, trên các diễn đàn công khai từ Nam ra Bắc, những phụ nữ trí thức như các cô Nguyễn Thị Kiêm, Phan Thị Nga… đã đứng ra diễn thuyết về các vấn đề: “Có nên tự do kết hôn hay không?” , ” Chế độ đa thê”, ” Một ngày của một người phụ nữ tân tiến, ” Phụ nữ với thể dục”, ” Phụ nữ giải phóng”... các tổ chức phụ nữ như Phụ nữ giải phóng, Hội nữ quyền, Nữ công học hội được tổ chức ở nhiều nơi với các cấp độ khác nhau của mục tiêu vận động phụ nữ. Nữ quyền và giải phóng phụ nữ trở thành những những khẩu hiệu gây ấn tượng đến mức bị lạm dụng trong cả việc quảng cáo thuốc. Ví dụ trên báoPhụ nữ tân văn nhà thuốc Đầu rồng đã đăng quảng cáo:” chị em phụ nữ đừng lo rồi đây không được giải phóng, đã có thuốc tốt trị các bệnh… giúp cho chị em mạnh khỏe để lo vấn đề giải phóng” (15). Thời kì này nội dung của khái niệm nữ quyền và giải phóng phụ nữ không còn giới hạn trong quan niệm coi sự bất bình đẳng nam nữ chỉ là sự bất bình đẳng trong vấn đề giáo dục nữa mà đưpợc bao gồm cả quyền bình đẳng về chính trị, quyền bầu cử, ứng cử, quyền lao động và tự do kết hôn với người mình yêu. Nhìn chung, việc nhận thức vấn đề nữ quyền trong những năm 1930, một mặt chịu ảnh hưởng bởi vị trí ” hai mặt” của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, mặt khác phản ánh quan điểm và quyền lợi giai cấp của các nhóm xã hội khác nhau và đã hình thành một số khuynh hướng. Trước hết, đó là khuynh hướng ủng hộ nữ quyền. Những người ủng hộ nữ quyền như Nguyễn Văn Bá, Huỳnh Thúc Kháng, Cao Văn Chánh, Trịnh Đình Rư (16)… cho rằng” Quyền bình đẳng nam nữ là một tư tưởng tiến bộ (17), là ” hợp với nhân đạo và công lý” (18). Nhưng nữ quyền gắn với quyền chính trị, quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ thì hầu hết họ đều né tránh mà chỉ nhấn mạnh vị trí của phụ nữ không chỉ trong gia đình mà phụ nữ cần tham gia các công tác xã hội. Hầu hết những người này đều thuộc tầng lớp trên, do đó chỉ nhận thấy thân phận phụ thuộc của một số phụ nữ trong các gia đình tầng lớp trên, luôn sống trong điều kiện kín cổng cao tường , không lao động, không sống tự lập và chịu nhiều ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến. Vì vậy họ chủ trương giáo dục phụ nữ và phụ nữ chức nghiệp là điều kiện để thực hiện nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Trên báo Phụ nữ Tân văn vì thế xuất hiện nhiều bài viết về vấn đề nghề nghiệp cho phụ nữ như : “ chị em ta nên học những nghề để mưu tự lập thân” ( 19), ” nghĩa vụ của chị em ta là phảo lo cho có nghề nghiệp” (20)… Khuynh hướng này được sự ủng hộ của nhiều phụ nữ trí thức, phụ nữ tư sản và tiểu tư sản như Vân Đài, Đạm Phương, bà Nguyễn Đức Nhuận, Nguyễn Thị Kiêm (21)… Trái với khuynh hướng ủng hộ nữ quyền là khuynh hướng phê bình nữ quyền. Phê bình nữ quyền không chỉ là quan điểm của những người chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo như Phạm Quỳnh, Tôn Thất Đàm, mà ngay cả những trí thức Tây học tư sản như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long,…(22) mặc dù biết quyền bình đẳng nam nữ là một tư tưởng tiến bộ, nhưng vì quyền lợi chính trị cá nhân họ cũng phản đối nữ quyền. Nguễn Phan Long cho rằng “ không cần 9 giải phóng phụ nữ vì họ đâu có phải là nô lệ” ( 23). Riêng Nguyễn Văn Vĩnh xuất phát từ địa vị tương đối bình đẳng trên thực tế của phần lớn phụ nữ bình dân trong gia đình cũng như thân phận khá tự do của họ ( tự do đi lại, buôn bán, lao động…) thì nói phụ nữ Việt Nam đòi nữ quyền như phụ nữ Châu Âu là đòi ngược (24). Hoặc nói thẳng ra như Bùi Quang Chiêu là “giúp phụ nữ đòi bình quyền là gây thêm kẻ phản đối” và “họ sẽ phản đối ta từ trong gia đình tới ngoài xã hội” vì vậy “không nên giúp họ trở thành kẻ phản đối ta” (25) Phản đối nữ quyền họ còn phản đối cả việc phụ nữ đi làm và tham gia công tác xã hội. Bà Phan Văn Gia cho rằng: phụ nữ đi làm dù thế nào cũng có hại “vì sẽ làm nạn thất nghiệp tăng lên do tranh chỗ làm của đàn ông hay sẽ làm cho gia đình bị bỏ phế vì không có người chăm sóc… gia đình là gốc của xã hội mà gia đình không vững thì xã hội sẽ tan. ..” Đây cũng là quan niệm của Ngô thúc Đích và Tôn Thất Đàn… Ngoài hai khuynh hướng trên còn có một khuynh hướng khác nhận thức được thân phận nô lệ của người Việt Nam dưới thời Pháp thuộc nên chủ trương quay sang vận động giải phóng phụ nữ khỏi ràng buộc của lễ giáo phong kiến, ví dụ như Diệp Văn Kỳ cho rằng: “ người Việt Nam không phải là kẻ làm luật mà chỉ là kẻ chịu luật”, “ngay nam giới cũng chỉ có quyền nằm canh đóng thuế” thì” đối với phụ nữ chỉ chỉ còn chuyện giải phóng, giải phóng ở phong tục, giải phóng ở gia đình, giải phóng ở xã hội và hoàn toàn giải phóng” (27). Hay như Phan Khôi vì ” mình không có quyền chính trị và quyền giáo dục trong tay thì có ý kiến chi cũng là vô dụng cả” nên ông tập trung “chỉ trích Khổng giáo, đả phá cái chế độ đại gia đình”, vì chị em phụ nữ mà “xóa cái luật nam tôn, nữ ty, giảng lại cái nghĩa chữ trinh, bênh vực sự cải giá là vô tội” (28) qua một loạt bài trên báo Phụ nữ tân văn, báo Thần Chung và báo Trung lập… Trong khi đó nhóm các nhà văn, nhà báo tự do như Nhất Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thạch Lam…cho ra đời Tự lực văn đoàn với một loạt tiểu thuyết luận đề đề cao con người cá nhân, chống lại lễ giáo phong kiến. Đặc biệt các nhân vật nữ của họ là những người khao khát thoát khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khao khát hạnh phúc, muốn được tự định đoạt cuộc sống của mình như Nhung trong Lạnh lùng, Loan trong Đôi bạn,Trâm trong Nắng thu…(29) Dưới danh nghĩa đòi nữ quyền, giải phóng phụ nữ, một số phụ nữ thành thị sa vào cờ bạc, bói toán, hầu đồng…. Đặc biệt các cô gái Tây học ( theo mới) mà lối sống và quan niệm của họ là một thách thức đối với những quan niệm đạo đức và đe dọa tính bền vững của gia đình truyền thống. Do đó, một số người như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu mặc dù ủng hộ nữ quyền đã phải lên tiếng phê phán: “ vứt hết kim tiền máu mủ vì phấn sáp , nước bông… mang được lốt Madam thời xem đất nước quê hương không bằng một sợi tóc, thê mà nay nữ quyền, mai nữ quyền, kêu rêu, xao xác, phụ nữ như thế còn vấn đề gì mà nói nữa đâu“.(30) Đầu những năm 1930, trong khi trên sách báo công khai, những trí thức tư sản, ngay cả những người ủng hộ nữ quyền và giải phóng phụ nữ cũng đều tách vấn đề phụ nữ ra khỏi vấn đề xã hội, cũng như né tránh ý nghĩa chính trị của khái niệm này và không ai chỉ ra được trong điều kiện của một nước thuộc địa như Việt Nam, phụ nữ muốn đòi nữ quyền, giải phóng phụ nữ, trước hết phải có một tiền đề là nước nhà độc lập, thì những người cộng sản là những người duy nhất đã gắn vấn đề giải phóng phụ nữ với giải phóng dân tộc. Trong Luận cương chính trị của Đảng cộng sản năm 1930 , nam nữ bình quyền là một trong mười chủ trương lớn của Đảng. và ngay tại Hội ngghị trung ương lần thứ nhất của Đảng tháng 10 năm 1930, Đảng đã raNghị quyết về vận động phụ nữ và giải phóng dân tộc: “lực lượng phụ nữ là một lực lượng rất trọng yếu. nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi được”, cũng như nếu phụ nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt mục đích phụ nữ giải phóng được” (31). Cuộc vận động phụ nữ của Đảng cộng sản phát triển, nhiều nữ Đảng viên cộng sản đã đi vào vận động phụ nữ lao động công nông. Mặt khác, các nữ trí thức, các nhà báo nữ cộng sản đã làm cho vấn đề phụ nữ trên báo chí tư sản như Phụ nữ tân vănnhững năm 1934-1935 trở nên gần gũi hơn đối với phụ nữ lao động và việc nhận thức vấn đề nữ quyền trở nên thực tế hơn và đúng hướng hơn. Đó là vấn đề của phần đông phụ nữ đang lao động trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền của thực dân Pháp, vấn đề chế độ tiền lương, điều kiện làm việc, chế độ bảo hiểnm và nhân phẩm phụ nữ… Trên báo Phụ nữ tân văn thời kỳ này còn xuất hiện nhiều bài báo có tính tranh đấu mạnh mẽ. Bên cạnh việc phê phán sự “giản đơn”, “hão huyền” phi thực tế của việc nhận thức vấn đề nữ quyền. bằng những dẫn chứng lấy từ báo chí về những vụ việc phụ nữ bị chồng đánh chết, tớ gái vì sợ ông chủ mà tự tử, các cô thiếu nữ tự tử vì bị cha mẹ ép duyên…các bài báo đã khẳng định: ” đàn bà khổ vì luật pháp, vì lễ giáo, chế độ làm việc lương ít, không được học tập, không được tổ chức, không được bảo hộ khi sinh nở và không có mảy may quyền gì trong sự tổ chức chính trị kinh tế, xã hội xứ này” (32). Do đó “phụ nữ cần tranh đấu. Tranh đấu chống ai? chống cái chế độ, chống tất cả cái điều kiện gây nên khổ thống và những ai cùng hưởng nhờ các điều kiện ấy” . Trong cuộc đấu tranh này, phụ nữ có thể đoàn kết cùng nam giới đấu tranh vì những mục tiêu chung. Như vậy cuộc đấu tranh của phụ nữ lúc này đã vượt ra khỏi phạm vi gia đình mà trở thành cuộc đấu tranh mang tính cách mạng xã hội. Kết luận 1. Ở Việt Nam, vấn đề phụ nữ được quan tâm từ khá sớm, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, năm 1907 trên Đăng cổ tùng báo đã có mục Nhời đàn bà như một diễn đàn của phụ nữ và cho đến năm 1920 thì như nhận xét của nhà Việt Nam học người Úc David Marr: “ Phụ nữ và xã hội đã trở thành điểm tập trung chú ý mà các vấn đề khác thường xoay quanh nó. Hàng trăm cuốn sách, tập sách nhỏ và bài báo đã được xuất bản về mọi mặt. Phụ nữ trở nên có ý thức rằng họ là một nhóm người trong xã hội với các nỗi bất bình và yêu cầu riêng” (34). Điều này phản ánh vai trò quan trọng và những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam trong xã hội. 2. Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, trải qua quá trình nhận thức từ lĩnh vực văn hóa- nữ học, giáo dục phụ nữ, sang lĩnh vực chính trị xã hội- phụ nữ và quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham chính, giải phóng phụ nữ… Đến những năm 1930, dưới ảnh hưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, vấn đề nữ quyền được gắn với vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp. 3. Vấn đề phụ nữ không chỉ là vấn đề xã hội chung chung, mà đã nhanh chóng trở thành sự tự nhận thức của chính bản thân phụ nữ với sự xuất hiện rất sớm của tờ báo dành riêng cho phụ nữ, tờ Nữ giới chung năm 1918, cũng như sự phát triển của dòng báo phụ nữ trong những năm 1930 với sự tham gia của các nhà báo nữ như Sương Nguyệt Ánh, Đạm Phương, Nguyễn Thị Kiêm, Phạm Thị Nga, Vân Đài, Huỳnh Lan… 10 4. Sự tự nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề nữ quyền cũng như sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt Nam đã từng bước mang lại sự thay đổi thực sự cho phụ nữ cũng như sự phát triển của phong trào phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, vào phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ, giải phóng dân tộc và góp phần vào thành công của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Vân Chi Chú thích 1. Đông Dương tạp chí, số ra ngày 5.2.1914, tr4 2. Đông Dương tạp chí, số ra ngày 12.2.1914, tr6 3,4 Đông Dương tạp chí, số ra ngày 19.2. 1914, tr6 5. Nữ giới chung số ra ngày 1.2.1918 6. Nữ giới chung số ra ngày 22.2.1918 7,8. Nữ giới chung số ra ngày 15.3.1918 9. Nữ giới chung số ra ngày 22.2.1918 10. Nam Phong số ra tháng 2.1918 11. Nam Phong số ra tháng 4.1924, tr264 12. Nam Phong số ra tháng 5.1919, tr397 13. Nam Phong số ra tháng 6.1932, tr571 14. Hoài ThanhHoài Chân, Thi nhân Việt Nam (1932-1941), Văn học 1997, tr17 15. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 30.8.1934, tr22 16. Nguyễn văn Báchủ nhiệm báo Thần Chung Huỳnh Thúc Kháng, chủ bút báo Tiếng Dân Cao văn Chánh, nhà báo của báo VCông Luận, Nam kỳ kinh tế báo Trịnh Đình rư, thường viết bài cho báo Phụ nữ Tân văn 17.Phụ nữ tân văn, số ra ngày 16.5.1929, tr10 18. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 27.6.1929 tr10 19. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 4.7.1929, tr1 20. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 20.3.1930, tr1 21. Bà Nguyễ Đức Nhuận, chủ nhiệm báo Phụ nữ tân văn Bà Đạm Phương, chủ nhiệm Nữ công học hội Huế 22. Phạm Quỳnh, Chủ bút báo Nam Phong, Thương thư Bộ học Nguyễn Phan long, chủ nhiệm báo Đuốc Nhà Nam Nguyễn Văn Vĩnh, chủ bút Đông Dương tạp chí, Trung Bắc Tân văn Bùi Quang Chiêu, lãnh tụ Đảng Lập hiến, giám đốc tờ Diễn đàn Đông Dương 23. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 11.7.1929 24. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 23.5.1929. tr9 25. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 20.6.1929, tr9 26. Diệp Văn Kỳ, chủ bút báo Thần Chung 27. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 1.8.1929, tr9 28. Đông Dương tạp chí số 31.1937 29. Nhất Linh, Lạnh lùng, Đời Nay, H, 1937 Nhất Linh, Đôi Bạn, Đởi nay, H, 1938 Nhất Linh, Nắng thu, Đời nay, H, 1948 30. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 4.7.1929, tr10 31. Nguyễn Thị ThậpLịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, t1, Phụ nữ, H, 1981, tr174 32. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 27.9.1934, tr5 33. Phụ nữ tân văn, số ra ngày 18.10.1934, tr6 34. Essays into Vietnamese pasts. Cornell University, Inthaca New York. 1995, tr75 Bài tham dự Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất. Rút từ Việt Nam học Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15-17/7/1998, t4, Nxb.Thế giới 2001. Giáo dục và phong trào phụ nữ ở Bắc Kỳ trước 1945 – nữ quyền không có gương mặt phụ nữ Tháng 5. 21 8. Tư tưởng - triết học - văn hóa no comments Trần Thị Phương Hoa Bài viết này trình bày về một trong những mảng chuyển động của xã hội Bắc Kỳ trước 1945: đó là sự xuất hiện rầm rộ của các khái niệm quyền cho phụ nữ (women’s right) và nữ quyền (feminism). Hiện tượng xã hội này được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố, trong đó nổi bật nhất là việc mở trường học cho nữ, sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, ảnh hưởng của phong trào nữ quyền trên thế giới. Tuy nhiên, bất chấp sự bùng nổ của hai tiếng “nữ quyền” trên nhiều diễn đàn, phụ nữ Bắc Kỳ đã bỏ lỡ cơ hội để tự mình giương cao ngọn cờ “nữ quyền” và có thể nói, họ đã thất bại trong việc tận dụng trào 11 lưu “nữ quyền” để tự thể hiện bản thân và củng cố vị thế của mình trong xã hội. Mặc dù khái niệm “nữ quyền” (feminism) trở nên quen thuộc trong xã hội Bắc Kỳ kể từ giữa những năm 1920, phụ nữ vẫn đứng ngoài trào lưu này. I.Những cơ hội 1.Khái niệm “nữ quyền” của Nguyễn Văn Vĩnh Trong tiếng Việt, khái niệm “quyền cho phụ nữ” (women’s right) và “nữ quyền” (feminism) được gọi như nhau. David Marr đã bàn đến “quyền cho phụ nữ” trong bài viết khá chi tiết “The 1920s Women’s Rights Debates in Vietnam”[1] (Tranh luận về quyền phụ nữ ở Việt Nam những năm 1920), trong đó ông nêu tên tuổi hai người là Phan Bội Châu và Phạm Quỳnh là những đại diện tiêu biểu sớm lên tiếng về vấn đề quyền phụ nữ ở Bắc Kỳ. Trên thực tế, tờ báo sớm nhất bàn đến vấn đề quyền phụ nữ ở Bắc Kỳ là Đông Cổ Tùng báo và sau đó là Đông Dương tạp chí, đều do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Ở số báo thứ 5, Đông Dương tạp chí cho ra mục “Nhời đàn bà” (1913), tiếp theo “Nhời đàn bà” của Đăng Cổ Tùng Báo. Mặc dù nấp dưới bút danh nữ Đào Thị Loan, chủ chuyên mục chính là Nguyễn Văn Vĩnh. Ông ra chuyên mục này nhắm tới hai mục tiêu: 1) tăng lượng độc giả nữ cho tờ báo; 2) khuyến khích phụ nữ viết về phụ nữ. Mục tiêu thứ hai của ông gắn liền với khái niệm “Nữ quyền”, lần đầu tiên xuất hiện ở số 32 (1913) của Đông Dương tạp chí. Trong mục này có đoạn: “biết bao nhiêu lòng nhân ái, biết bao nhiêu bụng yêu thương Nữ-quyền chúng ta em vẫn hết sức mong mỏi… thế thì chị phải cho chúng em nói mấy chị, người khôn nói lắm tất cũng có khi nhầm, người ngu nói lắm tất cũng có điều hay; em sân Trình cửa Khổng và mực lam bút sắt mấy thu đông, hồ dễ em không biết đạo lý chi, mà phải mượn đến mặt các ông ong bướm hay là mấy bác đồ cùn để đưa nhời thăm chị hay sao?” (Đông Dương tạp chí, 1913). Nguyễn Văn Vĩnh đã gửi thông điệp: “nữ quyền” chính là sự lên tiếng của bản thân phụ nữ về các vấn đề của mình. Khái niệm “Nữ quyền” mà ông khơi lên đã phát động một trào lưu bàn về các quyền của phụ nữ, nhưng mục tiêu “phụ nữ nói về phụ nữ” mà Nguyễn Văn Vĩnh đề xuất liệu có được thực hiện? Dưới đây sẽ là một vài cơ hội mà phụ nữ Bắc Kỳ có được để thực hiện “nữ quyền”. 2.Giáo dục nữ ở Bắc Kỳ Bài đầu tiên của mục Nhời đàn bà có nêu lên nguyên nhân căn cốt cho cuộc vận động “nữ quyền”, đó chính là việc phụ nữ được đến trường học “Nhờ Nhà nước mở nữ học đường, để cho lũ đào tơ được tập tành kim chỉ bút nghiên, ..giá có được ăn nói thì cũng khả dĩ có kinh có điển được, không phải bàn hú họa như năm xưa nữa” (Đông Dương tạp chí, 1913). Xã hội Bắc Kỳ vốn chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo với “lời nguyền” của Khổng Tử “nữ nhi nan giáo” (phụ nữ khó dạy). Trên Nam Phong tạp chí năm 1917, ông Phạm Quỳnh đã khái quát về vị trí của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam như sau “người đàn bà nước ta từ xưa đến nay vẫn được cái địa vị xứng đáng trong xã hội, mà cũng không bao giờ phụ tiếng gái lành, vợ hiền, mẹ từ, là gương tốt nghìn năm của bọn nữ lưu..”. Tuy nhiên, ông cũng giải thích vì sao người phụ nữ Việt Nam dù không bị bạc đãi như ở nhiều nước khác, riêng đối với sự học lại phải đứng ngoài “Nhưng các cụ ta ngày xưa cho đàn bà là kém hẳn đàn ông, không thể dạy cho bằng đàn ông được. Không những thế mà lại cũng không cần phải dạy nữa, vì âm vốn phải tùy dương, nhu vốn phải thuận cương..đàn bà nhất sinh gồm trong ba chữ tòng; dạy cho lắm, học cho lắm cũng là thuộc về vô ích. Nói sự giáo dục đàn bà con gái thì nước ta tuyệt nhiên không có. Không phải rằng ngày xưa không có lắm bà hay chữ, lắm bực tài tình, nhưng đó là những người lỗi lạc xuất chúng, không thể kể được”[2]. Rõ ràng trong xã hội Việt Nam xưa, đàn bà bị coi là không đủ phẩm chất để theo học “chữ Thánh hiền”. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam ngay từ khi còn bé đã được dạy dỗ trong gia đình để sao cho có “tứ đức”: công, dung, ngôn, hạnh, trong đó công và ngôn là những thứ được chỉ bảo hàng.ngày. Thường người mẹ trực tiếp dạy con, nhưng uy quyền và học vấn của ông bố mới là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến cách dạy con gái trong gia đình. Ngoài ra, gia cảnh giàu hay nghèo cũng tác động đến “công” và “ngôn” của con gái. Đông Dương tạp chí mô tả sự khác biệt “nhà giàu nhà quê thì mới biết đưa thoi kéo chỉ. Còn nhà tầm thường thì nữ công là nuôi lợn, nuôi gà, giã gạo xay lúa, dần, sàng tấm cám, rửa bát đĩa, giặt quần áo cho cả nhà. Ngôn là trình thưa vâng dạ, nói năng từ tốn. Đó là sách dạy, nhưng cái từ tốn ấy chỉ có những nhà danh giá, con gái mới ăn nói vào khuôn phép. Con nhà hèn kém thì từ các cụ già trở xuống đến đứa trẻ con, hàng ngày ăn nói với nhau chỉ dùng những tiếng không có chữ nào viết được”. Việc mở các trường học công cộng giành cho nữ sinh đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong xã hội Bắc Kỳ nói chung và đời sống phụ nữ nói riêng. Những trường học đầu tiên giành cho nữ là trường cho trẻ em Pháp. Theo báo cáo về các trường học năm 1887 của Dumoutier, thanh tra và nhà tổ chức giáo dục Pháp-Việt, ở Bắc Kỳ có 4 trường Tiểu học nữ: 2 ở Hà Nội, 1 ở Hải Phòng và 1 ở Nam Định. Phần lớn học sinh là người Pháp, chỉ có chừng 30 nữ sinh người Việt, đi học với thái độ rất dè dặt. Dumoutier cho rằng thái độ rụt rè này là do trường dạy toàn chữ Pháp và làm tính. Ông suy luận rằng nếu trường chú trọng dạy các môn nữ công thì có lẽ thu hút nhiều học sinh hơn. 12 Năm 1906, Đông Kinh nghĩa thục mở các lớp học, trong đó có cả lớp học cho nữ. Nguyễn Hiến Lê kể lại rằng nhóm sáng lập Đông Kinh nghĩa thục đã chọn cô Năm (con gái thứ năm của Lương Văn Can, em của Lương Trúc Đàm) làm giáo viên lớp nữ vì bà biết Quốc ngữ. Khi mở trường, trong ngôi nhà số 4 phố Hàng Đào có hai lớp học: một nam, một nữ, tổng cộng khoảng sáu, bảy chục, phần đông là con cháu hội viên. Nguyễn Hiến Lê nhận xét “Thời đó, mở lớp học cho nữ sinh như vậy là một cải cách lớn: các cụ chẳng những muốn bài trừ tư tưởng nam nữ tôn ti của cổ nhân, mà còn muốn cho phụ nữ phải đóng một vai trò trong xã hội, tạo cho họ một nhân sinh quan mới, một lối sống mới”[3]. Ngoài vài lời giới thiệu sơ qua của Nguyễn Hiến Lê, có rất ít tài liệu mô tả kỹ về lớp học nữ này. Năm 1910, trường công lập Pháp-Việt giành cho nữ sinh được mở ở Hà Nội. Đông Dương tạp chí mô tả những ngày đầu tiên của trường “Ở trường hàng Trống (lập năm 1910) có bà đầm làm đốc học, một vài cô giáo Sài Gòn và hai ông giáo đã cao tuổi dạy Pháp tự. Bà đốc thì chỉnh đốn lớp học, chỉ bảo cho các ông giáo và bà giáo những khuôn phép dạy học theo lối tân học, các cô giáo thì dạy Quốc ngữ và đánh vần, còn những bài chữ Tây là phận sự của các ông giáo. Lại mỗi tuần có một vài giờ chữ Nho, giao cho một ông giáo nho ở trường Pháp-Việt Hà Nội. Số học trò mỗi ngày mỗi đông cho nên nhà nước đổi trường ra phố hàng Cót. Hai kỳ thi lấy bằng Tiểu học mới rồi[4] đã có dăm ba cô được đỗ, một cô đỗ rất cao đè cả năm sáu trăm các cậu”[5] Thành công của trường nữ học ở Hà Nội khiến chính quyền Pháp muốn mở thêm trường nữ ở các tỉnh Bắc Kỳ. Trong công điện ngày 11-4-1910, Thống sứ Bắc Kỳ (Simoni) yêu cầu Công sứ các tỉnh kiếm nguồn tài chính để xây trường nữ học. Bức điện này có đoạn “Trường Pháp-Việt cho nữ sinh mới mở ở Hà Nội nhận cả học sinh các tỉnh đến học. Hiện nay số học sinh quá đông khiến trường phải ra yêu cầu tuyển chọn. Đề nghị Công sứ các tỉnh tìm nguồn kinh phí từ ngân sách tỉnh để xây trường nữ”. Tới lượt mình, các Công sứ yêu cầu các Tổng đốc khảo sát nhu cầu mở trường nữ của dân sở tại. Nhiều Tổng đốc đã tỏ ý bất hợp tác trong việc xây trường nữ, trong đó có Tổng đốc Hà Đông. Trong thư đề ngày 28-41910, Tổng đốc Hà Đông viết (bằng cả chữ Quốc ngữ và chữ Pháp) “Tôi xét thấy từ trước đến nay, những con gái nhà dân không cho đi học, chỉ có nhà quan, hay là nhà giàu có cho con gái học, thì bố dạy con hoặc có nhà nuôi thầy, không có lập nhà trường. Tự khi nhà nước mở mang sự học thì những nhà giàu theo cách văn minh có kẻ cho con gái học chữ viết. Con gái ở Hà Nội và Hải Phòng nhiều người biết, nhưng ở chỗ tỉnh này (Hà Đông) nếu mà lập trường con gái thì không mấy người đến học”. Mặc dù có những ý kiến trái chiều, các trường nữ học Pháp-Việt đã được mở ở nhiều tỉnh, trong đó có Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Ninh Bình, Hưng Yên. Năm 1913, số trường nữ ở Bắc Kỳ đã là 9 với 647 học sinh. Trường Hà Nội (école Brieux) đông nhất, có 324, tiếp sau là trường Nam Định với 111 học sinh và trường Hải Phòng đứng thứ ba với số học sinh là 109. Trong khoảng thời gian từ năm 1913 đến năm 1940, số học sinh nữ ở Bắc Kỳ đã tăng 26 lần. Tuy nhiên, luôn có khoảng cách lớn giữa số học sinh nam và nữ, thường là tỉ lệ 10:1. Khoảng cách lớn nhất được ghi nhận năm 1918 khi các trường Nho giáo chuyển đổi thành trường Pháp-Việt, làm tăng số học sinh nam trường Pháp-Việt từ 9.292 năm 1917 lên 34.700 năm 1918, trong khi đó, cùng vào thời gian này, số học sinh nữ tăng rất ít do các trường Nho giáo không có học sinh nữ. Hình 1: số lượng học sinh nữ và nam ở trường Pháp-Việt công lập Bắc Kỳ (1913-1940) Trường học đã tạo ra một môi trường xã hội mới cho phụ nữ để chứng tỏ bản thân mình. Từ chỗ học những môn học riêng cho nữ như nữ công gia chánh, vệ sinh, quản lý gia đình, phụ nữ được học những môn học, dự các kỳ thi tương tự như nam giới. Điều này khiến người phụ nữ thêm tự tin rằng họ có khả năng học tập, và trường học không còn là độc quyền của riêng đàn ông. Đây là một buớc ngoặt đầu tiên trong cuộc đấu tranh tự khẳng định mình của phụ nữ. Ngoài ra, việc mở trường nữ tạo ra nhu cầu về giáo viên nữ. Kể từ năm 1913, nhà nước Bảo hộ mở thêm một ngạch công chức mới là nữ giáo viên bản xứ. Các cô giáo được bổ nhiệm dạy hoặc làm đốc học tại các trường nữ Pháp-Việt. Họ thực hiện các nhiệm vụ như các nam đồng nghiệp, trong đó có cả việc thuyên chuyển công tác từ nơi này sang nơi khác. 3.Sự bùng nổ của báo chí David Marr đã thực hiện một nghiên cứu sâu về những tranh luận báo chí xung quanh vấn đề phụ nữ Việt Nam cho đến năm 1930. Theo tác giả này, mặc dù các định hướng tranh luận là không rõ ràng “những người tham gia tranh luận đang dò dẫm tìm kiếm những định nghĩa và quan điểm mới” nhưng có thể chia các ý kiến ra làm ba nhóm: bảo thủ, ôn hòa, cấp tiến[6]. Ở bài viết này, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những tờ báo tập trung vào lĩnh vực giáo dục cho phụ nữ. Những tờ báo đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, ngoài ra một số báo khác đăng tải nhiều bài liên quan là Trung Bắc tân văn, Thực nghiệp dân báo. Đặc biệt, trong làng báo Việt Nam đã có những tờ báo giành riêng cho phụ nữ như Nữ giới chung (1918), Phụ nữ tân văn (1929-1935), Phụ nữ thời đàm (1930-1934), Đàn bà, Việt Nữ. Ở Bắc Kỳ, Phụ nữ thời đàm có tên tuổi hơn cả. Năm 1913, khi trường nữ Pháp-Việt ở Hà Nội có học sinh tốt nghiệp khóa đầu và xuất hiện thêm nhiều trường nữ ở các tỉnh, báo chí bắt đầu chú trọng tới lượng đọc giả nữ do số phụ nữ biết đọc chữ Quốc ngữ tăng đáng kể. Tờ Đông Dương tạp chí có chuyên mục Nhời đàn bà với hai “nhân vật chính” là những phụ nữ có học trao đổi với nhau về các vấn đề xã hội. Năm 1914, Đông Dương tạp chí còn đề xuất ý tưởng về “nữ báo” (Đông Dương tạp chí, 1914), chủ trương cho ra phụ trương giành cho nữ giới của Đông Dương tạp chí. Tuy nhiên ý tưởng này chưa được thực hiện. Đông Dương tạp chí 13 cũng là tờ báo đưa tin sớm nhất về việc lập các trường nữ sinh Pháp-Việt công lập ở Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kỳ, về một số nữ giáo viên được bổ nhiệm vào những trường này. Xuất hiện sau Đông Dương tạp chí nhưng Nam Phong cũng đã sớm có bài về giáo dục cho phụ nữ. Trong số 4 (1917), Nam Phong đã giành hẳn 10 trang đầu đăng bài của Phạm Quỳnh “Sự giáo dục đàn bà con gái”. Bài luận thuyết này đã tìm cách lý giải về bất bình đẳng nam-nữ trong các xã hội xưa, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Giải thích cho địa vị thấp hèn của người phụ nữ, Phạm Quỳnh cho rằng “đàn bà bẩm sinh đã kém đàn ông về sức lực, nên từ nguyên thủy vấn phải mang phận mỏng hèn. Rồi sau các xã hội đặt pháp luật, dựng luân lý, cứ chuẩn y cái địa vị lúc ban đầu mà nhận thành một luật lệ tự nhiên… đẩy nhân loại chia làm hai phần: đàn ông là bậc chủ nhân, đàn bà là hàng nô lệ”. Phạm Quỳnh phê phán sự độc quyền của đàn ông trong phân chia thế giới “xét lịch sử các dân, các nước đời xưa đời nay về khoản thân phận đàn bà trong xã hội thật lắm đoạn thê thảm, lưu truyền đến thiên vạn cổ cái ô danh của giống đực ta” (Nam Phong Tạp chí, 1917). Cũng trong bài luận thuyết này, Phạm Quỳnh khẳng định tầm quan trọng của giáo dục cho phụ nữ bởi vì “phẩm hạnh đàn ông kém thì hại cho xã hội, nhưng cái hại ấy chưa bằng phẩm hạnh đàn bà hư; đàn bà hư hại cho nguồn gốc xã hội” bởi vì đàn bà không được giáo dục gây tác động tiêu cực đến cả tương lai của xã hội. Phạm Quỳnh đã trình bày những ý tưởng rất tiến bộ khi tìm ra nguyên nhân của bất bình đẳng trong giáo dục giữa đàn ông- đàn bà, nêu tầm quan trọng của việc đàn bà không được giáo dục, nhưng bản thân ông lại lúng túng khi đề xuất về việc nội dung giáo dục cho phụ nữ Việt Nam. Bản thân ông đã phân biệt nam-nữ trong tiếp cận giáo dục “Trong việc giáo dục đàn ông con giai không thể phân biệt thượng lưu-trung lưu, vì cái mục đích sự giáo dục ấy là để đào tạo nhân tài, mà nhân tài thì không thể lấy đẳng cấp hạn chế được. Đến như sự giáo dục đàn bà con gái thì quan trọng phải lấy cái nhân cách hợp với tình thế trong xã hội: xã hội có đẳng cấp, sự học cũng phải tùy mà thay đổi.. Những cô chiêu sinh nơi phú quý với chị mỗ đẻ chốn buôn bán thì cái cảnh ngộ đã khác, sự học hành cũng không hể giống nhau được” (Nam Phong tạp chí, 1917). Phạm Quỳnh đề xuất lập “Nữ học viện” để giáo dục con gái nhà thượng lưu, và “Nữ học đường” để giáo dục con gái nhà trung lưu. Ngoài hai tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí là những tờ báo đầu tiên chú trọng đến giáo dục nữ và kêu gọi phụ nữ có học tích cực thể hiện bản thân, tham gia viết báo và các hoạt động xã hội, nhiều báo khác ở Bắc Kỳ cũng coi phụ nữ có học là đối tượng độc giả tiềm năng, trong đó có Thực nghiệp dân báo (1920-1922), Hà Thành ngọ báo (19271929), Báo Đông Pháp (1925-1932), Phong hóa (1932-1936), Trung Bắc tân văn. “Thực nghiệp dân báo” có lẽ là tờ báo có tư tưởng tiến bộ hơn cả về giáo dục giành cho phụ nữ. Mặc dù chỉ tồn tại trong 3 năm (1920-1922), tờ báo này đã có nhiều bài viết tập trung vào giáo dục cho phụ nữ Việt Nam với quan niệm bình đẳng giới rõ rệt. Năm 1921, “Thực nghiệp dân báo” có đăng bài ký tên Phùng thị Nga với tiêu đề “Vấn đề nữ học”. Khẳng định đây là bài viết của tác giả nữ, báo này có lời dẫn “Bản quán tiếp được bài văn sau này là văn đàn bà thật, không phải là đàn bà giả, cứ xem lời văn cũng đủ rõ. Đọc bài văn này có thể biết được một phần học thức, văn chương, tư tưởng của nữ học nuớc nhà đã tới cái trình độ nào” (Thực nghiệp dân báo, 1921). Tác giả Phùng Thị Nga đã lên tiếng đòi hỏi sự bình đẳng trong giáo dục cho phụ nữ “Nếu các ngài đã coi nữ học cũng như nam học, cho sự giáo dục của một nửa phần người kia cũng như nửa phần người này, biết hai cái vấn đề cũng trọng yếu ngang nhau, thì các ngài sẽ nhận ra rằng: cái phạm vi nữ học cũng có thể bao la man mác, không phải là cẩu thả đơn sơ coi chỉ bàn đến khoa luân lý là vừa đủ, xin lần lượt nói đến cái khoa học khác… Này là triết học, sinh lý học, giải phẫu học, thiên văn học, sử ký học, địa dư học, toán học, cách trí học, kinh tế học…biết bao khoa học, biết bao điều đáng bàn; chứ cứ khư khư hai chữ “luân lý”, hô hào “đạo đức” phỏng có thú gì, hay chỉ để những bực hiền giả cười rằng “Đàn ông dạy luân lý đàn bà thì minh, xét luân lý mình thì quáng” (dd). Tiếp sau bài của Phùng thị Nga, Thực nghiệp dân báo đăng bài ký tên nữ học sinh Trần Vân Thanh. Tác giả đề xuất thành lập “Nữ sinh ái hữu” với mục tiêu “Đàn bà bàn việc đàn bà, kể lể tâm sự mình, chắc là tinh tường hơn các ông… Hội lập nên không phải chủ ý công kích đàn ông như có nhiều người tưởng nhầm, không phải đề xướng chủ nghĩa “nam nữ bình quyền” mà ngang nhiên tự đắc, không phải là kết bè kết đảng xưng bá xưng hùng…Hội sẽ có những bực tài cao học rộng, đức hạnh kiêm toàn, làm gương cho nữ lưu trong nước, đề xướng những tư tưởng cao thượng, để giải thoát phụ nữ khỏi vòng ngu lỗ” (dd). Tờ báo này còn kêu gọi mở trường tư thục, trường dạy nghề, trường thương nghiệp giành cho nữ giới. Phong hóa, tờ báo của nhà văn Nhất Linh, lại đưa ra những vấn đề của xã hội hiện đại liên quan đến nạn mại dâm, giúp bạn đọc làm quen với những kiến thức về giới tính, giới thiệu sách viết về quan hệ nam nữ như “Nam nữ bí mật chỉ nam”. Phong hóa cho rằng trong số phụ nữ Việt Nam thì chỉ có gái mại dâm là cần được giải phóng vì “trong nữ lưu mình chỉ có bọn mại dâm, bọn nữ tỳ là mất tự do… Chị em yêu cầu “giải phóng”, chị em có mất tự do đâu mà phải giải phóng” (Phong hóa, 1932), do đó trong khi dư luận kêu gọi phụ nữ lập hội thì Phong hóa đề xuất lập hội “phụ nữ xóm Bình khang” hay là “phụ nữ phong trần”. Trong số ba tờ báo phụ nữ xuất bản ở Bắc Kỳ, gồm Phụ nữ thời đàm, Đàn bà và Việt nữ, chúng tôi mới khảo sát được Phụ nữ thời đàm. Tờ báo này xuất bản số đầu ngày 8-12-1930, ra hàng ngày cho đến năm 1932 và ra hàng tuần cho đến năm 1934 thì đình bản. Tôn chỉ của báo là dung hòa hai xu hướng thủ cựu và cách tân như báo nêu lên trong “Lời tuyên cáo” đăng ở số báo đầu “Tôn chỉ của báo Phụ nữ thời đàm là để điều hòa hai cái xu hướng trái ngược… mong cho nghị 14 luận được triết trung, bình phẩm được xác đáng, bản báo sẽ đứng vào địa vị trung lập”. Cũng trong số báo đầu tiên này, Phụ nữ thời đàm xác định khái niệm bình đẳng bao gồm: 1) Tri thức bình đẳng, 2) Chức nghiệp bình đẳng. Tờ báo nhấn mạnh “muốn cho tri thức bình đẳng và chức nghiệp bình đẳng phải do sự học đào luyện mà ra, mà cái mục đích cầu học bây giờ phải thay đổi khác xưa mới hợp. Nghĩa là đi học cốt để mở mang óc sáng, tu thân xử thế cho đến luyện tập công nghệ”. Bên cạnh đó, tờ báo cũng không quên răn dạy chị em phụ nữ phải học để thực hiện nghĩa vụ “bây giờ là cái “thời kỳ con gái” thì thế này, song ta lại phải nghĩ sẵn đến “thời kỳ làm vợ”, “thời kỳ làm mẹ” về sau, tài liệu để thực hành trong hai thời kỳ ấy cũng phải dự bị học tập tự bây giờ mới kịp” (“Vấn đề bình đẳng chị em ta”, Phụ nữ thời đàm,1930). Hoạt động được hơn 4 năm, đặc biệt rầm rộ ở 3 năm đầu, Phụ nữ thời đàm đã đưa ra bàn luận nhiều vấn đề về giáo dục phụ nữ một cách toàn diện, bao gồm trí dục, đức dục, thể dục, định hướng nghề nghiệp. Đặc biệt, Phụ nữ thời đàm còn giới thiệu những gương phụ nữ tiêu biểu của Bắc Kỳ như bà Hoàng Việt Nga, bà Bạch Yến, những nữ trí thức tiêu biểu không chỉ trong lĩnh vực học vấn mà còn đi đầu trong phong trào thể dục thể thao. 4.Phong trào nữ quyền trên thế giới và dư luận ở Việt Nam Vào đầu thế kỷ XX, phong trào nữ quyền trên thế giới lên cao. Phụ nữ các nước lần lượt đòi quyền được đi học và quyền được bầu cử. Trào lưu này đã có tác động không nhỏ đến dư luận Việt Nam. Kể từ giữa những năm 1920, trên báo chí lần lượt xuất hiện bài viết về tấm gương phụ nữ thế giới. Năm 1931, Nam Phong đăng bài giới thiệu về phong trào nữ quyền của phụ nữ Âu Mỹ dưới tiêu đề “Nữ quyền”. Bài báo có đoạn “Thế giới ngày nay đương qua một cuộc cách mệnh lớn. Ta thường không để ý đến, nhưng thực có một sự đại biến đang từ từ diễn ra trước mắt. Có người nói cuộc biến này rồi ảnh hưởng về xã hội không kém gì Đại Cách mạng Pháp năm 1789… Người đàn bà ngày nay đang dần dần tiến lên, dường như muốn tranh cả địa vị của đàn ông, hăng hái muốn trả thù cách đàn ông bạc đãi mình từ xưa đến giờ…Phụ nữ trên thế giới hoạt động ở những lĩnh vực xưa nay đàn bà không có địa vị gì như làm thợ sắt, làm lục sự, làm kỹ sư, làm ngoại giao, làm chánh văn phòng, làm giám đốc các xưởng máy, làm thị trưởng các thành phố, làm tướng tá nữa..Ngày nay các nước văn minh đến quá nửa đã cho đàn bà quyền bầu cử: Anh, Thụy Điển, Đan Mạch đều cho đàn bà có quyền đi bầu và ứng cử. Nước Mỹ ở các hội nghị địa phương, ở giữa liên bang quốc hội, ở các hội nghị bầu tổng thống đều có đàn bà cả. Úc, Tân Tây Lan có đàn bà làm nghị viên, làm bộ trưởng. Ở Đức, Áo, Hung, Tiệp Khắc có đàn bà làm lãnh tụ các đảng, thường thấy ra chỗ nghị trường mà chất vấn chính phủ. Đến nước Nga Xô Viết thì nữ quyền lại rộng lắm nữa, có người nói đó là một “dân quốc nữ trượng phu”. Năm 1934, Nam Phong cho đăng “Cuộc tiến hóa của dân Việt Nam”, trong đó tờ báo cho rằng sự tiến bộ của phụ nữ đã góp phần quan trọng vào “cuộc tiến hóa” chung. Tác giả bài báo khẳng định vai trò của phong trào phụ nữ phương Tây đối với phụ nữ Việt Nam “Tuy rằng ở chốn thôn quê, phụ nữ Việt Nam chưa chịu ảnh hưởng của văn hóa châu Âu, nên còn sống theo lề thói cũ như các cụ từ 50 năm về trước, nghĩa là theo cái thuyết nam ngoại nữ nội, và cái đạo đức tam tòng, nhưng ở các nơi thị trấn thì đã thấy có lắm việc cải cách trong sự sinh hoạt của các chị em… Vì được hưởng sự giáo dục một cách tự do như các bạn trai nên về đường học thức có phần tấn tới. Không những là chịu ảnh hưởng của khoa học Âu mà cái lòng tin nhảm đã thấy bớt dần, lại còn vì tiêm nhiễm các tư tưởng mới, mà chị em đã có quan niệm về quyền lợi, nên ít lâu nay cái phong trào tôn trọng nữ quyền đã tràn khắp tự Nam chí Bắc”. Bài báo liệt kê những hoạt động mà phụ nữ tham gia: phụ nữ làm cô đỡ, giáo học, thư ký, bào chế, có một số nữ văn sĩ, nữ thi sĩ mà báo còn khằng định đó là những nữ sĩ “chân chính, chứ không phải giả hiệu như Đào Thị Loan, Nguyễn Thị Bổng ngày xưa”. Báo Phụ nữ Tân văn (1929-1934) đưa nhiều câu chuyện “người thật việc thật” của phụ nữ các nước. Phụ nữ Mỹ làm chính trị đã được báo này đăng dưới tin “Bà lớn Thượng” như sau “Trong thế giới ngày nay, nước có nữ quyền cao hơn hết là nước Hồng Mao (Mỹ). Thiệt vậy, ở đó, chị em được dự vào chính trị cũng có địa vị bình đẳng như đàn ông vậy. Trong kỳ tuyển cử vừa rồi, trong số người đi bầu, đàn bà nhiều hơn đàn ông tới gần 200 vạn. Trong kỳ tuyển cử, có 13 người trúng cử, có một bà làm thượng thư (bộ trưởng) trong Nội các Mac Donald” (Phụ nữ Tân văn,1929). Dưới tiêu đề “Các cô làm báo bên Huê Kỳ”, Phụ nữ Tân văn viết “Con gái bên Huê Kỳ ngày nay, đã có nhiều người ra làm báo. Mà cô nào trẻ tuổi và có nhan sắc, thì lại càng được việc; có nhiều chuyện người ta muốn dấu, mấy nhà làm báo đàn ông đến dò la hỏi han, không bao giờ người ta hé răng, vậy mà tới phiên các cô đến, thì ai có chuyện gì dấu kín cũng đem phun ra hết” (Phụ nữ tân văn,1929). Đặc biệt Phụ nữ Tân văn mô tả cách phụ nữ phương Tây giành quyền bình đẳng với nam giới, theo như bản báo chú thích là dẫn theo lời kể của ông Nguyễn Văn Vĩnh “Đàn bà bên Âu Mỹ ngày nay, họ muốn cạnh tranh với đàn ông, chớ không muốn để cho anh đàn ông bợ đỡ và nhường nhịn họ như trước nữa. Ở đây, có khi đi xe điện, ta còn thấy có ông tây bà đầm lên xe, chật hết chỗ rồi, mà không có một người đứng dậy nhường chỗ cho bà thì ông tây đã lườm mắt, có ý nói là mình ít giáo dục, không biết quý đàn bà. Các thành thị lớn bên Âu-Mỹ, bây giờ thì trái lại như thế. Có khi anh đàn ông thấy người đàn bà lên xe, mà nhường chỗ ngồi cho bà còn bị mắng “Tôi cũng là người như ông vậy, ông chiếm được chỗ trước thì cứ ngồi, nhường cho tôi làm chi” (“Đàn bà dễ có mấy tay”, Phụ nữ Tân văn, 1929). Báo Phụ nữ Tân văn cũng cập nhật thông tin rằng trong số các đại diện của Hội Liệt quốc (League of Nations) năm 1929 có 13 người là nữ, đại diện cho 13 quốc gia trên thế giới. Báo này nhận xét “Trông người lại ngẫm đến ta, trên con đường tiến bộ, chị em bên Âu Mỹ đã đi xa lắc xa lơ rồi, mà con cháu bà Trưng bà Triệu chúng ta mới lên đường cất gánh” (Phụ nữ tân văn,1929). Ngoài gương phụ nữ phương Tây, gương học tập của phụ nữ Nhật và phụ nữ Trung Quốc cũng được đưa ra để phụ nữ Việt Nam soi vào. II.Những cơ hội bị bỏ lỡ, kết quả nghèo nàn của phong trào phụ nữ ở Bắc Kỳ 15 Mặc dù đứng trước những cơ hội mới, phụ nữ Bắc Kỳ vẫn không thể hiện được bản thân mình theo tinh thần “giải phóng” phụ nữ. Ngoài một số thành quả như được đến trường, có nghề nghiệp mới (giáo viên, y tá, dược tá), phụ nữ Bắc Kỳ vẫn bị coi là thụ động và thờ ơ với thời cuộc. Ngày 19-6-1930, Phụ nữ Tân văn cho đăng bài ca ngợi cô Bắc và cô Giang là những phụ nữ quả cảm đã tham gia làm cách mạng và ca ngợi “VNQDD thật là khôn ngoan, biết lợi dụng đàn bà để tuyên truyền và thông tin, không cho ai để ý đến vì đàn bà Việt nam xưa nay chỉ quen ở trong bếp, ai ngờ họ len ra chỗ cương trường mạo hiểm”. Tuy nhiên, ngày 10-7-1930, cũng tờ báo này phê phán phụ nữ thờ ơ với việc xã hội qua bài “Cái tánh lạt lẽo của chị em ta đối với mọi việc”. Bài báo nhận định “thật chị em ta không sốt sắng ngay với những việc có quan hệ trực tiếp đến thân mình hay là đoàn thể của mình chứ chưa nói đến xã hội nhân quần là chuyện cao xa quá”. Một số dẫn chứng cho thấy phụ nữ lãnh đạm với những việc liên quan đến bản thân họ: Phụ nữ tân văn khởi xướng việc trưng cầu ý phụ nữ về việc mở Phụ nữ Khuyến học viện (mô hình trường học-nghiên cứu dành cho nữ, tương tự các trường đại học nữ ở phương Tây) nhưng “năm sáu tháng trời, chẳng qua chỉ được vài ba cái thơ ngỏ ý hoan nghênh, còn thì lặng lẽ im lìm, không nghe ai đả động tới”. Báo mở cuộc thi văn chương cho phụ nữ nhưng “những lời hô hào cổ động như tiếng gọi giữa đồng không, chưa có mấy người chịu ra hưởng ứng”. Đặc biệt, việc giáo dục nữ cũng bị đánh giá là chưa đạt kết quả mong đợi. Phụ nữ thời đàm viết “trường nữ học hiện đã lập ở gần khắp các tỉnh, mà kết cục mới đào tạo nên được dăm ba chục bà giáo, ít nhiều cô dược tá, cô nữ khán hộ. Còn phần nhiều các chị em nữ học sinh, sau khi nghỉ học không những học vấn dở dang, không bổ ích gì cho việc giúp chồng nuôi con, mà những cách buôn bán làm ăn phần nhiều lại hóa ra vụng về bỡ ngỡ. Cái hại ấy có hai nguyên nhân: một là ta chưa có cách giúp đỡ cho chị em có tài chí có thể theo đuổi học vấn hoàn toàn, hai là trong chương trình nữ học không có phần dạy những điều cần thiết về đường sinh kế” (“Phụ nữ trí dục”, Phụ nữ thời đàm, 1930). Báo Phụ nữ tân văn đã gây được quỹ học bổng để cử học sinh đi học nước ngoài nhưng cuối cùng người nhận học bổng lại là nam giới chứ không phải phụ nữ. Báo lý giải việc này như sau “chúng tôi lập học bổng là chỉ để riêng cho nam học sinh.. có một vài cô tới hỏi rằng học bổng do cơ quan Phụ nữ lập ra, sao lại không cho đàn bà dự thí, có lẽ đàn bà không đủ sức học, cùng với nam nhi chen vai lấn bước chăng?…chị em ta bây giờ tuy đã có người học giỏi, nhưng còn vướng víu nhiều về những chế độ xưa, lễ giáo cũ, vậy có ai dám chắc là có can đảm và nghị lực sang Pháp học được cho đến nơi đến chốn?” (Phụ nữ tân văn, 1929). Rõ ràng, bản thân một tờ báo giành cho phụ nữ mà không tin ở năng lực và lòng quyết tâm của phụ nữ thì khó mà nói đến “nữ quyền”. Cuộc vận động thành lập Hội phụ nữ (Hội nữ công) Bắc Kỳ cũng thất bại. Đầu năm 1931, Phụ nữ thời đàm tổ chức một cuộc vận động lập Hội phụ nữ Bắc Kỳ, tuy nhiên, sau rất nhiều tháng, sự hưởng ứng rất thưa thớt. Phụ nữ thời đàm có bài than phiền về việc này “muốn cho thế lực được rộng rãi, công việc tiến hành được mạnh bạo, không gì cần thiết bằng hợp nhau thành đoàn thể.. nhưng than ôi, có hô, mà không có ứng, có xướng mà không có họa, tiếng gào thét ấy, rồi cũng thoảng qua như tiếng gọi giữa sa mạc mà thôi” (“Tại sao chị em chểnh mảng với vấn đề lập hội Nữ-công”, Phụ nữ thời đàm, 1931). Năm 1932, Phụ nữ thời đàm còn đề xuất ý tưởng lập Salon văn học theo mô hình châu Âu, tuy nhiên vấn đề đặt ra là không tìm ra được ai làm nữ chủ nhân của những salon đó. Phụ nữ thời đàm có dành vài số báo để bình luận về việc này, trong đó có ý kiến như sau “các chị em, nhất là bạn gái đất Bắc- chắc hẳn có tư tưởng cùng nhau, nhưng cái dây liên lạc để gây lấy cái tư tưởng ấy thì không có do chị em còn thiếu một nền giáo dục về xã giao”. Để khuyến khích các bậc nữ lưu ứng cử vai trò nữ chủ nhân sa long, Phụ nữ thời đàm thậm chí còn hứa treo giải thưởng có giá trị. Tuy nhiên, vẫn không ai dám đứng ra chịu trách nhiệm này. Phụ nữ thời đàm đành ngậm ngùi “Văn học và xã giao, hai thứ ấy phải đi đôi với nhau, cũng như hai cái nguyên tố hợp thành một nền văn minh. Nước ta, tự phụ là một nước văn hiến mà cái nguyên tố kia- tức là xã giao- còn thiếu sót thời cái bước của dân tộc mình noi trên con đường văn minh còn phải hèn kém” (Phụ nữ thời đàm, 1932). Một trong những nguyên nhân gây ra phản ứng tiêu cực của phụ nữ Bắc Kỳ đối với phong trào nữ quyền là do dư luận, mà chủ yếu là dư luận đàn ông về hình ảnh của người phụ nữ. Trong khi làn sóng hô hào “nữ quyền” trên báo chí ngày càng trở nên rầm rộ thì dường như thái độ của dư luận đối với phụ nữ hiện đại ngày càng trở nên khắt khe. Người thay đổi quan điểm về nữ quyền và do dự trước trào lưu nữ quyền của phụ nữ Bắc Kỳ nhiều hơn cả có lẽ là Phạm Quỳnh. Năm 1917, 1918, Nam Phong ra nhiều bài cổ vũ phụ nữ học tập, khuyến khích phụ nữ học chữ Quốc ngữ, đặc biệt học thông qua việc đọc báo. Đồng thời bài báo cũng cổ vũ phụ nữ tham gia viết báo “ mong rằng đương buổi nữ giới vắng vẻ, sao cho xuất hiện được nhiều bậc nữ sĩ, để có thể sau này gánh đỡ được một phần văn học nước ta” (Nam Phong, số 11,1918) Đến năm 1925 thì quan điểm của Phạm Quỳnh-Nam Phong về giáo dục nữ không còn hào hứng với đổi mới nữa. Trong bài viết “Đàn bà Đông phương”, Phạm Quỳnh lại nhấn mạnh đến hình ảnh người phụ nữ truyền thống “làm sang cho chồng”. Thậm chí ông còn đả kích những đàn bà học đòi “tự do” “bà nào lấy nê khai phóng, mượn tiếng tự do, trái ngược hẳn luân lý cũ, ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, chồng tự do đàng chồng, vợ tự do đàng vợ, con cũng tự do đàng con… con cái những nhà này hấp thụ được cái không khí của những người mẹ tạo ra ấy thì con nào mà chẳng hư. Con hư tại mẹ thì phần nhiều, mà con gái thì hư tại mẹ là phần nhiều lắm.. Cho nên cái đức người đàn bà bên Đông phương ta, không lọ là phải đánh đông dẹp bắc, không lọ là phải tranh nhau nam nữ bình quyền, không lọ là phải nghiên cứu đến các vị hành tinh, không lọ là phải suy xét phép kỷ hà học. Dù có học hành, cũng chỉ cốt trong tứ đức, nữ công sao cho chuyên cần, nữ dung sao cho yểu điệu, nữ ngôn sao cho hòa thuận, nữ 16 hạnh sao cho chính chuyên, đối với cha mẹ giữ lấy chữ hiếu, đối với gia đình giữ lấy chữ hòa lạc, đối với con giữ lấy chữ nhân ái cù lao, đối với nhân quần giữ lấy chữ từ thiện phúc đức, thế là bậc nữ lưu đệ nhất, thế là đủ” (Nam Phong, số 101, 1925). Bài viết này rõ ràng đưa Phạm Quỳnh-Nam Phong trở lại với quan điểm truyền thống của Nho giáo về giáo dục cho phụ nữ “phụ nữ không cần phải học hành cao xa làm gì mà chỉ cần đảm nhiệm tốt chức năng làm phụ nữ”. Trong nhiều bài báo sau 1925, Nam Phong chỉ trích những phụ nữ có tư tưởng “tự do quá trớn” và những ông chồng chiều vợ bị coi là “sợ vợ”, người vợ thì bị ví với “hổ cái già”. Trong lời đề tựa cho “Nhật ký của một anh chàng sợ vợ”, Nam Phong giới thiệu “đây là sổ chép hàng ngày của anh chàng ghi về nông nỗi lấy phải vợ người tây học không tinh, hiểu lầm hai chữ tự do, không biết cái tinh thần tự do mà tự do xằng, tự do láo, làm tan nát cả gia đình của chàng.. Có điều trong đám nữ lưu ta gần đây cũng đã thấy ít nhiều cô nhố nhăng quá đáng, lắm chuyện thương tâm, mà trong bọn tu mi cũng có ít người nuông chiều quá đỗi, gây tệ về sau, mất cả môn phong, hại lây phong hóa” (Nam Phong, năm 1927). Trong nhiều số báo, Nam Phong lần lượt giới thiệu các thiên giáo huấn giành cho phụ nữ như “Lời răn đàn bà con gái” (Nam Phong, 1928) vốn được lưu hành từ đời Hán, hoặc “Gái đời nay” (Nam Phong, 1929) là lời của người mẹ gia giáo dạy con theo Tây học; “Thư mẹ gửi con gái” (Nam Phong, 1929) là lời mẹ dặn dò khi con gái du học bên Pháp. Trong “Gái thời nay”, Nam Phong đã thể hiện sự nghiêm khắc đối với các cô gái theo đòi lối học mới qua lời người mẹ “Con ơi, con nghĩ mà xem: con là gái nhà nền nếp, có được học hành, có được dạy bảo, mà so ra dung công ngôn hạnh không được lấy một nết gì cả, như thế phỏng có đáng buồn, đáng thẹn không?… Mẹ thương đến chơi nhà các bà chị em bạn hàng phố, thấy con gái nhà người ta học ít, chỉ thông quốc ngữ, biết tính toán gọi là, mà nết na dịu dàng, khâu vá khéo, cỗ bàn bánh trái một tay, cơm nước trông nom, việc nhà việc cửa đảm đang, trên giúp đỡ cha mẹ, dưới săn sóc các em, trong nhà cắt đặt công việc, sai bảo đầy tớ đâu ra đấy, nghĩ đến con gái nhà mình trường này trường khác, học nhiều, tính nết lại đoảng, ăn làm lại hư mà chán! Sao con không biết thẹn với chị em thế?… Hay con cho rằng con đỗ được cái bằng ở trường nữ học ra, là bậc trung lưu nữ giới rồi, đọc sách là cao, thổi cơm là hèn? Chết nỗi, con nghĩ thế là lầm! Đàn bà con gái mà không thạo việc gia đình, sành việc nội trợ, là hạng đàn bà thừa, đáng khinh bỉ, dẫu hay chữ cũng vất đi. Gái văn minh quá, mẹ sợ con ạ, con đừng tưởng thế là hay” (Nam Phong, 1929, tr. 26). Nam Phong muốn gửi đến một thông điệp rõ ràng “đối với người con gái, không quý ở chỗ học cao biết nhiều mà quý ở chỗ đảm đang, biết lo toan nội trợ gia đình”. Một bà mẹ khác, đã cho con đi du học mà cũng vẫn còn đau đáu một tâm sự tương tự “mẹ thấy con trong mấy năm trời tự học, thi đậu được bằng tú tài, theo anh sang Pháp.. mẹ để con đi mà trong lòng mẹ vẫn ngần ngại, ngại vì một nỗi chẳng biết lúc con về, phẩm giá con có được như khi đi không? Hay chỉ lĩnh được một mảnh bằng, tính nết lại chẳng còn chi là ôn hòa thuần thục. Con ơi, thế giới ngày nay hình như mắc phải bệnh cuồng, con ở giữa kinh đô một nước văn minh bên châu Âu, phải cẩn thận lắm mới được, chớ để cho làn sóng mạnh kia nó cuốn được mình” (Nam Phong, 1929, tr. 302). Bà mẹ này thậm chí còn giải thích lý do vì sao cho con đi học “Mẹ cho con học có phải để cho con thành cô Cử cô Nghè, mua lấy cái hư danh về nước đâu. Mẹ cho con học chỉ cốt mong cho con sau này chọn được người xứng đáng làm chồng, rồi dốc lòng giúp chồng dạy con, trở nên một bậc hiền thê từ mẫu. Trong muôn việc bổn phận người đàn bà, có lẽ chỉ việc thương con yêu chồng là quan hệ hơn cả” (Nam Phong, dd, tr. 303). Năm 1934, Phạm Quỳnh có bài phát biểu tại Hội trí tri, đăng trên Nam Phong “Cuộc tiến hóa của dân tộc Việt Nam” trong đó có giành một phần nói về Cuộc tiến hóa của phụ nữ, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục “Vì sự giáo dục không những mở mang riêng cho bên nam giới, mà bên nữ giới cũng được chung hưởng nữa nên trong vòng 20 năm nay, chị em Nam Việt cũng đã thấy tiến hóa lên một bậc khá cao”. Phạm Quỳnh cho rằng nhờ có học vấn nên phụ nữ “đã có quan niệm về quyền lợi, nên phong trào tôn trọng nữ quyền đã tràn khắp tự Nam chí Bắc. Các chị em không chỉ hô hào bằng lời nói xuông, mà đã có một số bạn gái đã quyết bỏ việc trong nhà bước chân ra ngoài để tranh đấu cùng các bạn trai. Như ở các công sở thì chị hoặc làm khán hộ hoặc làm giáo học, cô đỡ, thư ký, bào chế… Ngoài các công sở thì bạn gái cũng theo đòi bạn trai trong việc công thương và các công cuộc văn chương mỹ thuật. Ít lâu nay đã có nữ văn sĩ nữ thi sĩ chân chính chứ không giả hiệu như Đào Thị Loan, Nguyễn Thị Bổng ngày xưa (là hai nhân vật trong Nhời đàn bà của Đông Dương tạp chí).. phụ nữ biết lập hội tương tế, tổ chức các cuộc làm phúc, hoạt động thể thao..” (Nam Phong, 1934). Mặc dù ca ngợi phụ nữ đã thay đổi địa vị của mình trong xã hội bằng cách trực tiếp tham gia vào những công việc mà trước đây chỉ có nam giới đảm đương, tác giả bài viết vẫn cố nhắn nhủ “ai cũng phải công nhận phụ nữ Việt Nam ta trong vòng 20 năm nay có cải cách nhiều trên con đường tiến hóa đi cũng đã nhanh chân đấy. Nhưng nếu các bà các cô cho tôi ngỏ một đôi lời, thì tôi xin các chị em nên từ từ mà bước, cẩn thận mà đi, chớ hấp tấp vội vàng, nhỡ ra quá chớn vấp chân mà ngã vào những đống gai góc bùn lầy” (Nam Phong, dd, tr. 157). Mặc dù dư luận thừa nhận rằng nhờ văn minh phương Tây nên vấn đề nữ quyền mới được khởi xướng ở một xứ Nho giáo vốn trọng nam khinh nữ như Việt Nam, mà điển hình là ở Bắc Kỳ, không phải tất cả việc học theo phụ nữ phương Tây đều được ủng hộ. Báo Đông Pháp chỉ trích việc phụ nữ Việt Nam diễn kịch, được coi là một hoạt động theo gương phụ nữ phương Tây như sau: “Ít lâu nay tại Hà thành dư luận nôn nao vì nỗi mấy thiếu nương ta theo đòi Tây học nối gót mấy nam tử lên sân khấu diễn kịch, bỏ hẳn thói e lệ của các thiếu phụ Cồ Việt mà lấy tính mạnh bạo của các giai nhân Âu Mỹ…Việc canh tân ấy cũng đáng khen..các thiếu nương chẳng quản miệng thế, tự đem phô bầy cho mấy nghìn con mắt trông vào.. Song lấy con mắt nhà bỉnh bút Nam Việt mà ngắm cảnh trên sân khấu một nhà hát Nam Việt, trông và nghe người thiếu nữ hay thiếu phụ Nam Việt than vãn những câu bi ai thảm thiết cùng giăng gió gió giăng…mắt ta chỉ quen trông đàn bà nước ta ru con 17 ẵm cháu, thổi cơm gánh nước. Thế thì trông cảnh một người thiếu nương bỏ thời giờ quý báu mà tập tành cung đàn điệu hát, những câu trai lơ, những khúc tình tự, toàn những vật liệu đồi phong bại tục cả” (Báo Đông Pháp,1926) Thực nghiệp dân báo vốn được coi là tờ báo tân tiến cũng đã có bài e ngại về làn sóng theo đòi những nghề nghiệp mới của phụ nữ. Năm 1922 báo này đăng bài viết ký tên Đào Thị Từ đưa ra một vài băn khoăn về nghề nghiệp của nữ giới sau khi học xong “Em xem ra chị em có nhiều người có tư tưởng học ra để làm cô giáo, đi làm với nhà nước, nhưng em thiết tưởng đó không phải là một ý tưởng hay, vì cứ theo tục lệ, người con gái đi làm việc với nhà nước nay đây mai đó có nhiều điều bất tiện. Theo như tục ta thì cái tuổi mà ta làm được cô giáo, tức là cái tuổi sắp phải làm vợ, làm vợ ta tất phải theo chồng, nếu nay đây mai đó thì chẳng lẽ người chồng lẽo đẽo theo ta.. Nếu ta ngồi mà tính đường lợi hại cho kỹ, thời ta chẳng nên có ý tưởng đi học để rồi sau này đi làm với nhà nước. Khi học hết tiểu học, ta nên xoay ra học nghề như buôn bán, làm bánh trái, thêu thùa..Ta có nghề trong tay, dù đi đâu ta cũng có thể thi thố nghề của ta được, như vậy tiện bề chồng đâu vợ đấy mà lại có các sinh nhai nữa” (Thực nghiệp dân báo, 1-3-1922). Trong khi đó, bản thân nhà nước bảo hộ cũng không khuyến khích phụ nữ làm việc ở cơ quan công quyền, theo như Phụ nữ thời đàm phản ánh “Không biết vì lẽ gì, các công sở và tư sở ở đây đối với chị em đều cửa đóng then cài cả. Biết sống vào đâu? Biết bao nhiêu chị em gặp cảnh này đều phải vất vả trên con đường mưu sinh. Thực rất đắng cay mà không biết than thở vào đâu vì sinh phải cái xứ nữ quyền chưa có này” (“Sự hiếm việc làm của bạn gái có học”, Phụ nữ thời đàm, 1932). Các yếu tố chủ quan và khách quan đã không hề thuận lợi cho phụ nữ thực hiện nữ quyền. Trong khi dư luận bàn luận sôi nổi ồn ào về nữ quyền nhưng sự giả dối của những người tung hô nữ quyền đã bị Trung bắc tân văn chỉ rõ “Theo phong trào thế giới, người ta vận động nữ quyền, mình cũng vận động nữ quyền. Nhưng cuộc vận động nữ quyền ở ta có lẽ khác người. Ông A cổ động nữ quyền kêu như chuông, vang như sấm, mà trong nhà ông ba, bốn vợ, còn đòi lấy nàng hầu; ông B viết văn nữ quyền như cháo chảy, ngọt như mía lùi, mà chính ông đã rẫy hai đời vợ, còn đời vợ này ông đánh luôn tay, chửi luôn mồm (“Cuộc vận động nữ quyền ở nước ta”, Trung Bắc tân văn, 1934) Phong hóa đã giải thích lý do vì sao phụ nữ không thể tìm được vị trí bình đẳng với đàn ông “Dạy dỗ con cháu nên người, cái công lớn lao ấy người đàn ông phải nhường người đàn bà, nhưng đến như khoa học thì không sao dám để họ dự một phần cỏn con nào. Vì sao? Vì khoa học rất nguy hiểm cho phái phụ nữ. Những phụ nữ muốn biết khoa học đều bị trục xuất vào một xã hội riêng, vì họ đã bị đàn ông chẳng ưa, lại bị đàn bà ghét thậm tệ. Đàn ông thì không muốn đàn bà bằng mình, đàn bà thì chỉ muốn trong bọn phụ nữ ai cũng sàn sàn bằng nhau để che đậy sự kém chung, chứ không muốn cho ai nho đầu lên để bêu xấu họ. Cho hay một cô gái chải chuốt dễ lấy chồng hơn một cô gái tài cao học rộng. Muốn lấy một cô gái thông thái thì người chồng phải “trơ”, không biết thẹn (vì lấy vợ mà lại bị gọi là ông giáo, ông đốc theo vợ hẳn cũng chẳng vinh hạnh gì” (“Học lực của phái phụ nữ”, Phong Hóa, 1932). Vốn được coi là tờ báo tân tiến đi theo trào lưu hiện đại, quan điểm thiển cận về học vấn phụ nữ của Phong Hóa đã để lộ tư tưởng cải cách nửa mùa của tờ báo này. Năm 1929, Phụ nữ tân văn mở cuộc trưng cầu ý kiến về phụ nữ. Tuy nhiên, trong tổng kết của bản báo về cuộc trưng cầu này thì tất cả các ý kiến đều là của đàn ông (Phụ nữ tân văn ,1929). Băn khoăn về việc phụ nữ tham gia vào cuộc trưng cầu, trong bài “Còn ý kiến của chị em thế nào?” có viết : “Chỉ có bà Đạm Phương ở Huế hưởng ứng với bổn báo, các bài trả lời khác đều là của nam giới cả”. Bản thân nhiều phụ nữ không chỉ không hưởng ứng phong trào đòi bình đẳng mà còn tỏ thái độ phê phán khi những phụ nữ khác thực hiện quyền này. “Đứng về phương diện xã hội, người đàn bà nào có tài trí phải ngang vai sóng bước với đàn ông thì thật là phải, đòi nữ quyền như thế là đúng với luật tiến hóa của loài người… Còn về phương diện gia đình, hình như chị em bên châu Âu đòi nữ quyền có nhiều chỗ tưởng hơi quá đáng” ( Phụ nữ tân văn,1929). Phụ nữ thời đàm cho rằng phong trào phụ nữ Bắc Kỳ còn yếu do phụ nữ không dám đương đầu với dư luận “Vì quyền lợi của chị em, một vài ông có lòng sốt sắng với cuộc tiến trình của phụ nữ nước nhà, thường hết sức hô hào vấn đề này vấn đề nọ… trên diễn đàn ngôn luận, một số đông chị em hưởng ứng, cũng hăng hái, cũng quả quyết…Nhưng than ôi, bể lặng nổi tăm, nó chỉ vài giây phút là hết, cơn sóng gió thoảng qua rồi cái cảnh âm thầm mù mịt đâu lại kéo đến…Phong trào phụ nữ xem đó chỉ bồng bột trong nhất thời rồi lại bị chìm đắm ngay..nay bàn mai tính, kết cục bó tay vẫn hoàn bó tay.. Cái mối dư luận ngày nay nó như mây đen khói, nó làm mờ mịt trí sáng suốt của chị em, nó ngáng trở chị em bước ngoài bực cửa gia đình” .(“Phụ nữ trước ngọn trào dư luận”, Phụ nữ thời đàm, 1932). Tờ báo này cho rằng phụ nữ Bắc Kỳ không đủ bản lĩnh để tham gia vào phong trào nữ quyền là do “mãi nằm dưới dư luận”. Kết luận Kể từ khi trường nữ sinh Pháp-Việt công lập được mở năm 1910 ở Hà Nội, dư luận Bắc Kỳ bắt đầu rộ lên các vấn đề liên quan đến “quyền của phụ nữ” và khái niệm “nữ quyền” được sử dụng rộng rãi. Phong trào “nữ quyền” ngày một sôi nổi vì những yếu tố sau: trường học nữ ngày một phát triển và phụ nữ thể hiện khả năng học vấn của mình không thua nam giới, báo chí nở rộ cho phép phụ nữ, đặc biệt phụ nữ có học, tiếp cận thông tin và tham gia vào quá trình phổ biến thông tin, trào lưu nữ quyền trên thế giới tạo động lực cho phụ nữ bàn luận về các vấn đề liên quan đến phụ nữ. Tuy nhiên, bất chấp những thuận lợi kể trên, phụ nữ Bắc Kỳ vẫn không vượt qua được rào cản dư luận để giương cao ngọn cờ nữ quyền. Rào cản dư luận này có gốc rễ sâu xa từ quan điểm Nho giáo đối với đối với phụ nữ và về vị trí của người phụ nữ so với đàn ông không dễ gì một sớm một chiều xóa đi được. Phụ nữ vẫn thụ động trong việc chọn lựa nghề nghiệp, không có khả năng lập hội phụ nữ để tìm sức mạnh tập thể giải quyết các vấn đề khó khăn và vượt qua rào cản xã hội, họ dựa vào 18 quan niệm của đàn ông về phụ nữ để điều chỉnh cho các hành vi của mình. Có thể nói, phong trào nữ quyền đã được dấy lên nhưng chủ yếu do đàn ông dẫn dắt và hình ảnh người phụ nữ vẫn hết sức mờ nhạt trong đó. Công ước CEDAW và việc thực hiện Công ước ở nước ta (1/9/2009) Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination Against Women - CEDAW) được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn và thông qua ngày 18-121979. Công ước có hiệu lực từ tháng 9-1981. Công ước đã đưa ra các điều khoản cụ thể và toàn diện để chính phủ các nước làm cơ sở pháp lý cho việc xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Hai mươi sáu năm qua, người ta ngày càng thừa nhận sự đúng đắn của CEDAW. Cho đến nay, CEDAW đã nhận được sự hoan nghênh và ủng hộ của hàng trăm quốc gia, hàng nghìn các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên khắp thế giới. Có thể nói, đây là một văn bản pháp lý quốc tế toàn diện nhất từ trước đến nay về vấn đề phụ nữ và sự ra đời của Công ước đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh cho quyền bình đẳng nam nữ. Công ước xứng đáng đóng vai trò kim chỉ nam cho các hoạt động vì sự tiến bộ, bình đẳng và phát triển hoà bình. Việt Nam là nước thứ 6 trên thế giới ký Công ước (29-7-1980) và là nước thứ 35 phê chuẩn Công ước (19/3/1982). Có thể nói, CEDAW vào Việt Nam không gặp nhiều trở ngại lớn. Điều này không phải nước nào cũng có được, bởi lẽ nó liên quan đến rất nhiều yếu tố. CEDAW vào Việt Nam sau khi đất nước đã thống nhất và bình đẳng giới không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với Việt Nam. Nói một cách khác, Việt Nam có sẵn cơ sở kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận CEDAW. Những bằng chứng về lịch sử, văn hoá, lối sống của dân tộc Việt Nam đã phản ánh truyền thống tôn trọng phụ nữ là những người có công lớn trong xã hội và gia đình. Truyền thống đó được biểu hiện từ những nghi lễ thờ cúng mà trong đó không phân biệt thần nam với thần nữ. Chẳng hạn tục thờ Mẫu, thờ nữ thần Lúa, thờ bà Liễu Hạnh, thờ các thành hoàng là các phụ nữ có công trong sản xuất và chiến đấu. Truyền thống đó còn được biểu hiện cao nhất là việc làm vua của Hai Bà Trưng, làm lãnh tụ khởi nghĩa của Bà Triệu, làm tướng của bà Thánh Thiên công chúa, Lê Chân, Bát Nàn công chúa, làm Đô đốc của bà Bùi Thị Xuân, làm Tổng tư lệnh của các lực lượng vũ trang miền Nam của bà Nguyễn Thị Định. Truyền thống đó cũng còn được biểu hiện trong việc quản lý kinh tế của Ỷ Lan phu nhân, sự thức thời và dũng cảm của thái hậu Dương Vân Nga, sự đảm lược của Linh Từ Quốc Mẫu. Truyền thống tôn trọng phụ nữ còn được thể hiện trong cả hai dòng văn học: dân gian và bác học đã tồn tại hàng thế kỷ ở Việt Nam. Bình đẳng Giới đang là một mục tiêu lớn của Chính phủ Việt Nam. Đó là sự tiếp nối trung thành và có hiệu quả những mục tiêu ban đầu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quan điểm về văn minh và phát triển hiện nay của thế giới. Điều này đã không chỉ thể hiện bằng văn bản, luật pháp mà còn được thực tiễn cuộc sống khẳng định. So với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam có nhiều chính sách tiến bộ về Giới. Những chính sách này được đề cập trong nhiều bộ luật và hiến pháp như Hiến pháp năm 1946, Luật Hôn nhân và gia đình (1959, 1986), Luật Quốc tịch, Bộ luật Lao động, Pháp lệnh Thừa kế, Bộ luật Hình sự, và hiện nay là sự ra đời của Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Bằng luật pháp, Nhà nước đã công nhận quyền bình đẳng của nam và nữ cả trong gia đình và xã hội; nam nữ được hưởng quyền bình đẳng trong bầu cử và ứng cử. Ở công sở, nam và nữ có quyền bình đẳng trong công việc, điều kiện lao động và mức lương; Nhà nước công nhận và bảo hộ chế độ một vợ một chồng, nam và nữ đều đựơc hưởng quyền thừa kế, quyền nuôi con và hưởng tài sản sau khi ly dị… Với những thành tích đó, mặc dù còn là một trong những nước nghèo trên thế giới nhưng Việt Nam đã được Liên hợp quốc xếp hạng thứ 72/130 nước theo chỉ số GDI trước năm 1995. Đến nay, Việt Nam đứng vị trí 83 với chỉ số 0,702 thuộc vào hàng những nước có sự phát triển trung bình về giới. Trong cuộc sống, cuộc tiến công vào tư tưởng "Trọng nam khinh nữ" đã được thực hiện ở mọi lĩnh vực từ gia đình đến xã hội, làm thay đổi các cơ sở kinh tế, các quan niệm về đạo đức, phong tục, tập quán và đặc biệt làm thay đổi thân phận và địa vị của phụ nữ. Phụ nữ đã được tham gia vào hầu hết các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ được luật pháp công nhận; có kinh tế độc lập và địa vị trong gia đình được nâng cao. Một số phụ nữ đã vươn lên vị trí lãnh đạo kinh tế và lãnh đạo chính trị. Gần đây nhất, Báo cáo ghép thực hiện CEDAW (lần 5 và 6, 2000-2003) do Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ chuẩn bị để trình bày trước Ủy ban CEDAW của Liên hợp quốc vào tháng 1-2007 đã đưa ra những thành tích: Chỉ số phát triển con người (HDI) cao hơn chỉ số phát triển kinh tế (109/175 nước - 0,688 - xếp thứ 128 về thu nhập bình quân đầu người). Chỉ số phát triển giới (GDI): 0,702 (83/177 nước) thuộc nhóm nư¬ớc tốt nhất ở Đông Nam Á - Thái Bình Dương. Chính phủ có nhiều cố gắng trong việc bổ sung luật pháp gần với CEDAW. Một số thành tích cụ thể là: tỷ lệ đói, nghèo ở Việt Nam giảm còn 11%, giải quyết việc làm cho 4,3 triệu người (trong đó có 1/2 là nữ), tỷ lệ dân số biết chữ: 94%, phụ nữ đạt 92%, việc chăm sóc sức khỏe nhân dân và phụ nữ có nhiều đổi mới. Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, cũng phải thừa nhận rằng, trên thực tế, các quyền bình đẳng cơ bản của phụ nữ trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá cũng còn rất nhiều điều bất cập, đặc biệt ở khía cạnh cống hiến và hưởng thụ. Đây là các vấn đề liên quan đến các điều khoản trong Phần 1 của CEDAW. Cũng như phụ nữ ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là phụ nữ các nước đang phát triển, cường độ lao động, thời gian, hình thức lao động của phụ nữ Việt Nam đang là vấn đề đáng báo động. Nhiều cuộc điều tra xã hội học do các trung tâm, viện nghiên cứu thực hiện ở cả thành thị và nông thôn đều đưa ra những chỉ báo đáng lo ngại về lao động phụ nữ hiện nay: phụ nữ lao động rất vất 19 vả cả ngoài xã hội và trong gia đình. Ngoài xã hội, họ phải lao động giống như nam giới, còn ở nhà, họ phải gánh trách nhiệm chính. Họ được “khoác” rất nhiều chức năng: làm vợ, làm mẹ, người cấp dưỡng, tiếp phẩm, thủ quỹ, thợ giặt, người lau dọn nhà cửa, người trông trẻ, cô giáo, thày thuốc gia đình… Những công việc tất bật từ sáng sớm đến đêm khuya gần như hút kiệt sức lực và thời gian của phụ nữ, khiến họ còn rất ít khoặc không có thời gian để nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hoá. Điều này làm mức độ cách biệt về hưởng thụ văn hóa, tinh thần giữa nam và nữ tăng lên. Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, một trong những chính sách cơ bản ở nông thôn là chuyển đổi kinh tế từ hợp tác xã về gia đình, coi gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập. Tình hình thực tế của nhiều gia đình cho thấy: xuất hiện nguy cơ chuyển từ hình thức lao động tập thể sang hình thức lao động của phụ nữ. Kinh tế hộ gia đình trong những điều kiện chưa có những giác ngộ về giới có thể sẽ dẫn đến việc tái tạo hình thức lao động trong đó người vợ đóng vai trò người lao động làm thuê, còn người chồng đóng vai trò ông chủ như V.I Lê-nin đã từng cảnh báo. Một vấn đề nữa là, quyền về đất đai của phụ nữ và trẻ em sau ly hôn cũng chưa được bảo vệ trên thực tế. Tình trạng bạo lực gia đình, xâm hại thân thể, nhân phẩm, quyền lợi của phụ nữ và trẻ em chưa được luật pháp ngăn chặn kịp thời. Luật Hôn nhân và gia đình vẫn chưa hứa hẹn nhiều về tính khả thi trong việc đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em trên thực tế. Hiện nay, còn tồn tại những khoảng cách (đôi khi khá xa) giữa luật pháp và thực tế. Theo một báo cáo của Ban Tuyên giáo thuộc Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam năm 1998, trong hơn 10 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình (Luật sửa đổi năm 1986), có nhiều điều luật gần như không được áp dụng trên thực tế. Theo nhận xét của Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và các tổ chức NGO Việt Nam, vẫn còn một số chính sách chưa phù hợp như tuổi nghỉ hưu của nam, nữ còn mang tính phân biệt (điều này ảnh hưởng đến chính sách đào tạo, đề bạt phụ nữ). Ngoài ra, bộ máy hoạt động vì bình đẳng giới còn cồng kềnh, chồng chéo và ch¬ưa đạt hiệu quả cao. Việc xoá bỏ sự phân biệt nam nữ trong quá khứ chậm, ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai, nhận thức về giới, về CEDAW của lãnh đạo và nhân dân chưa cao, nhiều kết quả nghiên cứu tốt về giới chưa được sử dụng đầy đủ khi xây dựng các chính sách. Về phía xã hội, xu hướng phục hồi một số tập tục lạc hậu đã thách thức pháp luật và dư luận tiến bộ: từ những việc nhỏ như tâm lý “ra ngõ gặp gái” bị xui xẻo, đến các việc lớn như tảo hôn, thách cưới, “khát” con trai, lấy vợ lẽ “chui”, sinh hoạt họ tộc theo kiểu vai vế, khắt khe, phân biệt nam nữ. Việc hạn chế, cản trở các em gái đến trường để ở nhà làm ruộng và lấy chồng sớm vẫn còn tồn tại ở một số vùng nông thôn, đã thực sự khoét sâu sự cách biệt giữa nam và nữ. Trong thời gian tới chúng ta cần đẩy mạnh việc thực hiện Công ước CEDAW, vận động, hướng dẫn phụ nữ phấn đấu rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khỏe, có tri thức, có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu. Mỗi người phụ nữ phải tự chọn cho mình một nội dung và phương pháp học tập phù hợp với bản thân, góp phần xây dựng một xã hội học tập sôi nổi trong cả nước. Gia đình Việt Nam hiện nay đang chịu tác động của nền kinh tế thị trường và của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chăm lo cho sự ổn định và phát triển của gia đình là trách nhiệm của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Đồng thời Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp, cần có các biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong việc xây dựng gia đình, phòng chống các tệ nạn xã hội, những hành vi bạo hành với phụ nữ, buôn bán phụ nữ, trẻ em, ngăn chặn tình trạng cưỡng bức hôn nhân và môi giới bất hợp pháp. Lê Thị Quý - PGS,TS, Trung tâm Nghiên cứu Giới và Phát triển Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn) Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phu nữ (1/9/2009) Ngày 18/12/1979, Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày 27/11/1981. Có thể xem sự ra đời của Công ước CEDAW là kết quả hơn 30 năm đấu tranh của Uỷ ban về địa vị phụ nữ Liên hợp quốc (CSW). Uỷ ban được thành lập năm 1946 nhằm giám sát địa vị và nâng cao quyền lợi của phụ nữ. Hoạt động của Uỷ ban đã góp phần thúc đẩy bình đẳng giới ở những nơi mà phụ nữ chưa được bình quyền như nam giới. Kết quả của những nỗ lực vì sự tiến bộ của phụ nữ là sự ra đời một số tuyên bố và điều ước quốc tế, trong đó CEDAW là văn kiện quan trọng và toàn diện nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ. Tinh thần của Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Công ước không chỉ giải thích rõ ý nghĩa của bình đẳng mà còn chỉ ra phương thức giành quyền bình đẳng đó. Trong phần mở đầu, Công ước thừa nhận một cách rõ ràng rằng "sự phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nơi" và nhấn mạnh sự phân biệt đối xử "vi phạm các nguyên tắc về quyền bình đẳng, xúc phạm tới nhân phẩm con người". Sự phân biệt đối xử đã được định nghĩa ở Điều I là "bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính... trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân sự và các lĩnh vực khác". Công ước còn khẳng định rõ: tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều bị lên án và các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, bao gồm cả biện pháp pháp luật, nhằm bảo đảm cho phụ nữ được thực hiện và thụ hưởng đầy đủ quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới (Điều 2 và 3). 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng