Việc tiếp cận các công nghệ thông tin và truyền thông đã đang và sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả mọi người trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Vậy, pháp luật có những quy định như nào và thực tiễn thực hiện ra sao? Bằng kiến thức đã học em xin lực chọn đề tài: “Quy định của pháp luật hiện hành về Công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật. Thực tiễn thực hiện ở Việt nam.”
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Việc tiếp cận các công nghệ thông tin và truyền thông đã đang và sẽ tạo ra nhiều cơ
hội cho tất cả mọi người trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Vậy, pháp luật có
những quy định như nào và thực tiễn thực hiện ra sao? Bằng kiến thức đã học em xin
lực chọn đề tài: “Quy định của pháp luật hiện hành về Công nghệ thông tin và
truyền thông đối với người khuyết tật. Thực tiễn thực hiện ở Việt nam.”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Sự cần thiết của ban hành quy định về Công nghệ thông tin và truyền thông
đối với người khuyết tật.
Truy cập công nghệ thông tin và truyền thông tạo tra nhiều cơ hội cho mỗi người
nó chung, cho người khuyết tật nói riêng. Công nghệ thông tin giúp con người mở
mang tầm nhìn, cập nhật công nghệ thông tin, phát huy được tiềm năng của mình.
Đối với người khuyết tật công nghệ thông tin có thể giúp cho họ phát huy được vai
trò đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
Thứ nhất, về công nghệ thông tin: Người khuyết tật ở một số dạng nhất định như
khiếm thính, khiếm thị thường gặp khó khăn hơn trong việc học tập và trao đổi thông
tin với xã hội bên ngoài, bởi người khiếm thị thông thường chỉ có thể đọc thông tin
qua chữ nổi, trong khi đó hầu hết các tài liệu đều không ở dạng này. Tuy nhiên công
nghệ thông tin và truyền thông có thể giúp họ tháo gỡ, khắc phục được những khó
khăn này, thậm chí có thể giải quyết được vấn đề mà người khuyết tật vô cùng quan
tâm và cần tới, đó là Việc làm.
Ngày nay với sự phát triển của xã hôi, đã xuất hiện một số phần mềm hỗ trợ của
máy tính, chỉ qua vài bước cài đặt là người khiếm thính đã có thể gửi mail, nhân mail,
hìn ảnh... hơn cả là các phân mềm như JAW, NDC, Via voice đã giúp họ có thể nghe
các nội dung mà mình cần đọc qua máy tính.
Ngoài ra, công nghệ thông tin còn có thể là công cụ hỗ trợ làm tăng khả năng phục
hồi, khắc phục khuyết điểm ở người khuyết tật. Với những người chậm phát triển....
Page 1
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
Thứ hai, bên cạnh công nghệ thông tin thì truyền thông cũng đóng vai trò quan
trọng cho sự hòa nhập của người khuyết tật với xã hội. Các phương tiện truyền thông
một mặt phản ánh thông tin cần thiết về người khuyết tật trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội đến cộng đồng,và ngược lại cũng cung cấp mọi thông tin từ cộng đồng
đến với người khuyết tật.
Hơn nữa, các cách thức mà các phương tiện truyền thông đưa tin có thể giúp nâng
cao nhận thức của toàn xã hội về những khó khăn thực tế mà người khuyết tật phải
đối mặt, giảm bớt lối mòn trong suy nghĩ cũng như trong định kiến và những cách
hành xử gây ảnh hưởng không tốt tới người khuyết tật, đồng thời nâng cao nhận thức
về khả năng đóng góp của người khuyết tật cho xã hội. Thời điểm và việc đăng tải tin
bài về chủ đề hòa nhập người khuyết tật , ngôn từ dùng để nói về người khuyết tật có
thể mang lại nhận thức tích cực, tăng cường sự tôn trọng đối với quyền và nhân phẩm
của người khuyết tật, thúc đẩy và nâng cao nhận thức về hòa nhập xã hội cho người
khuyết tật.
II. Những quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật.
Xuất phát từ việc nhận thức được tầm quan trọng của Công nghệ thông tin và
truyền thông đối với người khuyết tật. Cùng với Công ước Quốc tế về Quyền của
Người khuyết tật. Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật là cơ sở pháp lí
quy định về công nghệ thông tin và truyền thông cho người khuyết tật. Cụ thể như
sau:
2.1. Các quy định hiện hành theo Công ước quốc tế về quyền của người
khuyết tật .
Theo đó, Điều 21 Công ước quy định như sau:– Tự do bày tỏ ý kiến, tự do ngôn
luận và tự do tiếp cận công nghệ thông tin: “Các Quốc gia thành viên của Công ước
này cam kết thực hiện tẩt cả các biện pháp phù hợp để đảm bảo rằng người khuyết
tật có thể thực hiện quyền tự do bày tỏ ý kiến và tự do ngôn luận kể cả quyền tự do
đưa tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và quan điểm trên cơ sở bình đẳng như
những người khác, và bằng nhiều hình thức truyền thông do họ lựa chọn, như đã
được ghi trong Điều 2 của Công ước này, bao gồm:
Page 2
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
(a) cung cấp thông tin hướng đến đại chúng cho người khuyết tật dưới hình thức
và công nghệ tiếp cận phù hợp với nhiều dạng tật khác nhau vào đúng thời điểm mà
không có chi phí phát sinh;
(b) thừa nhận và hỗ trợ việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, các hình
thức truyền thông thay thế, và tất cả các cách thức, các kiểu và các loại hình có thể
sử dụng được của truyền thông tiếp cận khác do người khuyết tật tự lựa chọn trong
quá trình giao tiếp chính thức;
(c) thúc giục các đơn vị tư nhân cung cấp dịch vụ cho đại chúng, kể cả qua
Internet, cung cấp thông tin và dịch vụ với hình thức tiếp cận được và sử dụng được
cho người khuyết tật;
(d) khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả nhà cung cấp thông
tin qua Internet cung cấp các dịch vụ với hình thức tiếp cận được cho người khuyết
tật;
(e) Thừa nhận và thúc đẩy việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu.”1
Đây là Văn bản Quốc tế là cơ sở cho việc ban hành các quy định về quyền của
người khuyết tật trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam với Tư cách là chủ thể của
luật Quốc tế do đó không có lí do gì không thừa nhận các quy định trong Công ước
này và cụ thể hóa vào pháp luật trong nước nói chung. Có thể nói đây là cơ sở, để
pháp luật trong nước dựa theo đó bảo đảm những quyền của người khuyết tật trên
mọi lĩnh vực nói chung và công nghệ thông tin nói riêng.
Về công nghệ thông tin và truyền thông. Công ước đã thừa nhân và khuyến khích
các đơn vị tư nhân cung cấp internet cho người khuyết tật dưới những hình thức phù
hợp nhất cho họ. Thừa nhận và thúc đẩy sử dụng các ngôn ngữ kí hiệu để người
khuyết tật có thể giao tiếp được với người bình thường....
2.2 Các quy định hiện hành tại Luật Người khuyết tật.
Có thể nói, đây là văn bản pháp luật quan trọng nhất trong việc quy định các quyền
và nghĩa vụ cho người khuyết tật trong mọi lĩnh vực nói chung và trong công nghệ
thông tin và truyền thông nói riêng tại Việt Nam. Cụ thể như sau:
Căn cứ theo quy định tại điều 43 luật người Khuyết tật.
1 Điều
21: Công ước Quốc tế về Quyền của Người khuyết tật
Page 3
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
“1. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành
cho người khuyết tật.
2. Cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất và tinh
thần của người khuyết tật.Đài truyền hình Việt nam có trách nhiệm thực hiện chương
trình phát sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật
theo quy định của bộ trưởng bộ thông tin và truyền thông.
3. Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ
trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ, phương
tiện hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc
thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi braille dành cho người khuyết tật
nhìn, tài liệu đọc dành cho người khuyết tật nghe, nói và người khuyết tật trí tuệ.”
Cụ thể hóa các quy định trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật
Nội dung của quy định này, hướng tới ba vấn đế:
Thứ nhất, Điều luật đã khuyến khích mọi thành phần trong xã hội có liên quan tới
công nghệ thông tin và hiểu biết về công nghệ thông tin sáng tạo, phát triển các sản
phẩm có tính ứng dụng cao phục vụ người khuyết tật.Quy định này của pháp luật là
kịp thời và cần thiết, bởi lẽ, như nhận xét ở trên ta thấy, đối với những người khuyết
tật thì công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin là những lĩnh vực phù
hợp nhất đối với người khuyết tật cả trên phương diện xã hội lẫn đặc điểm của người
khuyết tật. Đặc biệt là những người khuyết tật về vận động hay khiếm thị, thì công
nghệ thông tin là phương án tối ưu giúp họ phần nào tiếp cận được với xã hội và tạo
cơ hội việc làm tạo lập cuộc sống.
Thứ hai, tại khoản 2, quy định về vai trò của truyền thông đối với người khuyết tật
như: “trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn
ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy định của bộ trưởng bộ thông tin và
truyền thông”. Đây là quy định thực sự cần thiết, vì đứng trên cương vị của những
người khuyết tật họ đã phải chịu những thiệt thòi hơn nhiều so với những người
không khuyết tật, vậy tại sao họ lại không được tạo điều kiện tiếp thu, tiếp cận các
thông tin hàng ngày. Đơn cử. với những người khuyết tật về câm, điếc. Họ không có
khả năng nghe, nói nhưng họ vẫn còn khả năng nhìn, họ vẫn có thể biết được những
Page 4
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
thông tin được nói tới là gì, chỉ cần chuyển thể sang một dạng khác là họ đã có thể
nhận biết được.
Thứ ba, nhà nước quy định một số chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất, cho
người khuyết tật được tiếp cận thông tin và truyền thông, để làm sao cho họ hòa nhập
được cộng đồng, làm chủ kiến thức, xóa bỏ cảm giác tự ti, xa lánh cộng đồng, giúp
bản thân người khuyết tật nhận ra rằng mình vẫn còn khả năng đóng góp cho xã hội,
chứ không phải họ là người khuyết tật là họ đã mất tất cả.
Có thể nói, về mặt lí thuyết chưa tính tới thực tiễn triển khai, áp dụng trong thực tế,
những quy định trên của pháp luật, đã phần nào hướng tới bảo đảm quyền và mang
lại nhiều lợi ích cho người khuyết tật được tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông được tốt hơn.
2.3. Các quy định tại Thông tư Số: 28/2009/TT-BTTTT ngày 14/9/2009.
Thông tư Quy định về việc áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật
tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ban hành kèm theo kaf “
Danh mục tiêu chuẩn hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin
và truyền thông được quy định áp dụng theo hai hình thức: Bắt buộc áp dụng và
khuyến nghị áp dụng. Chẳng hạn, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu
phân phối, bán lẻ thiết bị viễn thông bắt buộc phải sắp xếp kí tự số, kí tự chữ và kí
hiệu trên điện thoại và các thiết bị khác để giúp người khuyết tật tiếp cận và sử dụng
mạng điện thoại. Khi thiết kế các trang web bắt buộc phải hướng dẫn khả năng tiếp
cận và sử dụng nội dung thông tin của trang thông tin điện tử...
Có thể nói thông tư này đã hướng dẫn một cách khá chi tiết tiêu chuẩn công nghệ...
về công nghệ thông tin và truyền thông, có thể nói đây là hướng mở giúp người
khuyết tật được tiếp xúc và sử dụng các thiết bị hiện đại, kĩ thuật số,... tiếp cận thông
tin và hòa nhập cộng đồng.
2.4. Quy định hiện hành trong Luật Công nghệ thông tin năm 2010.
Căn cứ theo quy định tại : Điều 74. Hỗ trợ người tàn tật
“1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật tham gia
hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, phát triển năng lực làm việc
của người tàn tật thông qua ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; có chính
Page 5
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
sách ưu tiên cho người tàn tật tham gia các chương trình giáo dục và đào tạo về
công nghệ thông tin.
2. Chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển công nghệ thông tin quốc gia phải
có nội dung hỗ trợ, bảo đảm cho người tàn tật hòa nhập với cộng đồng.
3. Nhà nước có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và ưu đãi khác cho hoạt động
sau đây:
a) Nghiên cứu - phát triển các công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả năng của
người tàn tật trong việc truy nhập, sử dụng các nguồn thông tin và tri thức thông qua
sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin;
b) Sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin
và nội dung thông tin số đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tàn tật.”
Mặc dù đây không phải là văn bản pháp luật hướng tới đối tượng là người khuyết
tật , tuy nhiên, hưởng ứng chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho người khuyết tật được tiếp cận công nghệ thông tin. Luật công nghệ thông
tin đã phần nào đó, hướng tới bảo đảm quyền và lợi ích cho người khuyết tật như cho
họ; tham gia ứng dụng và tiếp cận công nghệ thông tin, ưu tiên người tàn tật được
giáo dục và đào tạo về công nghệ thông tin ....
III. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật hiện hành về Công nghệ thông
tin và truyền thông đối với người khuyết tật ở Việt nam.
3.1. Thứ nhất, Về công nghệ thông tin.
Theo quy định của pháp luật nói chung. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và
phát triển công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật.
Có thể nói quy định này, thực sự có tính cần thiết đối với người khuyết tật. Theo
quy định này, Nhà nước “ Khuyến khích” chứ không “bắt buộc” cá nhân, tổ chức...
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin cho người khuyết tật. Về cơ bản, xuất
phát từ mục đích mang tính xã hội, kêu gọi mọi người, đặc biệt là những người hoạt
động trong lĩnh vực công nghệ thông tin tạo ra những sản phẩm có khả năng giúp đỡ
người khuyết tật sử dụng để hòa nhập cộng đồng, và giảm bớt khó khăn cho người
khuyết tật. Việc tiếp cận các công nghệ thông tin tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả mọi
người trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Những rào cản xã hội về định kiến,
Page 6
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
hạ tầng cơ sở và những hình thức không tiếp cận ngăn cản sự tham gia đã không còn
nữa. Khi mọi người đều có thể tiếp cận công nghệ thông tin, nó sẽ cổ vũ từng cá nhân
phát huy đầy đủ tiềm năng của mình. Đối với người khuyết tật, công nghệ thông tin
cho phép họ đóng góp phần mình vào sự phát triển của xã hội.
Nhằm thực hiện mục tiêu phát triển công nghệ thông tin cho người khuyết tật
.Trong thực tế, hiện nay, đặc biệt là trong lĩnh vực, đào tạo công nghệ thông tin cho
người khuyết tật đã có những bước tiến đáng ghi nhận. Theo lời ông Nghiêm Xuân
Tuệ – Giám đốc văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam –
nhấn mạnh tại cuộc giao lưu “Bản lĩnh và công nghệ” vừa diễn ra tại ĐH Quốc gia
Hà Nội. Theo đó.“Công nghệ thông tin (CNTT) đã được chứng minh là công cụ hữu
hiệu mở ra cơ hội học tập, tìm việc và là cầu nối để người khuyết tật hòa nhập xã
hội”.
Công nghệ thông tin đã trở thành một lĩnh vực giúp đỡ người khuyết tật học tập,
tiếp cận xã hội. Theo tìm hiểu hiện nay, các tổ chức quôc tế, cơ quan cá nhân,...
thường tiến hành các dự án đào tạo công nghệ thông tin danh cho người khuyết tật.
Ví dụ như: “Gần 400 thanh niên khuyết tật được đào tạo công nghệ thông tin
Trường ĐH Văn Lang vừa trao chứng chỉ nghề Kỹ thuật viên đồ họa GD33 cho 24
học viên khuyết tật. Như vậy, tính đến nay chương trình đào tạo CNTT cho người
khuyết tật của trường (do Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Tổ chức CRS
tài trợ) đã đào tạo và trao chứng chỉ nghề CNTT cho 387 học viên là người khuyết
tật. Trong đó, hơn 80% học viên tốt nghiệp đã được các đơn vị tuyển dụng và có việc
làm ổn định.
Trong khuôn khổ dự án, Trường ĐH Văn Lang tổ chức đào tạo các khóa học gồm
lập trình viên (thời gian đào tạo 1 năm), đồ họa và họa viên kiến trúc (6 tháng), tin
học cho người khiếm thị, tin học cho người khiếm thính và giáo dục viên đồng đẳng
cho người khiếm thị (3 tháng)”2. Có thể nói đây là một dự án có ý nghĩa dành cho
người khuyết tật. Thứ nhất, đối tượng hướng tới ở đây là thanh niên khuyết tật.
Những người tuy tuổi đời còn rất trẻ nhưng họ đã không may mắn bị những khuyết
tật làm họ gặp phải những khó khăn hơn những người không bị khuyết tật. Thứ hai,
công nghệ thông tin là lĩnh vực mà bất kì ai cũng có thể học tập, chỉ cần họ cố gắng,
2 Trích PWD.Vn: hơn 400 thanh niên khuyết tật được đào tạo nghề.
Page 7
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
đặc biệt đối với những người khuyết tật về vận động gặp khó khăn trong việc di
chuyển thì công nghệ thông tin là một lĩnh vực hoàn toàn phù hợp.
Hay một dự án đào tạo công nghệ thông tin cho người khuyết tật không thể không
nói tới đó là sự án “Đào tạo công nghệ thông tin (CNTT) cho người khuyết tật
(NKT)” là dự án mang tính nhân văn và ý nghĩa cộng đồng cao đẹp, do tổ chức
USAID (Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ), CRS (Tổ chức phi Chính phủ Catholic
Relief Services) và Đại học (ĐH) Đông Á tài trợ. Chương trình mang đến môi trường
học tập và cơ hội việc làm cho các học viên khuyết tật, là nơi nuôi dưỡng và hiện
thực
mơ
ước
của
những mảnh đời kém may mắn.”
Theo lộ trình, dự án có tổng trị giá 9 tỷ đồng, đào tạo khoảng 250 học viên, kéo dài
đến năm 2015. Dự án xây dựng trên nền tảng mô hình tiên tiến ở Hoa Kỳ và trải qua
quá trình nghiên cứu chuyên sâu tại Việt Nam. Mỗi khóa học kéo dài trong 6 tháng,
được USAID và CRS tài trợ mọi chi phí học tập, ăn ở, đi lại cho toàn bộ học viên.
Không chỉ được đào tạo hệ trung cấp chuyên nghiệp và kỹ thuật viên, với các ngành
như thiết kế đồ họa, lập trình website, học viên còn được học tiếng Anh và các kỹ
năng về công nghệ mềm khác như làm việc nhóm, hòa nhập xã hội…
Ngoài hỗ trợ kinh phí, dự án hướng đến đào tạo những học viên có thể làm việc
ngay sau khi tốt nghiệp, đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Đồng thời, Ban
Page 8
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
quản lý (BQL) dự án cũng chịu trách nhiệm trong việc xây dựng các mối quan hệ hợp
tác, các mạng lưới doanh nghiệp nhằm duy trì và phát triển mô hình đào tạo CNTT
cho NKT. Để tham gia khóa học này, các học viên đã phải trải qua nhiều vòng kiểm
tra và phỏng vấn. Từ đó, BQL dự án sẽ chọn ra những ứng viên phù hợp nhất để cấp
học bổng toàn phần khóa học. PGS. TS Trần Thị Hồng – Phó Hiệu trưởng ĐH Đông
Á, Trưởng BQL dự án, chia sẻ: “Chương trình thiết thực này giúp NKT hòa nhập tốt
hơn trong cuộc sống. Đồng thời giáo dục sinh viên nhận thức về sự quan tâm, sẻ chia
cũng như tinh thần trách nhiệm đối với NKT”.3
Có thể nói, tới nay, việc đào tạo công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật đã
và đang trở thành một cánh cửa mới cho người khuyết tật, là cơ hội để họ được đào
tạo nghề, được học tập, được phát huy khả năng, kiến thức của họ. Người khuyết tật,
tuy họ có những khiếm khuyết nhưng họ vẫn có khả năng vươn lên hòa nhập cộng
đồng.
Ngoài việc đào tạo công nghệ thông tin cho người khuyết tật thì một chính sách
nữa mà Nhà nước đưa ra và được cụ thể hóa trong Luật đó là: Nhà nước thực hiện
các chính sách như miễn giảm thuế, tín dụng và một số ưu đãi khác để khuyến khích
các cá nhân, tổ chức: Nghiên cứu - phát triển các công cụ và ứng dụng nhằm nâng
cao khả năng của người tàn tật trong việc truy nhập, sử dụng các nguồn thông tin và
tri thức thông qua sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin; Sản xuất, cung cấp
công nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin và nội dung thông tin số
đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tàn tật. Đây là một trong các chính sách mà Nhà
nước khuyến khích các nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức.... đầu tư vào việc phát triển
các công cụ phục vụ cho người khuyết tật. Đặc biệt là các thiết bị về công nghệ thông
tin. Bởi lẽ, với “ sức mạnh số” ngày nay, không gì là con người không thể làm được.
Việc ứng dụng các thiết bị công nghệ thông tin cho người khuyết tật sẽ phần nào giúp
họ thích ứng với hoàn cảnh. Ví dụ như: Ngày nay, người ta đã chế tạo ra các phần
mềm có khả năng đọc dành cho người khuyết tật về thị giác, hang phần mềm nhận
diện giọng nó dành cho người khuyết tật thị giác.... Giúp họ có thể nghe, nói, nhận
diện được mọi vấn đê của cuộc sống xung quanh...
3 Đăng bởi PWD TEAM Vào lúc 16/12/2012 |
Page 9
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
Nhà nước dành rất nhiều chính sách ưu tiên cho các tổ chức cá nhân có đóng góp
cho phát triển công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật. Họ có thể được miễn
giảm thuế hay được áp dụng mức thuế suất thấp ... khuyến khích họ đầu tư vào lĩnh
vực công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật.
3.2. Thứ hai, về truyền thông dành cho người khuyết tật
Truyền thông có thể được hiểu là –truyền hình, đài phát thanh, báo giấy, tạp chí,
mạng internet, các mạng truyền thông xã hội và các hình thức truyền thông khác.
Trước hết, ta cần khẳng định truyền thông có vai trò hết sức quan trọng đối với
người khuyết tật bởi những lí do sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về những thách thức, khó khăn mà người khuyết tật
phải đối mặt, những vấn đề xung quanh chủ đề hòa nhập của người khuyết tật , về
những yếu tố dẫn tới khó khăn và sự kì thị đối với người khuyết tật
Thứ hai, huy động các nguồn lực tốt để giải quyết vấn đề người khuyết tật chưa
được hòa nhập về đời sống, xã hội... nói chung, đồng thời giải quyết những khó khăn
trong tiếp cận ý tế, giáo dục, việc làm...
Thứ ba, thúc đẩy và nâng cao nhận thức về chính sách, sản phẩm, dịch vụ và môi
trường giúp người khuyết tật tiếp cận toàn diện.
Thứ tư, phổ biến, thông tin, dịch vụ hỗ trợ trên báo, đài, tạp chí.... để đảm bảo cho
người khuyết tật và gia đình họ có những thông tin cần thiết về chương trình, chính
sách quốc gia.
Thứ năm, quảng bá mạnh mẽ cho thông điệp trong đó có sự đóng góp hiện diện
của người khuyết tật trong cộng đồng thế giới, họ cũng có cảm xúc, hành vi như
những người không khuyết tật khác, đồng thời họ cũng phải được nói đến với những
tính cách và kinh nghiệm giống như những người khác cùng lứa tuổi và cùng hoàn
cảnh.
Từ những lí do trên, ta thấy, vai trò của truyền thông là xóa bỏ những dào cản đối
với người khuyết tật.
Hiện nay, pháp luật nươc ta chỉ có điều luật quy định:” Cơ quan thông tin đại
chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết
tật.Đài truyền hình Việt nam có trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng có phụ
Page 10
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy định của bộ
trưởng bộ thông tin và truyền thông”
Điều luật này một lần nữa khẳng định vai trò của truyền thông đối với người
khuyết tật . Trong thực tế, ta thấy rằng chân dung người khuyết tật được đề cập tới
như thế nào và mức độ thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại
chúng có tác dụng to lớn đối với người khuyết tật được nhìn nhận như thế nào trong
xã hội.
Nhà báo Đồng Mạnh Hùng chia sẻ kinh nghiệm truyền thông về NKT trong buổi Tọa đàm
Ngày nay, ta nhận thấy, trong hàng loạt các chương trình truyền hình, thì các
chương trình dành cho người khuyết tật chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ, thậm chí rất
ít, và chỉ xuất hiện trên các chương trình quốc gia, còn đối với các chương trình của
địa phương hầu như không có. Hơn nữa việc phản ánh đời sống vật chất tình thần của
người khuyết tật chưa thực sự đúng với thực tế bản thân người khuyết tật.
Ví dụ như: Trong số nhỏ những chương trình truyền hình đó, như phim tài liệu
chiếu trên truyền hình, người khuyết tật được xuất hiện rất ít, thậm chí khi xuất hiện
thì họ thường được mô tả một cách méo mó ( kì thị) hoặc theo những hình mẫu rập
khuân, được gán cho số phận đáng thương để kêu gọi sự đồng cảm, trong khi đó lại
không nhận ra rằng “cái người khuyết tật cần là họ được đối xử như những người
không khuyết tật chứ không phải là sự thương hại của xã hội”.
Page 11
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
Hay như, pháp luật nước ta đã quy định :“ thực hiện chương trình phát sóng có
phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy định của
bộ trưởng bộ thông tin và truyền thông.” Tuy nhiên quy định này hiện giờ chỉ nằm
trên giấy chứ chưa được đưa vào thực hiện. Ở các nước tiên tiến trên thế giới, khi sản
xuất một chương trình truyền hình, họ thường trình chiếu kèm theo những cử chỉ,
hành động để người khuyết tật có thể hiểu.
Ví dụ: Như ngôn ngữ của người bị khuyết tật câm, điếc. Khi nhìn lên các chương
trình trên tivi họ vẫn có thể hiểu được chương trình đang nói tới vấn đề gì. Tuy nhiên
hiện nay ở Việt Nam chúng ta vẫn chưa làm được điều đó.
Tuy nhiên, ta cũng không thể không phủ nhận sức mạnh của truyền thông đối với
việc hòa nhập của người khuyết tật. Các phương tiên truyền thông khác giúp người
khuyết tật có được sự hài hòa và công bằng, đồng thời giúp đấu tranh chống lại
những hình mẫu rập khuân thường dễ dẫn đến nhân thức tiêu cực về người khuyết tật.
Đưa hình ảnh người khuyết tật có nhân phẩm được tôn trọng lên các phương tiện
thông tin đại chúng có tác dụng quảng vá cho một xã hội hòa nhập và sự chấp nhận
của các thành viên xã hội. Có thể đưa ra một số ví dụ về sức mạnh của truyền thông
đối với người khuyết tật như:
Các chương trình dành cho người khuyết tật tuy ít nhưng vẫn có, để bảo đảm cho
mọi người trong xã hội đều có thể biết tới thì báo chí, truyền hình có vai trò hết sức
quan trong. Đơn cử như. Sắp tới, Hội người khuyết tật Việt nam có tổ chức cuộc thi
“Hoa Hậu người khuyết tật- Vẻ đẹp vầng trăng khuyết 2013”. Có thể nói đây là một
chương trình có ý nghĩa trong việc quảng bá vẻ đẹp của phụ nữ nói chung và vẻ đẹp
của người khuyết tật nói riêng, có thể nói đây là một sự kiện rất được quan tâm và thu
hút của nhiều tầng lớp nhân dân. Hay như việc “ Vua đầu bếp của Mỹ” Christine Hà
một người phụ nữ gốc Việt bị khiếm thị đã chiến thắng các đối thủ để trở thành “ Vua
đầu bếp của Mĩ” một việc mà ngay cả người không bị khuyết tật cũng khó có thể
làm được. Điều này chứng tỏ cho mọi người thấy người khuyết tật vẫn có thể sống,
học tập và tham gia vào các hoạt động xã hội như người không khuyết tật, họ sống và
tin vào bản thân mình. Việc báo chí đưa tin, đã góp phần cho nhiều người biết tới và
thu hút sự quan tâm của mọi người dành cho người khuyết tật.
Page 12
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
Hay một vấn đề khác, như: Dư luận ta đã hết sức bất bình trước việc hiệp sĩ công
nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng bị một lơ xe thuộc một tuyến xe bus ở Hà nội
không cho lên xe bus. Việc này sẽ không được mọi người biết tới nếu không có sự
vào cuộc của báo chí, truyền hình đưa tin.
Hay như là : Những Cuộc giao lưu với người khuyết tật nhằm tôn vinh ý chí và
bản lĩnh của những người khuyết tật Việt Nam, đã nỗ lực vươn lên trong cuộc sống để
cống hiến cho sự phát triển của CNTT nói riêng và xã hội nói chungQua chương
trình, khán giả được giao lưu, gặp gỡ và chia sẻ thông tin với những tấm gương vượt
khó của người khuyết tật trong lĩnh vực CNTT – truyền thông như: Hiệp sĩ CNTT
Trịnh Công Thanh, Nghệ sĩ guitar Văn Vượng, thạc sĩ, thầy giáo khuyết tật Nguyễn
Việt Anh và các thí sinh đã dự thi giải thưởng “ICT – Thắp sáng niềm tin 2006”…
Mỗi người một hoàn cảnh, một con đường đi khác nhau nhưng họ gặp nhau ở điểm
chung là sau mê với CNTT, coi đây là công cụ hỗ trợ đắc lực, để vượt lên những khắc
nghiệt của cuộc sống và khẳng định mình, có những đóng góp nhất định cho xã hội.
Như vậy, truyền thông đã đưa những vấn đề trong cuộc sống mà người khuyết tật
gặp phải ra để xã hội và mọi người biết tới, nhận thức và đồng cảm, đồng thời ở một
khía cạnh nào đó, đã mở ra những nhận thức, những suy nghĩ của mọi người trong xã
hội về cuộc sống, về khó khăn mà người khuyết tật đã và đang gặp phải. Mà hơn cả,
đó là, chúng ta sẽ không thể nào biết và khâm phục những nghị lực sống, sức cố
gắng không ngừng của người khuyết tật nếu truyền thông không vào cuộc và đưa tin.
IV. Những thành tựu và bất cập trong thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật.
4.1.Những thành tựu.
Có thể nói, việc áp dung những quy định của pháp luật về công nghệ thông tin và
truyền thông với người khuyết tật đã đạt được một số thành tựu đáng kể.
Thứ nhất, đào tạo và hướng dẫn cho hàng trăm người khuyết tật được tiếp xúc,
học tập và giáo dục về công nghệ thông tin để họ có thể vươn lên hòa nhập cộng đồng
bằng công nghệ thông tin.
Thứ hai, các chính sách đào tạo miễn phí về công nghệ thông tin cho người khuyết
tật đã phần nào giúp họ thoát khỏi khó khăn trong cuộc sống về vật chất, có thể được
học tập và tiếp thu thành tựu công nghệ thông tin
Page 13
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
Thứ ba, Việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân phát triển các ứng dụng công
nghệ thông tin dành cho người khuyết tật đã phần nào giúp cho người khuyết tật
thuận tiện hơn trong cuộc sống hàng ngày, bằng máy móc , thiết bị công nghệ thông
tin đã giúp người khuyết tật có thể sinh hoạt và học tập một cách bình thường.
Thứ tư, và thành tựu trong truyền thông đã cung cấp những thông tin thiết thực về
quảng bá hình ảnh tích cực và hòa nhập của người khuyết tật, thúc đẩy môi trường
không phân biệt đối xử và cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật ở tất cả các lĩnh cực.
kêu gọi sự hòa nhập của người khuyết tật và sự thừa nhận của cộng đồng, thúc đẩy sự
bình đẳng về cơ hội, tiếp cận dịc vụ và thông tin đối với người khuyết tật .
4.2. Những bất cập.
Thứ nhất, về việc phát triển các thiết bị công nghệ thông tin phục vụ người khuyết
tật, hiện nay vẫn còn nhiều người khuyết tật không thể tận dụng hết tính ưu việt của
Internet. Lý do là hầu hết các website đều không tiếp cận đối với người khiếm thị và
có khó khăn về nhìn, còn phụ thuộc nhiều vào sử dụng con chuột, việc đào tạo
thường được tiến hành bằng những hình thức và ở những nơi không tiếp cận. Vì
người khuyết tật là một trong những nhóm người yếm thế nhất trong xã hội, nhiều
người trong số họ chưa từng tiếp cận với công nghệ thông tin. Thậm chí cả những
người đã tiếp cận công nghệ thông tin cũng không thể sử dụng công nghệ này một
cách có hiệu quả, do thiết bị phụ trợ hiện có không theo kịp sự đổi mới. Như vậy, sự
tiếp cận công nghệ thông tin của người khuyết tật vẫn còn những hạn chế nhất định
Thứ hai, Việc bị hạn chế trong tiếp cận công nghệ thông tin. Người khuyết tật là
những người bị thiệt thòi vì không thể tiếp cận các công nghệ thông tin. Ví dụ, do
công tác giáo dục ngày càng phụ thuộc nhiều vào công nghệ thông tin, nên việc
không tiếp cận được tới Internet sẽ làm hạn chế cơ hội học tập của người khuyết tật.
Nước ta đã có các quy định nhằm giúp cho người khuyết tật được tiếp cận công
nghệ thông tin một cách thuân lợi nhất nhưng chưa có biện pháp xóa bỏ các trở ngại
và rào cản tới thông tin và truyền thông. Như việc tạo ra các thiết bị mà người khuyết
tật không thể sử dụng được Nhiều website được thiết kế vẫn còn ở dạng chưa thể tiếp
cận được đối với người có khó khăn về nhìn và người khiếm thị.
Page 14
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT-LỚP N04- NHÓM 11
HỨA THỊ THANH HÒA-352544
V. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp
luật về công nghệ thông tin và truyền thông cho người khuyết tật .
Thứ nhất, cần ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể về áp dụng công
nghệ thông tin và truyền thông cho người khuyết tật chứ không chỉ gói gọn trong một
số văn bản hiện nay, với quy định hết sức chung chung và tổng quát.
Thứ hai, cần thiết lập các giải pháp công nghệ nhằm trợ giúp người khuyết tật tiếp
cận và sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông . Ví dụ như: Các công nghệ hỗ
trợ người khuyết tật nhập thông tin và thực hiện lệnh điều khiển máy tính, chẳng hạn
như với việc sử dụng con chuột yêu cầu người sử dụng phải có khả năng nhìn thấy
con trỏ trên màn hình thì điều này làm cho những người yếu thị lực không thể thực
hiện được mà những người này chỉ sử dụng bàn phím trực tiếp để tiếp cận máy tính.
Do đó,cần có các chương trình hỗ trợ người khuyết tật như: Bàn phím mở rộng, bàn
phím ảo, hay các chương trình nhận dạng giọng nói.
Thứ ba, truyền thông có vai trò quan trọng trong hòa nhập cộng đồng của người
khuyết tật, tuy nhiên cần tăng cường thực hiện các chương trình về người khuyết tật
để công chúng biết về cuộc sống và nghị lực của người khuyết tật, tuy nhiên tránh
việc rập khuân, với mục đích kêu gọi sự thương hại của cộng đồng dành cho người
khuyết tật . Mà mục đích chính khi tiến hành truyền thông đó là làm sao để, cộng
đồng không còn thái độ, kì thị, xa lánh người khuyết tật mà thay vào đó là sự đồng
cảm và hành động giúp người khuyết tật hòa nhập hoàn toàn với cộng đồng.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Tóm lại, Bằng những quy định và việc làm trong thực tiễn, Ở VIệt Nam việc tiếp
cận các công nghệ thông tin và truyền thông tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả mọi người
trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Những rào cản xã hội về định kiến, hạ
tầng cơ sở và những hình thức không tiếp cận ngăn cản sự tham gia đã không còn
nữa. Khi mọi người đều có thể tiếp cận công nghệ thông tin, nó sẽ cổ vũ từng cá nhân
phát huy đầy đủ tiềm năng của mình. Đối với người khuyết tật, công nghệ thông tin
cho phép họ đóng góp phần mình vào sự phát triển của xã hội. và truyền thông giúp
người khuyết tật hòa nhập với cộng đồng.
Page 15
- Xem thêm -