PAPER 1
PAPER “GOVERNMENT SIZE, COMPOSITION,
VOLATILITY AND ECONOMIC GROWTH”
António Afonso, Davide Furceri
NHÓM 3 LỚP TÀI CHÍNH CÔNG K25:
1. Khổng Minh Đạt
2. Đỗ Thị Thu Hoài (Nhóm trưởng)
3. Đỗ Thị Thúy Hồng
MỤC LỤC
TÓM TẮT....................................................................................................... 3
1. Giới thiệu................................................................................................... 3
2. Động lực và các nghiên cứu trước đây......................................................5
3. Phương pháp luận........................................................................................ 9
4. Phân tích thực nghiệm............................................................................... 12
4.1 Dữ liệu..................................................................................................... 12
4.2 Kết quả và thảo luận................................................................................ 15
4.3 Phân tích Robustness............................................................................... 21
5. Kết luận..................................................................................................... 27
Lời cảm ơn.................................................................................................... 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 33
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, THÀNH PHẦN, BIẾN ĐỘNG VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TÓM TẮT
Bài viết này phân tích những tác động về mặt quy mô và biến động của tổng thu và
chi tiêu chính phủ đến tăng trưởng ở các nước OECD và các nước EU. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy cả hai biến đều gây bất lợi cho tăng trưởng. Đặc biệt, tìm hiểu
sâu hơn vào tác động của mỗi thành phần trong tổng thu và chi tiêu chính phủ, kết
quả chỉ ra rằng i) thuế gián thu (quy mô và biến động); ii) đóng góp xã hội (quy mô
và biến động); iii) chi tiêu dùng của chính phủ (quy mô và biến động); iv) trợ cấp
(quy mô); và v) đầu tư của chính phủ (biến động) có ảnh hưởng đáng kể, ngược
chiều và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng.
1. Giới thiệu
Chi tiêu công được nhiều người coi là có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế. Thứ nhất, mức độ thấp hơn của chi tiêu ngụ ý rằng tổng thu ít hơn,
lúc này việc chi tiêu ít là cần thiết để đạt cân bằng ngân sách, có nghĩa là mức thuế
thấp hơn có thể được áp dụng, do đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và việc làm 1.
Mặt khác, trong khi đó mức độ cao hơn của chi tiêu công thường gắn liền với tốc
độ tăng trưởng cao hơn2, quy mô chính phủ cao hơn (đo lường bằng tỷ lệ chi tiêu
chính phủ theo GDP) có liên quan đến tốc độ tăng trưởng thấp hơn3.
Tổng thu và chi tiêu công cũng là các biến quan trọng ảnh hưởng đến tính bền
vững của tài chính công thông qua các tác động trên bảng cân đối tài khóa và nợ
chính phủ, và điều này liên quan đến sự thành công của khu vực tiền tệ chung như
Liên minh tiền tệ châu Âu. Ngoài ra, trong Liên minh châu Âu, Lisbon Agenda
cũng được giao giữ một vai trò có liên quan đến cải cách tài chính công nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì những lý do này, một sự quản lý chặt chẽ, giảm chi tiêu
công ở vị trí thích hợp là quan trọng và cần phải có sự cân
3/38
Nguồn thông tin tác giả. Tổng cục Kinh tế, Ngân hàng Trung ương châu Âu, Kaiserstrasse 29, D60.311 Frankfurt am Main, Đức.
Địa chỉ E-mail:
[email protected],
[email protected] (A. Afonso).
1
Một số nghiên cứu thực nghiệm đã tìm thấy tác động tiêu cực của các mức thuế đến tăng trưởng.
Xem ví dụ, Easterly và Rebelo (1993), Daveri và Tabellini (2000), Romer và Romer (2007), Furceri và
Karras (2009).
2
Xem ví dụ, Aschauer (1989), Evans và Karras (1994), Munnel (1990).
3
Xem ví dụ, Fölster và Henrekson (2001) Bassanini cùng các cộng sự (2001) và EC (2006).
bằng giữa giảm thiểu nợ công, cắt giảm thuế và tài trợ đầu tư công trong lĩnh vực
then chốt.
Hơn nữa, một sự kiểm soát tốt hơn các biến tài khóa sẽ loại bỏ hay ít nhất làm
giảm khả năng mà bản thân chính sách tài khóa là nguồn gốc của bất ổn kinh tế vĩ
mô. Trên thực tế, nếu chúng ta chấp nhận chính sách tài khóa trong một số trường
hợp được quyết định mà không xem xét đến sự ổn định kinh tế vĩ mô (theo chính
sách chủ quan), có thể là khi hạn chế các hành động như vậy xã hội sẽ ít biến động
kinh tế hơn (cả về sản lượng và đầu tư) và nhờ đó tăng trưởng kinh tế cao hơn. Nói
chung, người ta sẽ muốn chuyển chi tiêu công theo hướng gia tăng tầm quan trọng
của sự tích lũy vốn - cả về vật chất và nhân lực và hỗ trợ các lĩnh vực như nghiên
cứu, phát triển và đổi mới (EC, 2006).
Tuy nhiên, để hiểu làm thế nào hạn chế được biến động chính sách tài khóa và
kiểm tra quy mô của chính phủ, điều quan trọng là phải hiểu được rằng các thành
phần nào trong tổng thu và chi của chính phủ là bất lợi nhất cho sự tăng trưởng.
Trong thực tế, biết được kênh truyền dẫn mà thông qua đó chính sách tài khóa ảnh
hưởng đến tăng trưởng có thể giúp chúng ta hiểu được làm thế nào để chuyển
hướng tổng thu và chi tiêu công, và các thành phần nào nên được hạn chế. Vì vậy,
trong những đóng góp chính của bài nghiên cứu, chúng tôi cung cấp một số câu trả
lời cho vấn đề về thành phần này, và chúng tôi xem xét những tác động của quy mô
chính phủ và biến động chính sách tài khóa lên tăng trưởng kinh tế bằng cách sử
dụng biến động mang tính chu kỳ của các thành phần trong các biến ngân sách.
Hơn nữa, chúng tôi cũng xem xét các thành phần của tổng thu ngân sách trong
phân tích, một điều mà hiếm khi được thực hiện trong các nghiên cứu.
Chúng tôi phân tích đối với bộ dữ liệu OECD 4 và những quốc gia EU, từ 1970 đến
2004, ảnh hưởng của tổng thu và tổng chi tiêu công và các thành phần của chúng
lên tăng trưởng. Đặc biệt, đối với mỗi thành phần này chúng ta xem xét hai thước
đo của hoạt động tài khóa: quy mô tương đối của mỗi biến tài khóa được thể hiện
theo tỷ lệ phần trăm trên GDP, và biến động chu kỳ kinh doanh. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy nhiều thành phần trong tổng thu và chi ngân sách
4/38
Các nước EU có thể khác với phần còn lại của OECD về hành vi tài khóa (do việc chấp nhận Hiệp
ước Maastricht, thực hiện Hiệp ước ổn định tăng trưởng, sự tồn tại của khung tài khóa chung và áp lực
liên quan) và mối quan tâm gần đây trong việc chuyển hướng cả tổng thu và chi đối với các nước này
(EC, 2006).
4
cả về quy mô và biến động đều tác động ngược chiều (âm) lên tăng trưởng, và kết
quả còn cho thấy sự giới hạn của các biến này nên được xem là thuận lợi.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được trình bày như sau. Trong phần 2, chúng tôi
đặt bài nghiên cứu trong mối liên hệ với các bài nghiên cứu trước đây. Trong phần
3 chúng tôi giải thích phương pháp luận. Trong phần 4, chúng tôi trình bày các
phân tích thực nghiệm và thảo luận về kết quả. Phần 5 tổng kết những phát hiện
chính của bài nghiên cứu và cung cấp một số gợi ý chính sách.
2. Động lực và các nghiên cứu trước đây
Một trong những trích dẫn hay sử dụng khi nói đến kinh tế khu vực công là "Luật
Wagner" về xu hướng dài hạn của chi tiêu công đối với tăng trưởng tùy theo tổng
thu nhập quốc dân như GDP 5. Điều này ngụ ý rằng chi tiêu công có thể được xem
là một kết quả, hoặc một yếu tố nội sinh, chứ không phải là một nguyên nhân của
sự tăng trưởng trong thu nhập quốc dân. Mặt khác, các mệnh đề của Keynes xem
chi tiêu công là một yếu tố ngoại sinh, có thể được dùng như một công cụ chính
sách. Trong cách tiếp cận trước đây, các quan hệ nhân quả đi từ thu nhập quốc dân
đến chi tiêu công trong khi ở các cách tiếp cận sau này, quan hệ nhân quả đi từ chi
tiêu công thông qua nhu cầu trong nước đến thu nhập quốc dân. Bằng chứng liên
quan đến chủ đề này là không thuyết phục6.
Ngoài ra, Lucas (1988) lập luận rằng đầu tư công trong giáo dục làm tăng nguồn
vốn nhân lực và điều này có thể được xem như là nguồn chính của tăng trưởng
kinh tế dài hạn. Hơn nữa, Barro (1990) đề cập đến tầm quan trọng của chi tiêu
chính phủ trong cơ sở hạ tầng công đến tăng trưởng kinh tế và Romer (1990) nhấn
mạnh sự liên quan của chi tiêu dành cho nghiên cứu và phát triển. Vì vậy, thành
phần của chi tiêu công cũng là một vấn đề cần chú ý, và nếu mục đích là để thúc
đẩy tăng trưởng, nên chú ý vào các thành phần ngân sách, thậm chí là sự cân bằng
giữa các thành phần chức năng của ngân sách có thể khác nhau tùy theo từng hoàn
cảnh cụ thể và ưu tiên của mỗi quốc gia (ví dụ, các nước có những ưu đãi khác
nhau nhằm mục đích để phân phối lại)7.
5/38
5
Wagner (1883) phát biểu vào thế kỷ 19 "luật" liên quan đến việc mở rộng của quy mô chính phủ. Dựa trên các
dữ liệu ông lập luận rằng sự giàu có của xã hội tăng lên, quy mô của chính phủ cũng tăng tương đối (xem Buchanan
và Tullock, 1977, và Peacock và Scott, năm 2000, đưa ra các thảo luận liên quan).
6
Một số nghiên cứu thực nghiệm theo chuỗi thời gian trong quá khứ ủng hộ Luật của Wagner. Tuy nhiên, những
điều này không đáng tin cậy do sai số và bởi vì họ đã không sử dụng các bài kiểm định đồng liên kết để thiết lập tính
dừng của các biến có liên quan (xem ví dụ, Peacock và Wiseman, 1961, Musgrave, 1969, Bird, 1971, và Beck
(1982). Nghiên cứu gần đây dường như chỉ ra sự tồn tại của mối quan hệ tích cực giữa thu nhập bình quân đầ u
người và chi tiêu công (xem Martinez-Mongay, 2002).
7
Nghiên cứu về chính sách tài khóa và tăng trưởng kinh tế trong bài Zagler và Durnecker (2003), trong khi
Hemming cùng các cộng sự (2002) xem xét tính hiệu quả của chính sách tài khóa trong hoạt động kinh tế.
Sự gia tăng trong tổng chi tiêu ở hầu hết các quốc gia phát triển (minh họa ở Bảng
1) phải được nhìn nhận dựa vào hoàn cảnh mà các chính phủ đó cố gắng thực hiện
mục tiêu "Musgravian": ổn định kinh tế vĩ mô, phân phối lại thu nhập và phân bổ
nguồn lực hiệu quả hơn. Trong thực tế, khoảng thời gian từ những năm 1970 đến
1980 hầu hết các nước châu Âu đều gia tăng phúc lợi xã hội như bảo hiểm thất
nghiệp. Ngoài ra, trợ cấp hưu trí liên quan đến bảo hiểm hưu trí công cũng đã được
củng cố trong năm 1970 và trong những năm 1980. Mặt khác, Bảng 1 từ năm 1995
trở đi, tỷ lệ chi tiêu giảm ở hầu hết các nước có tỷ lệ nợ công tăng.
Khi dân số tăng người ta kỳ vọng quy mô của khu vực công tăng để đáp ứng yêu
cầu mở rộng chế độ phúc lợi ở hầu hết các quốc gia. Ví dụ, Alesina và Wacziarg
(1998) cho thấy rằng quy mô tương đối của chính phủ có thể gia tăng cùng dân số
nếu hàng hóa công và tư có tính thay thế cao. Tuy nhiên, một khu vực công lớn,
được đo lường bằng phần trăm chi tiêu chính phủ trong GDP, không nhất thiết phải
bao hàm một sự thỏa mãn cao hơn về các yêu cầu công hoặc một cách tiếp cận
hiệu quả hơn là cung cấp các lợi ích cần thiết tối thiểu của chế độ phúc lợi8.
Bảng 1: Tổng số chi tiêu công theo % của GDP (chính phủ nói chung).
Nguồn: OECD (bổ sung với AMECO và dữ liệu của Ngân hàng Quốc gia Bỉ)
6/38
Afonso cùng các cộng sự (2005a) cho thấy "chính phủ lớn" dường như thể hiện sự kém hiệu quả
hơn "chính phủ nhỏ hơn." Xem thêm Afonso cùng các cộng sự (2005a, b) thảo luận về thành phần chi tiêu
và tăng trưởng trong khi Katsimi (1998) xem xét quy mô của khu vực công, biểu thị bằng tỷ lệ công đến
tổng số việc làm, biến động sản lượng.
8
Biến động tài khóa là một vấn đề quan trọng liên quan đến chính sách tài khóa và
ảnh hưởng đến tăng trưởng. Theo quan điểm lý thuyết, hạn chế biến động chi tiêu
của chính phủ có thể có tác động tích cực và tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn. Một
biến quan trọng để xác định các dấu hiệu của những tác động này là biến động chu
kỳ kinh doanh9. Thứ nhất, chính phủ có thể làm trơn biến động chu kỳ kinh doanh
bằng việc sử dụng những thay đổi chủ quan trong chính sách tài khóa và bằng việc
sử dụng các bộ ổn định tự động10, chính sách tài khóa tác động cùng chiều đến đầu
tư tư nhân và tăng trưởng dài hạn. Mặt khác, bản thân chính sách tài khóa là một
nguồn gốc của biến động chu kỳ kinh doanh và làm trầm trọng thêm bất ổn kinh tế
vĩ mô, ví dụ trong trường hợp đo lường thuận chu kỳ11.
7/38
9
Trong thực tế, như tài liệu của một số nghiên cứu, biến động chu kỳ kinh doanh là bất lợi đối với tăng trưởng và
các yếu tố quyết định tăng trưởng. Xem ví dụ, Altman (1992, 1995), Aghion cùng cộng sự (2005), Fatás (2002) và
Furceri (2010), Ramey và Ramey (1995).
10
Xem ví dụ, Sachs và Sala-i-Martin (1991), Bayoumi và Mason (1995), Asdrubali cùng cộng sự (1996), von
Hagen (1998), Afonso và Furceri (2008a). Ngoài ra, Carmignani cùng cộng sự (2007) cũng xem xét vai trò của
thương mại và các định chế trong các mối quan hệ giữa biến động sản lượng và chi tiêu chính phủ, trong khi
Schnabl (2008) nghiên cứu về vai trò của biến động tỷ giá hối đoái trong mối liên hệ giữa quy mô chính phủ và tăng
trưởng.
11
Trong trường hợp chi tiêu chính phủ (tổng thu) tăng (giảm) trong thời kỳ bùng nổ và giảm (tăng) trong thời kỳ
suy thoái. Ngược lại, nếu sự ổn định tự động xảy ra, các khoản thanh toán xã hội như bảo hiểm thất nghiệp, có thể
được dự kiến sẽ tăng và các khoản thu thuế, đóng góp xã hội được dự kiến sẽ giảm tự động trong thời kỳ suy thoái
và ngược lại trong thời kỳ bùng nổ.
Một số bài nghiên cứu đã xem xét các cơ chế cụ thể mà thông qua đó chính sách tài
khóa có thể ảnh hưởng đến chu kỳ kinh doanh. Hầu hết các bài nghiên cứu đã phân
tích ảnh hưởng trong giới hạn chi tiêu chính phủ đến khả năng làm trơn các biến
động kinh tế. Ví dụ, Roubini và Sachs (1989), Alt và Lowry (1994), Poterba
(1995), Levinson (1998) và Lane (2003) cho rằng giới hạn chi tiêu chính phủ sẽ
gây ra ít biến động trong chi tiêu hơn, dẫn đến một sự điều chỉnh chậm hơn của
nền kinh tế trước những cú sốc bất ngờ. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu khác đã trực
tiếp xem xét các ảnh hưởng của những giới hạn tài khóa đến sự biến động của chu
kỳ kinh doanh và cung cấp những kết quả trái ngược nhau. Ví dụ, Alesina và
Bayoumi (1996) cho thấy rằng xu hướng giới hạn chính sách tài khóa có ảnh
hưởng không đáng kể đến chu kỳ kinh doanh, và họ lập luận rằng những tác động
tích cực và tiêu cực thảo luận ở trên triệt tiêu lẫn nhau 12. Ngoài ra, Canova và
Pappa (2005) cho thấy, ở các tiểu bang Hoa Kỳ thì sự hiện diện của các ràng buộc
ngân sách chặt chẽ hơn, những giới hạn về thể chế hoặc giới hạn liên quan đến nợ,
không có ý nghĩa đối với biến động chu kỳ kinh doanh.
Ngược lại, Fatás và Mihov (2006) cho thấy rằng cả hai tác động có ý nghĩa về mặt
thống kê nhưng tác động thứ nhất trội hơn hẳn. Đặc biệt, Fatás và Mihov (2003)
cho thấy sự biến động của sản lượng là do những thay đổi chủ quan trong chính
sách tài khóa làm giảm tăng trưởng kinh tế hơn 0,8 phần trăm đối mỗi phần trăm
gia tăng biến động. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng không chỉ
những thay đổi chủ quan mà còn những thay đổi tạm thời (và mang tính chu kỳ)
trong chính sách tài khóa có thể làm tăng biến động sản lượng và do đó làm giảm
tốc độ tăng trưởng sản lượng. Trong thực tế, theo Ayagari và các cộng sự (1992),
những thay đổi tạm thời trong chính sách tài khóa có thể có tác động đáng kể vào
biến động lãi suất và điều này, đến lượt nó, sẽ làm giảm tăng trưởng dài hạn 13. Đến
thời điểm này, Furceri (2007) phân tích dữ liệu bảng gồm 99 quốc gia từ năm 1970
đến năm 2000, cho thấy khi biến động chu kỳ kinh doanh trong chi tiêu chính phủ
tăng 1%, thì tăng trưởng dài hạn giảm 0,78%.
8/38
Ví dụ, một báo cáo của EC (2007) khu vực đồng euro cho thấy điều kiện tài khóa, hiệp ước ổn định
và tăng trưởng đã làm giảm biến động tăng trưởng ở châu Âu và Liên minh tiền tệ (EMU).
12
13
Ví dụ, ông Bernanke (1983), Pindyck và Solimano (1993), và Blackburn và Varvarigos (2005) cho
thấy trong các mô hình với sự không đảo ngược đầu tư và mâu thuẫn tài chính, sự không chắc chắn cao
hơn về giá cả đầu tư sẽ quyết định mức đầu tư và tăng trưởng thấp hơn.
Mặc dù ảnh hưởng của biến động chi tiêu chính phủ đã được phân tích mở rộng
nhưng ảnh hưởng của biến động các thành phần phụ trong tổng thu và chi tiêu
công không được đề cập trong các nghiên cứu trước đây 14. Bài viết này cố gắng lấp
đầy khoảng trống này. Đặc biệt, bài nghiên cứu mở rộng và cung cấp một đóng góp
mới trong tài liệu bằng cách phân tích ảnh hưởng của một số mục chi tiêu chính
phủ và tổng thu, cả về quy mô chính phủ lẫn sự biến động đến tăng trưởng.
3. Phương pháp luận
Một số nghiên cứu trong các tài liệu về tăng trưởng đã tìm thấy mối quan hệ hai
biến ngược chiều giữa tăng trưởng và quy mô chính phủ 15. Người ta thấy rằng việc
bao gồm các biến kiểm soát cụ thể trong hồi quy tăng trưởng có thể loại trừ mối
quan hệ giữa hai biến này (ví dụ, Easterly và Rebelo, 1993). Vì vậy, cần xem xét
những thông tin với vai trò là các biến kiểm soát để đưa vào hồi quy tăng trưởng.
Sala-i-Martin (1997) chạy hai triệu hồi quy và thấy rằng ít nhất trong 1 hồi quy
tăng trưởng có đến 60 biến có ý nghĩa. Trong phân tích robust, Levine và Renelt
(1992), áp dụng Phân tích cực ràng buộc (Extreme Bound Analysis), được đưa ra
lần đầu bởi Leamer (1983), thấy rằng các yếu tố tác động mạnh đến tăng trưởng
của các quốc gia là: (i) tỷ lệ đầu tư trung bình trên GDP; (ii) log ban đầu của GDP
bình quân đầu người; (iii) nguồn nhân lực ban đầu; và (iv) tỷ lệ tăng trưởng dân số
bình quân. Mức GDP ban đầu không chỉ là một biến mạnh mẽ và quan trọng cho
sự tăng trưởng (về tính hội tụ có điều kiện, Barro và Sala-i-Martin,2004), mà nhìn
chung sản lượng còn tương quan với nguồn thu thuế và chi tiêu chính phủ.
Độ mở nền kinh tế là một biến khác được tìm thấy là quan trọng trong nhiều hồi
quy tăng trưởng của các quốc gia, liên quan phần nào đến chính sách tài khóa.
Trong thực tế, nếu nền kinh tế mở đặc biệt được tiếp xúc với những cú sốc, như lập
luận của Rodrick (1998), có thể rất quan trọng đối với chính phủ tạo điều kiện bôi
trơn tiêu dùng cá nhân bằng cách điều hành một chính sách phản chu kỳ. Mặt khác,
thị trường tài chính quốc tế hội nhập có thể cung cấp phạm vi rộng hơn để hấp thu
9/38
. Brunetti (1998) và Công và Zou (2002), thấy rằng chi tiêu công biến động ngược chiều với tốc độ
tăng trưởng, nhưng không đi sâu vào tìm hiểu thành phần biến động nào trong chi tiêu công bất lợi hơn
cho tăng trưởng.
15
Xem Plosser (1993).
14
các cú sốc thông qua chia sẻ rủi ro, điều này cho thấy ít cần đến sự can thiệp của
chính phủ.
Tương tự như vậy biến động sản lượng (được định nghĩa là độ lệch chuẩn của sản
lượng chu kỳ kinh doanh) có ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng (ví dụ
Ramey và Ramey, 1995) và thường tương quan với biến động chi tiêu của chính
phủ (ví dụ Gali, 1994; Zimmermann, 1995; Fatás và Mihov, 2001; Koskela và
Viren, 2003; Lane, 2003; Debrun et al., 2008). Hơn nữa, do biến động
chi tiêu của chính phủ là một sự kết hợp giữa biến động sản lượng và các biện pháp
chính sách nên chúng ta cần phải xem xét biến động sản lượng để xác định ảnh
hưởng của biến động chi tiêu của chính phủ đến tăng trưởng.
Vì vậy, để đánh giá độ mạnh của các yếu tố quyết định tăng trưởng, và để kiểm
soát đồng thời biến động của tăng trưởng, quy mô của chính phủ, tăng trưởng và
chính sách tài khóa, trong mô hình thực nghiệm, chúng tôi đưa thêm vào các biến
tài khóa như biến động sản lượng (σY), độ mở kinh tế (OPEN), và các biến mà
Levin-Renelt tìm thấy là có liên quan mạnh nhất đối với sự tăng trưởng: log GDP
bình quân đầu người ban đầu(Y0), tỷ lệ đầu tư trung bình trên GDP (I /Y), vốn
nhân lực ban đầu (h), và tỷ lệ tăng trưởng trung bình của dân số (n) 16. Chúng tôi
cũng đưa một biến giả quốc gia cho Đức và Phần Lan
17
để giải thích cho các điểm
gãy, và một biến giả năm cho EMU và thị trường duy nhất EU (SM), để xem xét
liệu EMU và sự ra đời của thị trường duy nhất có phải là yếu tố quan trọng quyết
định sự
tăng trưởng của EMU
và các quốc gia châu Âu EU 18.
Một vấn đề khác có liên quan sẽ được thảo luận khi sử dụng hồi quy tăng trưởng
giữa các quốc gia là khoảng thời gian dùng để hồi quy. Thường những bài nghiên
cứu về tăng trưởng sử dụng khoảng thời gian rộng (30-40 năm) và xem xét các giá
trị trung bình của yếu tố quyết định tăng trưởng trong khoảng thời gian này. Tuy
10/38
Xem Phụ lục A về cách chúng tôi xây dựng biến động sản lượng đầu ra, chi tiêu công và nguồn thu.
17
Các biến giả giả định bằng 1 vào năm 1990 trường hợp của Đức, và vào năm 1991 trường hợp của
Phần Lan, để tính toán điểm gãy trong dữ liệu phát sinh từ cuộc khủng hoảng vào đầu những năm 1990.
Kết quả không thay đổi về mặt định tính nếu chúng ta loại trừ các biến này
18
Cuối cùng, sự kiện như EMU cũng có thể được coi là kết quả nội sinh tăng trưởng. Các kết quả của
16
nghiên cứu không thay đổi về mặt định tính nếu chúng ta loại bỏ biến giả.
nhiên, khi các biến tài khóa và biến chính sách khác được bao gồm, điều này có thể
gia tăng một số vấn đề, chẳng hạn như nội sinh và đồng thời có ý nghĩa. Cụ thể,
liên quan đến chính sách tài khóa, trong khoảng thời gian dài mức độ chi tiêu và
nguồn thu của chính phủ có khả năng bị ảnh hưởng bởi nhân khẩu học, cụ thể là tỷ
lệ người cao tuổi ngày càng tăng. Do đó, sai số trong biến tăng trưởng sẽ ảnh
hưởng đến GDP, nhân khẩu học, và các loại thuế, chi tiêu chính phủ. Kết quả là,
các biến độc lập, nguồn thu chính phủ hoặc chi tiêu của chính phủ được thể hiện
dưới dạng phần trăm GDP, tương quan với các sai số trong hồi quy tăng trưởng, và
điều này sẽ dẫn đến ước lượng bị sai lệch.
Vấn đề thứ hai là những nghiên cứu giữa các quốc gia, sử dụng thời gian quan sát
dài, gây ra hiện tượng nội sinh trong chính sách tài khóa 19. Ví dụ, trong thời gian
dài, tốc độ tăng trưởng có thể ảnh hưởng nguồn thu thuế. Các nước ban đầu tăng
thuế và phải chịu tốc độ tăng trưởng thấp hơn trong thời gian quan sát có nhiều khả
năng sau này sẽ giảm thuế. Tương tự như vậy, các nước tăng thuế mà không bị tác
động tăng trưởng tiêu cực thì vẫn tiếp tục giữ mức thuế cao. Điều này có nghĩa là
các nghiên cứu giữa các quốc gia qua thời gian dài có thể không nắm bắt tác động
nhân
quả
của
tăng
trưởng
đến
thuế.
Một vấn đề quan trọng thứ ba là hồi quy tăng trưởng trong dài hạn có thể không
hiệu quả vì chúng loại bỏ tất cả các thông tin về sự biến động trong nước của tăng
trưởng và sản xuất, và cả về quy mô chính phủ. Hơn nữa, việc đưa thêm vào biến
giả thời kỳ giúp kiểm soát một vấn đề là hầu hết các nước đã trải qua sự giảm tỷ lệ
tăng trưởng trong những năm 1970 và 1980. Biến giả quốc gia đánh giá những tác
động cụ thể liên quan đến quốc gia. Vì vậy, chúng tôi sẽ tập trung chủ yếu vào
việc hồi quy kết hợp dữ liệu thời gian và dữ liệu chéo, sử dụng dữ liệu trong 7 thời
kỳ, mỗi thời kỳ 5 năm 1970-2004 (ví dụ 1970-1974, ..., 2000-2004), và chúng tôi
sử dụng gộp các hiệu ứng cố định thời gian và cố định quốc gia, và sai số chuẩn
robust để kiểm soát hiện tượng phương sai thay đổi giữa các quốc gia.
19
11/38
Để kiểm tra cho độ mạnh của các kết quả, chúng tôi đi tới Phần 4.3 các vấn đề của sự đồng thời sử
dụng các thông số kỹ thuật thực nghiệm khác nhau.
Do đó, chúng tôi ước lượng hai phương trình tăng trưởng như sau, tương ứng với
nguồn thu và chi tiêu của Chính phủ 20:
2
R
gi,t = α1 + β1Ri,t + γ1 Ri ,t + ∂1 σ i ,t + ϑ1Xi,t + ϕ1Tt + υ1Si + εi,t
(1)
2
E
gi.t = α2 + β2Ei,t + γ2 E i ,t + ∂2 σ i ,t + ϑ2Xi,t + ϕ2Tt + υ2Si + ξi,t
(2)
Trong đó, chỉ số i (i = 1, ..., 28) biểu thị các quốc gia, chỉ số t (t = 1970-1974,
1975-1979, ..., 1999-2004) cho thấy khoảng thời gian, và α 1 và α2 đại diện cho hiệu
ứng riêng được ước lượng cho mỗi quốc gia i, g là tốc độ tăng trưởng GDP thực
bình quân đầu người, R là tập các biếnnguồn thu của chính phủ theo tỷ lệ phần
trăm của GDP, E là tập hợp các biến chi tiêu chính phủ theo tỷ lệ phần trăm của
GDP, σR là vector của các biến biến động nguồn thu và σE là vector của các biến
biến động chi tiêu, X là tập các biến kiểm soát (mức sản lượng bình quân đầu
người ban đầu, biến động sản lượng, tỷ trọng đầu tư, nguồn nhân lực, tăng trưởng
dân số, và độ mở nền kinh tế), T và S là biến giả thời kỳ và biến giả quốc gia.
Ngoài ra, hồi quy (1) và (2) cũng bao gồm bình phương của R và E để xem xét tác
động có thể có của các quy mô chính phủ khác nhau và sự tồn tại của quy mô
chính phủ tối ưu đối với tăng trưởng kinh tế.
4. Phân tích thực nghiệm
4.1 Dữ liệu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào các nước OECD và các nước EU.
Các quốc gia trong phân tích là những thành viên EU15, sau đây là các nước EU
(Áo, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Phần Lan, Đức, Hy Lạp, Ý, Ireland, Luxembourg, Hà
20
12/38
Chúng tôi phân tích hai phương trình riêng do nguồn thu và chi tiêu thường khá tương quan (tương
quan là 0,91 cho tổng thu và tổng chi, nhưng thấp hơn đối với các thành phần phụ), và điều này sẽ tạo ra
những vấn đề nghiêm trọng về đa cộng tuyến và sẽ không cho phép xác định được vấn đề về các biến chi
tiêu và biến nguồn thu (xét cả về tỷ trọng và biến động) trong tăng trưởng. Đối với mối tương quan giữa
các biến chi tiêu và biến nguồn thu sẽ tìm thấy trong bài nghiên cứu Afonso và Furceri (2008a, b). Hơn
nữa, ít nhất là khi xét về tổng chi và tổng thu, nên biết rằng nếu hai biến này đều liên quan đến tăng
trưởng thì có thể xảy ra hiệu ứng đối xứng đối với hai biến này.
Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, và Anh), và cho phần còn lại làcác
nước OECD: Úc, Canada, Cộng hòa Séc, Hungary,Iceland, Nhật Bản, Hàn
Quốc,New Zealand, Na Uy, Ba Lan, Slovakia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ.
Nghiên cứu chỉ ra hai mẫu về các quốc gia trên cung cấp nhiều lợi thế. Thứ nhất,
khoảng dữ liệu với thời gian dài có sẵn cho các nước OECD và EU hơn là tập dữ
liệu các quốc gia ở phạm vi rộng hơn bao gồm các nước đang phát triển. Thứ hai,
chất lượng dữ liệu và tính so sánh giữa các quốc gia cũng có thể sẽ là một tiêu
chuẩn cao hơn ở các nước OECD, và điều này là cực kỳ quan trọng khi chúng ta
xem xét cách đo lường biến động tài khóa, vì biến động sẽ tăng lên thể hiện sai số
trong phép đo. Thứ ba, như lập luận của Grier và Tullock (1989), dữ liệu từ các
nước OECD và phần còn lại của thế giới không có sự tương đồng bộ hệ số chung
trong hồi quy tăng trưởng các quốc gia và do đó không được gộp chung lại.
Dữ liệu tài khóa của chính phủ được lấy từ các cơ sở dữ liệu từ các bài nghiên cứu
kinh tế về OECD.21 Để tính toán biến động, tất cả các biến tài khóa được quy đổi ra
giá so sánh bằng cách sử dụng GDP giảm phát, vì chúng tôi không muốn loại bỏ
bất kỳ sự tăng trưởng nào trong chi tiêu chính phủ mà chứa đựng hình thức tăng
giá trong sản lượng khu vực công, và hầu hết các tổng hợp không xác định chính
xác được chỉ số giảm phát.
Xét về chi tiêu công, chúng ta xem xét các biến sau: Tổng chi tiêu (E) và sự thất
bại trong chuyển đổi (TRA), Trợ cấp (SUB), đầu tư của Chính phủ (GINV), và tiêu
dùng của Chính phủ (GCON). Đối với các biến sau đó chúng ta cũng phân ra thành
lương (GWAGE) và các thành phần không phải lương (GNONWAGE). Xét về các
biến liên quan đến nguồn thu, chúng tôi phân tích Tổng thu(R), và các thành phần
chính: Thuế trực thu (DIR), Thuế gián thu (IND) và đónggóp xã hội (SOC).
Đối với tất cả các biến này chúng ta xây dựng hai phương pháp đo lường. Đầu tiên
là quy mô tương đối của mỗi biến được tính bằng tỷ lệ phần trăm của nó trên GDP.
Thứ hai xem xét biến động theo chu kỳ, được tính là độ lệch chuẩn của thành phần
13/38
21
Xem Phụ lục B mô tả về các nguồn lấy biến.
mang tính chu kỳ của mỗi biến 22. Trong Bảng 2 chúng tôi thể hiện kết quả về biến
động trung bình.
Vốn con người (h) được lấy từ bộ dữ liệu của Barro và Lee (2001). Phần còn lại
của các biến kiểm soát được mô tả trong phần tiếp theo lấy từ dữ liệu Heston cùng
các cộng sự. (2006) (Penn World Bảng 6.2).
Bảng 2: Biến động trung bình của biến sản lượng và biến tài khóa
Bảng 3: Tổng thu chính phủ và tăng trưởng (bao gồm biến giả quốc gia và biến giả
thời kỳ)
22
14/38
Xem Phụ lục B thảo luận chi tiết hơn về các phương pháp lọc.
Ghi chú: thống kê t trong ngoặc đơn. Sai số chuẩn robust để kiểm soát các biến
ngẫu nhiên.
*, **, *** - Theo thống kê có ý nghĩa ở mức 10, 5, và 1%.
FIN - biến giả giả định bằng1 cho giai đoạn năm 1990.
GER - biến giả giả định bằng 1 cho giai đoạn năm 1991.
SM - biến giả giả định bằng 1 sau năm 1991 cho các nước EU15.
EMU- biến giả giả định bằng 1 sau năm 1998 cho các nước EMU.
Bộ lọc HP6.25 đã được sử dụng để phân rã dữ liệu.
4.2 Kết quả và thảo luận
Bảng 3 trình bày các ước lượng về ảnh hưởng của tổng thu chính phủ theo phần
trăm GDP và sự biến động trong GDP đối với tăng trưởng sản lượng (bằng cách sử
dụng lọc HP cho dữ liệu hàng năm với tham số làm trơn λ = 6,25). Kết quả cho
thấy tổng thu trên GDP dường như có tác động ngược chiều (âm) lên tăng trưởng
15/38
GDP bình quân đầu người thực cả ở các nước OECD và các nước EU. Cụ thể khi
tổng thu trên GDP tăng 1% sẽ làm giảm tăng trưởng sản lượng 0,12% ở cả các
nước OECD và EU. Ngược lại, biến động trong tổng thu dường như không ảnh
hưởng đáng kể lên tăng trưởng23. Ngoài ra, ảnh hưởng của bình phương tỷ số tổng
thu của chính phủ có vẻ không phụ thuộc vào quy mô tương đối của chính phủ.
Bảng 4: Tổng chi tiêu chung của chính phủ và tăng trưởng (bao gồm biến giả quốc
gia và biến giả thời kỳ)
Chú ý: Thống kê t trong ngoặc đơn. Sai số chuẩn Robust kiểm soát các biến ngẫu
nhiên.
*, **, *** đại diện cho ý nghĩa thống kê tại mức 10%, 5%, 1%
FIN – Biến giả giả định có giá trị bằng 1 đối với giai đoạn năm 1990
16/38
Ảnh hưởng của các biến kiểm soát nhìn chung là đáng kể (ngoại trừ biến giả EMU và SM), và dấu
hiệu này là phù hợp với một trong các kết quả kỳ vọng)
23
GER – Biến giả giả định có giá trị bằng 1 đối với giai đoạn năm 1991
SM - Biến giả giả định có giá trị bằng 1 cho giai đoạn sau năm 1991 đối với các
nước EU15.
EMU - Biến giả giả định có giá trị bằng 1 cho giai đoạn sau năm 1999 đối với các
nước EMU.
Lọc HP 6.25 được sử dụng để phân tách chuỗi dữ liệu.
Những tác động tương tự xuất hiện từ việc phân tích tác động của tổng chi tiêu
chính phủ. Bảng 4 trình bày các ước lượng về tác động của tổng chi theo phần trăm
GDP và biến động trong GDP đối với tăng trưởng sản lượng. Cũng giống với
trường hợp của tổng thu, các quốc gia có tỷ lệ chi tiêu công trên GDP cao hơn có
xu hướng tăng trưởng chậm hơn. Cụ thể, ở các nước OECD (EU) khi tỷ số tổng chi
tiêu chính phủ trên GDP tăng 1% sẽ làm giảm tăng trưởng sản lượng 0,13%
(0,09%). Độ lớn của hệ số này gần bằng giá trị tuyệt đối của hệ số thể hiện tác
động của tổng vốn đầu tư lên tăng trưởng. Một lần nữa, tác động của bình phương
tỷ lệ chi tiêu chính phủ dường như không phụ thuộc vào quy mô của chính phủ.
Một mẫu hình khác xuất hiện trong biến động chi tiêu chính phủ. Trong khi biến
động chi tiêu chính phủ không ảnh hưởng đến tăng trưởng ở các nước OECD thì
nó lại có tác động ngược chiều đáng kể ở các nước EU. Đối với các nước này, khi
biến động trong chi tiêu chính phủ tăng 1% (Trung bình) sẽ làmgiảm tăng trưởng
0.76 %.24
Phân tích tác động của từng thành phần trong tổng thu chung của chính phủ lên
tăng trưởng (Bảng 5), chúng ta có thể thấy cả thuế gián thu và các đóng góp xã hội
được thể hiện bằng phần trăm theo GDP có tác động ngược chiều lên tăng trưởng ở
cả các nước OECD và EU. Đặc biệt khi tăng 1% thuế gián thu làm tăng trưởng
giảm 0.3 (0.4)% đối với các nước OECD (EU); với mức tăng tương tự trong tỷ lệ
đóng góp của xã hội làm giảm tăng trưởng 0,34 (0,38)% đối với các nước OECD
(EU). Như vậy, trong khi ở các nước OECD đóng góp xã hội gây bất lợi cho tăng
trưởng hơn thì ở các nước EU thuế gián thu gây hại cho tăng trưởng nhiều hơn.
Ngược lại, thuế trực thu và quy mô chính phủ dường như không có ảnh hưởng
24
17/38
Ảnh hưởng lên tăng trưởng được tính toán bằng cách nhân các hệ số ước lượng của biến động trung
bình với giá trị biến động trung bình (Xem bảng 2). Gía trị trong bài và các giá trị thu được bằng phép
nhân có thể khác nhau do làm tròn số.
đáng kể đến tăng trưởng của các quốc gia ở 2 khu vực 25. điều này có thể cho thấy
rằng các loại thuế trực thu (như thuế thu nhập) thì ít bóp méo hơn các loại thuế
gián thu (như thuế GTGT, thuế tổng thu, thuế hàng hóa và dịch vụ) và đóng góp xã
hội.26
Bảng 5: Thành phần tổng thu chung của chính phủ và tăng trưởng (bao gồm biến
giả quốc gia và biến giả thời kỳ)
Ghi chú: thống kê t được trình bày trong ngoặc đơn. Sai số chuẩn Robust điều
chỉnh cho các biến ngẫu nhiên.
*, **, *** ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%.
n.r – Không được trình bày. Các kết quả đầy đủ của các biến này được cung cấp
khi có yêu cầu. Lọc HP 6.25 được sử dụng để phân rã các chuỗi dữ liệu.
Trong điều kiện biến động, cho thấy biến động trong các loại thuế gián thu tác
động ngược chiều đến tăng trưởng ở các nước OECD, biến động trong đóng góp xã
hội có tác động ngược chiều lên tăng trưởng đối với các nước EU. Đặc biệt, khi
25
26
18/38
Chúng tôi đang nghiên cứu dựa trên gánh nặng thuế trung bình chứ không phải gánh nặng thuế biên;
Tác động ngược chiều của đóng góp xã hội lên tăng trưởng cũng được xác nhận đáng chú ý trong bài
nghiên cứu bởi Romer và Romer (2007) và Furceri và Karras (2009)
biến động trong thuế gián thu tăng 1% (đóng góp xã hội)làm giảm tăng trưởng ở
các nước OECD (EU) khoảng 0.07 (0.27)%.
Lặp lại các phân tích tương tự đối với các thành phần chính trong chi tiêu chính
phủ chung, chúng ta có thể quan sát cho cả 2 bộ dữ liệu các nước, các khoản trợ
cấp và chi tiêu của chính phủ thể hiện bằng phần trăm trong GDP có tác động
ngược chiều đáng kể lên tăng trưởng 27. Tác động ngược chiều này có thể được giải
thích bởi thực tế rằng các khoản trợ cấp có thể cung cấp trong một số trường hợp
không được khuyến khích và bị bóp méo. Từ cột 1 và 3 trong bảng 6, có thể thấy
rằng khi tăng 1% trợ cấp sẽ làm giảm tăng trưởng khoảng 0.22 (0.71)% ở các nước
OECD (EU), khi tăng 1% chi tiêu chính phủ sẽ làm giảm tăng trưởng 0.23
(0.31)%. Như vậy, mặc dù các tác động là rõ rệt hơn ở các nước EU như các khoản
trợ cấp dường như có hại hơn cho tăng trưởng so với chi tiêu chính phủ. Hơn nữa,
ở các nước OECD, mặc dù chi tiêu chính phủ cản trở tăng trưởng nhưng dường
như nó gây ra tác động tiêu cực ít hơn ở các nước có quy mô chính phủ tương đối
lớn.28 Tuy nhiên, sự cải thiện này khá đáng kể về độ lớn, với kết quả ở ngay cả
những nước có chi tiêu chính phủ gây cản trở cho tăng
trưởng. Ngược lại, trong khi đầu tư của chính phủ dường như không ảnh hưởng
đáng kể lên tăng trưởng ở cả 2 bộ dữ liệu, các chuyển nhượng có tác động dương
(tích cực) và có ý nghĩa ở các nước EU.
Trong điều kiện biến động, trong khi tất cả các biện pháp gây biến động chi tiêu
công không ảnh hưởng đáng kể ở các nước OECD, cả biến động trong chi tiêu
chính phủ và biến động trong đầu tư đều có tác động ngược chiều (tiêu cực) và có
ý nghĩa thống kê lên tăng trưởng ở các nước EU. Đối với các nước này, khi có sự
tăng lên 1% trong biến động chi tiêu chính phủ (đầu tư) làm giảm tăng trưởng 0.41
(0.46)%. Điều này có thể được giải thích là do thực tế, biến động trong chi tiêu
chính phủ và đầu tư cao hơn sẽ làm tăng sự biến động của kinh tế vĩ mô, do đó làm
giảm tăng trưởng và đầu tư tư nhân, từ đó làm tăng tác động lên lãi suất (Ayagari
và cộng sự 1992).
Chi tiêu chính phủ được chia thành các thành phần gồm tiền lương và các khoản
không phải tiền lương, cả 2 biến được thể hiện dưới dạng phần trăm theo GDP lần
19/38
Chúng ta nên biết rằng có thể có quan hệ nhân quả ngược chiều giữa tăng trưởng và trợ cấp, trong
tình huống các chính phủ có tăng trưởng thấp lựa chọn tăng số tiền trợ cấp.
28
Điều này có thể được giải thích là do thực tế trong số những nước có nền kinh tế chuyển đổi như
Cộng Hòa Séc và Hungary nơi mà chi tiêu chính phủ có thể giúp đỡ trong quá trình tái cấu trúc nền kinh
tế)
27
lượt tác động ngược chiều lên tăng trưởng ở các quốc gia thuộc cả 2 khu vực (Bảng
7). Tuy nhiên, trong khi ở các nước OECD độ lớn của những tác động này là gần
bằng nhau thì ở các nước EU các khoản chi không phải là lương của chính phủ
dường như gây hại nhiều hơn, và kết quả này vẫn tồn tại khi chúng ta xem xét các
biến động. Hơn nữa, ở các nước EU tác động ngược chiều của tiền lương là ít hơn
phù hợp với các quốc gia mà chi tiêu tiền lương của chính phủ cao hơn 18%. 29 Tuy
nhiên, hiệu ứng quy mô này là rất khiêm tốn, kết quả này cũng đúng cho các nước
mà chi tiêu tiền lương của chính phủ gây bất lợi cho tăng trưởng.
Bảng 6: Thành phần chi tiêu chính phủ và tăng trưởng (bao gồm biến giả quốc gia
và biến giả thời kỳ)
Bảng 7: Thành phần chung chi tiêu chính phủ (chia thành tiền lương và các khoản
phi tiền lương) và tăng trưởng (bao gồm biến giả quốc gia và biến giả thời kỳ)
29
20/38
Biến GWAGE2 không có ý nghĩa khi chúng tôi loại bỏ tất cả các quan sát có phần trăm chi tiêu lương
của chính phủ trên 18%. Các quốc gia này là Bỉ (1970-1974), Đan Mạch (1980-1984) và Thụy Điển
(1975-1979, 1980-1984).