Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quy chế pháp lý của hội nghị chủ nợ...

Tài liệu Quy chế pháp lý của hội nghị chủ nợ

.PDF
79
401
119

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN XUÂN QUỲNH TRANG QUY CHÕ PH¸P Lý CñA HéI NGHÞ CHñ Nî Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN XUÂN QUỲNH TRANG QUY CHÕ PH¸P Lý CñA HéI NGHÞ CHñ Nî Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGÔ HUY CƢƠNG HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Văn Xuân Quỳnh Trang MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN ...................................... 9 1.1. Bản chất của thủ tục phá sản và vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản . 9 1.1.1. Bản chất của thủ tục phá sản ................................................................... 9 1.1.2. Vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản .............................................. 13 1.2. Địa vị pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản ........................ 18 1.2.1. Khái niệm Hội nghị chủ nợ ................................................................... 18 1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc thiết lập Hội nghị chủ nợ ................................. 18 1.2.3. Bản chất pháp lý của Hội nghị chủ nợ .................................................. 19 1.2.4. Chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ .............................................. 20 1.3. Hội nghị chủ nợ theo thủ tục phá sản của một số quốc gia trên thế giới và những kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 21 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................. 26 1.2. Chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ ............................................................ 26 1.2.1. Chủ thể có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ......................................... 26 1.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ .................................... 29 2.2. Thủ tục triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ ........................................ 31 2.2.1. Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ .................................................. 32 2.2.2. Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất ................................................................. 33 2.2.3. Hội nghị chủ nợ tiếp theo ...................................................................... 36 2.2.4. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh................................................ 36 2.3. Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ ............................................................. 39 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................ 43 3.1. Một số nhận xét về chế định Hội nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam .................................................................................................................. 43 3.1.1. Ưu điểm ................................................................................................. 43 3.1.2. Hạn chế .................................................................................................. 47 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định Hội nghị c hủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay ...................................................... 58 3.2.1.Các giải pháp pháp lý ...................................................................... 58 3.2.2. Các giải pháp bổ trợ khác....................................................................... 64 KẾT LUẬN ............................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 70 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế thị trường. Cũng như những chủ thể khác, doanh nghiệp cũng có quá trình hình thành, tồn tại và chấm dứt hoạt động. Chính sự cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến quy luật đào thải, buộc những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả có thể rút ra khỏi nền kinh tế bằng cách chấm dứt hoạt động của nó và phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, từ khi phát triền kinh tế thị trường cho đến nay, đã có hàng trăm nghìn doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập và hoạt động kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó thì số lượng doanh nghiệp chấm dứt hoạt động vì nhiều lý do khác nhau cũng không phải là nhỏ. Một khi doanh nghiệp không thể tồn tại thì bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định về quy trình, thủ tục chấm dứt hoạt động của chúng một cách chặt chẽ để vừa bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao động, cũng như bảo đảm trật tự xã hội, trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Pháp luật phá sản của Việt Nam đã ra đời nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ nợ, của doanh nghiệp mắc nợ và những người có liên quan, xác định trách nhiệm của người mắc nợ, thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. Phá sản hiện nay là vấn đề có tính thời sự bởi cuộc đại suy thoái kinh tế trên toàn cầu, lạm phát triền miên và khủng hoảng nợ công có tác động rất xấu tới hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng. Rất nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh nợ nần chồng chất và không có khả năng trả nợ đến hạn mà trong khi đó việc tìm lối ra khỏi tình trạng đó là vô cùng khó khăn. Đồng hành với tình trạng này là trốn nợ, tẩu tán tài sản... Bối cảnh như vậy có thể kéo theo sự đổ bể hàng loạt doanh nghiệp bởi sự 1 đan xen nợ nần trong làm ăn kinh tế. Trong khi đó pháp luật về phá sản nói chung của nước ta đang còn gặp nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đời sống, chưa thật sự là hành lang pháp lý an toàn, khả thi. Mặt khác, thực tiễn thi hành pháp luật cũng còn rất nhiều vấn đề phải bàn. Ở Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 là văn bản luật đầu tiên quy định về giải quyết phá sản. Tuy nhiên sau gần chục năm thi hành văn bản này bị đánh giá thấp về hiệu quả điều chỉnh và ít tính khả thi. Luật Phá sản 2004 được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 nhằm giải quyết những vấn đề tồn tai của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Với rất nhiều nội dung mới được bổ sung, sửa đổi Luật Phá sản 2004 đã được nhà làm luật đặt nhiều kỳ vọng trong việc áp dụng vào thực tiễn, giảm tải những vướng mắc trong quá trình thực thi. Song, không giống như những kỳ vọng ban đầu, Luật Phá sản năm 2004 đã gặp nhiều vướng mắc, khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Một thập kỉ trải qua, vào ngày 19/06/2014, Luật Phá sản 2014 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản 2014 ra đời được đánh giá như là một cố gắng mới của các nhà lập pháp nước ta trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với hiện tượng kinh tế khách quan có vai trò không nhỏ này trong đời sống kinh tế. Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy nhiên không phải chủ nợ nào cũng có quyền lợi giống nhau. Do vậy, pháp luật phá sản của Việt Nam cũng như của các nước trên thế giới đã đề cập tới khái niệm Hội nghị chủ nợ như một thiết chế duy nhất đại diện cho tất cả các chủ nợ, thay mặt các chủ nợ tham gia vào quá trình xử lý doanh nghiệp phá sản. Hội nghị chủ nợ được quy định trong Luật Phá sản 2004 với đầy đủ tư cách và địa vị pháp lý, có thẩm quyền để thay mặt các chủ nợ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ đóng vai trò qua 2 trọng trong việc giải quyết một cách bình đẳng và công bằng lợi ích của các chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản và giữa các chủ nợ với nhau. Tuy nhiên, chế định này vẫn chưa được đề cập một cách đầy đủ trong pháp luật và chưa được các nhà luật học nghiên cứu chuyên sâu. Do vậy, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, phá sản doanh nghiệp vẫn là một vấn đề còn khá mới mẻ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, luận án… đề cập tới hiện tượng phá sản trong pháp luật Việt Nam và đặt trong mối quan hệ so sánh với pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới. Phải kể tới công trình nghiên cứu về Luật Phá sản của Tòa án nhân dân tối cao được đăng trên đặc san chuyên đề của Tòa án nhân dân năm 2005. Công trình này nghiên cứu các vấn đề liên quan đến toàn bộ nội dung cơ bản của Luật Phá sản, các nội dung được quy định trong luật nội dung và trình tự thủ tục giải quyết; vai trò của các chủ thể tham gia phá sản như Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Tòa án, Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên, vấn đề có tính chất chuyên sâu thì mới nghiên cứu ở mức độ hạn chế. Ngoài ra, cần nhắc tới Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Trương Hồng Hải với đề tài “Luật Phá sản Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện” đã bảo vệ năm 2004 tại trường Đại học Luật Hà Nội. Luận án đã tập trung nghiên cứu các nội dung trong Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và so sánh với pháp luật phá sản của một số quốc gia khác trên thế giới (Cộng hòa liên bang Nga, Đức, Trung Quốc, Hoa Kỳ…) trong các vấn đề như xác định tình trạng phá sản, các chủ thể tham gia trong thủ tục tố tụng phá sản, vai trò của các thiết chế như Tòa án, Hội nghị chủ nợ. Từ đó 3 rút ra những điểm tương đồng hay khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các nước trên thế giới, đồng thời cũng lý giải những yếu tố tạo nên sự khác biệt đó. Luận án cũng đã đề cập tới sự hình thành và hoạt động của Hội nghị chủ nợ, chỉ ra những ưu điểm trong mô hình này tại một số nước và đưa ra kinh nghiệm cho Việt Nam nhưng mới dừng lại ở mức độ bao quát, chưa phân tích sâu. Bên cạnh đó là Luận án tiến sỹ luật học với đề tài “Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản năm 2004 và tăng cường tính khả thi trong thực tiễn thi hành” của tác giả Lê Ngọc Thắng đã bảo vệ năm 2014 tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án đã kế thừa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về phá sản và phá sản doanh nghiệp theo pháp luật phá sản của Việt Nam, đồng thời có so sánh với pháp luật một số nước khác từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật phá sản. Ngoài ra, luận án cũng phân tích và khẳng định một số quy định được cho là tiến bộ, hợp lý cũng như những quy định hạn chế, bất cập của Luật Phá sản năm 2004, có thể kế thừa và phát triển khi hoàn thiện. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích một cách khái quát những nguyên lý cơ bản của khoa học luật so sánh và sự vận dụng chúng với ý nghĩa là một phương pháp luận quan trọng trong hoạt động so sánh pháp luật nói chung và pháp luật phá sản nói riêng; về khái niệm phá sản và bản chất của phá sản; xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp; trình tự thủ tục giải quyết; quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp; nghiên cứu đánh giá Luật Phá sản nói chung và pháp luật phá sản nói riêng; nghiên cứu Luật Phá sản một số nước và rút ra những điểm tương đồng và khác biệt với pháp luật phá sản Việt Nam; đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành và đưa ra những phương án đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của pháp luật phá sản trong thực tiễn. Chế định về Hội nghị chủ nợ 4 tuy đã được đề cập đến trong những nghiên cứu trước đây, tuy nhiên chưa được nghiên cứu ở mức độ chuyên sâu. Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu cụ thể về chế định này, là một trong những nội dung rất quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ việc phá sản được ghi nhận trong Luật Phá sản và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn các quy chế pháp lý về Hội nghị chủ nợ, thực trạng pháp luật, nêu lên xu hướng điều chỉnh của chế định pháp luật về Hội nghị chủ nợ, đưa ra những đánh giá và chỉ ra những đề xuất, kiến nghị về những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về chế định Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ một cách tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, người lao động và những chủ thể khác có liên quan đến quá trình giải quyết các vụ việc phá sản ở nước ta. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản của chế định Hội nghị chủ nợ, trong đó đi sâu phân tích về bản chất của thủ tục phá sản với tính tập thể của các chủ nợ và vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản; khái niệm và các học thuyết về Hội nghị chủ nợ; phân tích cơ sở pháp lý và bản chất pháp lý đặc trưng của Hội nghị chủ nợ; đồng thời cũng nêu lên những chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ trong quá trình tiến hành tố tụng phá sản. - Bên cạnh đó, nhằm có được những kinh nghiệm tốt cho việc hoàn thiện pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam, luận văn đã có những nghiên cứu bước đầu về kinh nghiệm trong việc thiết lập và hoạt động của Hội nghị chủ nợ ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Đức, Trung Quốc. - Phân tích những quy định của Luật Phá sản hiện hành và các ngành 5 luật có liên quan về các chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ, thủ tục triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ, thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ trong quá trình tiến hành tố tụng phá sản. - Phân tích và đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời nhấn mạnh những khó khăn, vướng mắc mà các chủ thể thường gặp phải khi áp dụng các quy định này trong thực tiễn. Đề cập tới những nguyên nhân làm hạn chế hiệu lực của những quy định về Hội nghị chủ nợ. - Đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam, trong đó có những phương án hoàn thiện hệ thống pháp luật phá sản nói chung, pháp luật về Hội nghị chủ nợ nói riêng và những giải pháp về tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật về chế định Hội nghị chủ nợ nhằm đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết phá sản ở nước ta trong thời gian tới. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đề tài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Hội nghị chủ nợ, phân tích thực trạng của pháp luật Việt Nam về những vấn đề pháp lý có liên quan đến khái niệm Hội nghị chủ nợ. Đây là một chế định pháp luật quan trọng trong Luật Phá sản, với bản chất đề cao tính tập thể của các chủ nợ, đòi hỏi sự điều tiết của nhiều nhóm chủ thể khác nhau như chủ nợ, con nợ, người lao động trong doanh nghiệp phá sản, nền kinh tế - xã hội. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và 6 phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn vận dụng những phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, áp dụng vào tình hình cụ thể của nước ta. Các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý cũng được đặc biệt chú ý sử dụng trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp các kiến thức từ pháp luật thực định và phân tích thực tiễn để nhận thức và đánh gái thực trạng điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử, xã hội học pháp luật… để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn. 6. Những điểm mới của luận văn Hiện nay tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu Luật Phá sản với tư cách là một đạo luật nhưng thường tập trung nghiên cứu một cách khái quát về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Đề tài “Quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ” nghiên cứu một vấn đề mang tính cụ thể, vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong khi Luật Phá sản và những quy định về Hội nghị chủ nợ đã có hiệu lực nhưng đang cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát huy hơn nữa hiệu quả trên thực tế, hi vọng những kiến giải của tác giả sẽ được các nhà làm luật tham khảo. Những điểm mới của luận văn là: - Trên cơ sở phân tích các quan niệm, học thuyết về Hội nghị chủ nợ, luận văn đưa ra khái niệm và các học thuyết, bản chất pháp lý, vai trò và những chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ. - Phân tích những nội dung của pháp luật về Hội nghị chủ nợ đồng thời chỉ ra những bất cập trong pháp luật hiện hành, khẳng định các quy định về 7 Hội nghị chủ nợ là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của pháp luật phá sản Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới. - Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật Hội nghị chủ nợ, đồng thời nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định này, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ đồng thời đề xuất kiến nghị về một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về Hội nghị chủ nợ. Tác giả hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc nâng cao ý thức pháp luật về một vấn đề khá mới và cụ thể trong luật là Hội nghị chủ nợ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời luận văn sẽ có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, là tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu, học tập đặc biệt đối với những người làm công tác thực tiễn liên quan đến phá sản doanh nghiệp và các chủ thể có thẩm quyền liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt là các doanh nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo chủ yếu, luận văn được kết cấu với 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản. Chương 2. Thực trạng quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ và thực tiễn áp dụng Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý về Hội nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay. 8 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN 1.1. Bản chất của thủ tục phá sản và vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản 1.1.1. Bản chất của thủ tục phá sản Thuật ngữ “Phá sản” thường được sử dụng để chỉ những chủ thể bị lâm vào tình trạng hỗn loạn về tài chính và không còn khả năng thanh toán các khoản nợ. Có nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh. Khi một doanh nghiệp phá sản sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều nhóm lợi ích trong nền kinh tế. Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay có thể dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản càng lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu và rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu ứng domino" - phá sản dây chuyền. Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực nhất định về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức ép về việc làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, thậm chí các tội phạm. Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị. 9 Như vậy, xét ở ba khía cạnh trên, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản… Do vậy Luật Phá sản hiện đại cần xây dựng một cơ chế điều tiết linh hoạt, đảm bảo lợi ích cho các chủ thể có liên quan. Một đạo Luật Phá sản hiện đại thường hướng đến rất nhiều mục tiêu điều chỉnh khác nhau, là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều loại chủ thể khác nhau từ chủ nợ, con nợ cho tới người lao động và đồng thời cũng là một công cụ hiệu quả trong điều tiết kinh tế. “Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự), thủ tục giải quyết phá sản làm một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do tính chất đặc biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản bao giờ cũng được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm như sau: Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Khác với thủ tục đòi nợ thông thường, thủ tục phá sản tiến hành việc đòi nợ và thanh toán nợ một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi nợ riêng, mà tất cả phải tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất được gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý thì toàn bộ tài sản của con nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả lại cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu 10 tiên nhất định đã được pháp luật phá sản quy định. Nếu tài sản của con nợ không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn lại của doanh nghiệp. Thứ hai, thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ. Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường (đòi nợ thông qua việc khiếu kiện ra Tòa án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mặc nợ đã lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, không còn lối thoát mà người ta thường gọi là tình trạng phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản là thủ tục pháp lý không dễ xảy ra, nó chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi nợ thông thường không thể thực hiện được. Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự chấm dứt hoạt động của một thương nhân. Trong tố tụng dân sự, sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Sau khi trả nợ xong, con nợ vẫn tồn tại và hoạt động một cách bình thường. Đây là điểm khác biệt so với tố tụng phá sản. Trong tố tụng phá sản, để giúp các chủ nợ thu hồi được các món nợ của mình, Tòa án phải ra những quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp (thực chất là quyết định nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp) để trả cho các chủ nợ. Nói cách khác, kết quả của thủ tục phá sản thường dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của chính bản thân con nợ rồi nhân cơ hội đó mà bán toàn bộ tài sản để trả cho các chủ nợ. 11 Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần túy là một thủ tục đòi nợ mà còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi. Mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ thủ tục đòi nợ tập thể nhưng điều đó không có nghĩa là, khi một con nợ bị mở thủ tục phá sản thì ngay lập tức tài sản của doanh nghiệp sẽ bị dùng để thanh toán cho các chủ nợ. Hiện nay, ngoài mục tiêu thanh lý, pháp luật phá sản có nhiều nước trên thế giới còn đặt thêm một mục tiêu rất quan trọng, đó là giúp con nợ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Việc tuyên bố phá sản một doanh nghiệp sẽ không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân các chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả bất lợi cho xã hội. Trong thủ tục phá sản, con nợ được Tòa án tạo điều kiện tối đa cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ thoát khỏi tình trạng phá sản là việc pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ, nếu được thông qua thì về cơ bản, doanh nghiệp đó được khôi phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục hoạt động kinh doanh một cách bình thường [42]. Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó. Trên thế giới, pháp luật phá sản có hai xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất có mục tiêu là “hướng vào con nợ” nhằm tập trung giải cứu 12 các con nợ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho người lao động, tránh bất ổn kinh tế thông qua việc tổ chức lại con nợ. Xu hướng thứ hai có mục tiêu “hướng vào chủ nợ” bằng cách tạo điều kiện cho các chủ nợ cùng nhau sai áp đối với phần sản nghiệp còn lại của con nợ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây dường như đã có sự kết hợp cả hai mục tiêu này theo hướng nghiêng về mục tiêu “hướng vào con nợ”, vì người ta nhận thấy rằng tạo điều kiện cho sự tiếp tục tồn tại của con nợ sẽ có lợi hơn cho nền kinh tế trong tình trạng thất nghiệp cao. Trong nền kinh tế thị trường, việc doanh nghiệp phá sản là điều khó tránh khỏi, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách năng động và mềm dẻo. Để đảm bảo điều đó, thủ tục phá sản cũng phải linh hoạt, mềm dẻo trong việc điều tiết hiệu quả mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ nhằm đạt được các chức năng điều chỉnh của mình. Như vậy, việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản được hiểu là thông qua thủ tục phá sản, pháp luật phá sản phải tạo ra một cơ chế đồng bộ để điều tiết một cách hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ, đảm bảo tối ưu hóa các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời, qua đó còn tính toán việc cân bằng các lợi ích khác mà pháp luật hướng tới bảo vệ như lợi ích người lao động, lợi ích nền kinh tế và xã hội nói chung. 1.1.2. Vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản Khi mới hình thành, Luật Phá sản chủ yếu được áp dụng cho các thương gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: Luật Phá sản đầu tiên 13 của nước Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ. Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày càng có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ doanh nghiệp bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các con nợ. Tuy nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu. Pháp luật phá sản của đa số các nước trên thế giới đều xác định chủ nợ là các pháp nhân hay thể nhân có các khoản nợ không được trả đúng hạn. Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy nhiên không phải chủ nợ nào cũng có quyền lợi giống nhau. Theo quy định tại Luật Phá sản 2004, khái niệm chủ nợ được phân thành ba loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba (Khoản 1, Điều 6, Luật Phá sản 2004). Đồng thời, theo quy định tại Khoản 3, Điều 40, Luật Phá sản 2004 thì chủ nợ có bảo đảm còn là người chủ tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã thuê mượn tài sản mà tài sản đã được chuyển nhượng cho người khác. Cũng theo Khoản 1, Điều 57, Luật Phá sản 2004 người bị đình chỉ thi hành án dân sự có tài sản kê biên mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án cũng có thể được coi là chủ nợ có bảo đảm. Chủ nợ có bảo đảm một phần bao gồm những chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó (Khoản 2, Điều 6, Luật Phá sản 2004) và những chủ nợ chuyển hóa từ loại chủ nợ có bảo đảm thành chủ nợ có bảo đảm một phần vì tài sản bảo đảm bị suy giảm giá trị ban đầu. Chủ nợ không có bảo đảm là những chủ nợ có khoản nợ không được 14 bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay người thứ ba (Khoản 3, Điều 6, Luật Phá sản 2004). Cũng như hai loại chủ nợ trên, Luật Phá sản 2004 cũng quy định những chủ nợ chuyển hóa từ chủ nợ có bảo đảm hay chủ nợ có bảo đảm một phần; những người là một bên bị thiệt hại trong hợp đồng bị đình hoặc đối tượng của hợp đồng là tài sản không còn (Điều 47, Luật Phá sản 2004); những người bị đình chỉ thi hành án dân sự không kê biên tài sản (Điều 57, Luật Phá sản 2004); những người được thực hiện nghĩa vụ tài sản trong vụ án bị đình chỉ (Điều 58, Luật Phá sản 2004); người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Khoản 3, Điều 62, Luật Phá sản 2004) đều được coi như chủ nợ không có bảo đảm. Đặc biệt, tại Khoản 4, Điều 14 quy định: “Sau khi nộp đơn, đại diện cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được coi là chủ nợ” và khoản 2 điều 62 Luật Phá sản “đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” có thể khảng định, người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được xem như một chủ nợ không có bảo đảm đặc biệt. Vì người lao động đã đem sức lực của mình làm hàng hóa để trao đổi với doanh nghiệp và tiền lương chính là nguồn sống của bản thân họ và gia đình họ mà không có một khoản bảo đảm nào. Khi doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì họ là những người bị thiệt hại nhiều nhất, không có lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. Như vậy, khái niệm về các loại chủ nợ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quy định tại Điều 6, Luật Phá sản 2004 mà nó còn bao gồm nhiều đối tượng được quy định trong những điều luật khác. Các chủ nợ của doanh nghiệp là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất trong một vụ phá sản. Do đó, chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình. Pháp luật Việt 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan