Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quy chế pháp lý của đảo nhân tạo và tác động của hoạt động xây dựng đảo nhân tạo...

Tài liệu Quy chế pháp lý của đảo nhân tạo và tác động của hoạt động xây dựng đảo nhân tạo đối với hòa bình, an ninh, kinh tế, thương mại tại biển đông

.PDF
38
435
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HỒNG MINH QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA ĐẢO NHÂN TẠO VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG ĐẢO NHÂN TẠO ĐỐI VỚI HÒA BÌNH, AN NINH, KINH TẾ, THƢƠNG MẠI TẠI BIỂN ĐÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HỒNG MINH QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA ĐẢO NHÂN TẠO VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG ĐẢO NHÂN TẠO ĐỐI VỚI HÒA BÌNH, AN NINH, KINH TẾ, THƢƠNG MẠI TẠI BIỂN ĐÔNG Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LAN NGUYÊN Hà Nội – 2017 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ̉ ̀ LƠI MƠ ĐẦU ........................................................................................ 1 ́ ̉ ́ Chƣơng 1: QUY CHÊ PHAP LÝ VỀ ĐAO NHÂN TẠO VÀ XÂY ́ ́ ̉ ́ DƢ̣NG ĐAO NHÂN TẠO THEO PHAP LUẬT QUÔC TÊ .................. 5 1.1. Khái niệm, vai trò của đảo trong viê ̣c xác đinh các vùng biể n ............... 5 ̣ 1.1.1. Khái niệm và phân loại đảo ............................................................... 5 1.1.2. Vai trò của đảo trong viê ̣c xác đinh các vùng biể n............................ 9 ̣ 1.2. Quy chế pháp lý về đảo nhân ta ̣o theo pháp luâ ̣t quố c tế ...................... 10 1.2.1. Khái niệm, mục đích, vị trí và điều kiện xây dựng đảo nhân tạo ... 10 1.2.2. Quy chế pháp lý của đảo nhân ta ̣o và xác đinh quyề n tài phán quố c ̣ gia đố i với đảo nhân ta ̣o ............................................................................ 19 ̉ ̉ Chƣơng 2: THƢ̣C TRẠNG VÀ A NH HƢƠNG CỦ A HOA ̣T ĐỘNG ̀ ́ ̉ ́ ́ ́ BÔI ĐĂP , XÂY DƢ̣NG CAC ĐAO NHÂN TẠO CỦ A CAC NƢƠC TRÊN BIỂN ĐÔNG ................................... Error! Bookmark not defined. 2.1. Thực tra ̣ng hoa ̣t đô ̣ng xây dựng đảo nhân ta ̣o trên Biể n Đông ...... Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Khái quát về Biển Đông , mục đích và chiến lược của các quốc gia trong khu vực ............................................. Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Hoạt động xây dựng đảo nhân tạo của các quốc gia tại Biển Đông ................................................................... Error! Bookmark not defined. 2.2. Tác động của đảo nhân tạo đến pháp luật quốc tế và các yếu tố khác ...................................................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Tác động đến pháp luật quốc tế....... Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Tác động đến hòa bình và an ninh quốc tếError! Bookmark not defined. 2.2.3. Tác động đến quyền tự do hàng hải , hàng không, hoạt động kinh tế biể n và đánh bắ t hải sản ............................ Error! Bookmark not defined. 2.2.4. Tác động đến môi trường biển ........ Error! Bookmark not defined. ́ ́ Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG CỦA PHAN QUYÊT TRỌNG TÀ I VỤ KIỆN GIƢ̃ A PHILIPPINES ́ – TRUNG QUÔC Đ ẾN CÁC THỰC THỂ ĐANG ĐƢỢC XÂY DỰNG THÀNH ĐẢO NHÂN TẠO TRÊN BIỂN ́ ́ ĐÔNG VÀ MỘT SÔ K IÊN NGHI ,̣ GIẢI PHÁP Error! Bookmark not defined. 3.1. Tổ ng quan về vu ̣ kiê ̣n và phán quyế t .... Error! Bookmark not defined. 3.1.1. Tổ ng quan về vu ̣ kiê ̣n ...................... Error! Bookmark not defined. 3.1.2. Tổ ng quan về phán quyế t ................ Error! Bookmark not defined. 3.2. Tác động đối với cộng đồng quốc tế và Việt Nam sau phán quyết trọng tài ...................................................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.1. Đối với cộng đồng quốc tế .............. Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Đối với quan hệ quốc tế khu vực .... Error! Bookmark not defined. 3.2.3. Đối với Việt Nam ............................ Error! Bookmark not defined. 3.3. Mô ̣t số kiế n nghi ̣và giải pháp đố i với Viê ̣t NamError! Bookmark not defined. 3.3.1 Hoàn thiện pháp luật quốc tế về đảo nhân tạoError! Bookmark not defined. 3.3.2. Chính sách Việt Nam cần áp dụng .. Error! Bookmark not defined. 3.3.3. Về các bằng chứng liên quan đến đảo nhân tạoError! Bookmark not defined. 3.3.4. Về bảo vệ môi trường biển và đa dạng sinh học ở Biển Đông trước tác động của hoạt động xây dựng đảo nhân tạoError! defined. Bookmark not 3.3.5. Về sử du ̣ng biê ̣n pháp tư pháp để giải quyế t tranh chấ p .......... Error! Bookmark not defined. 3.3.6. Mô ̣t số giải pháp khác ..................... Error! Bookmark not defined. ́ KÊT LUẬN ................................................ Error! Bookmark not defined. ̉ DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHAO .............................................. 25 ̉ ̀ LƠI MƠ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ và hợp tác thương mại giữa các quốc gia ngày càng đẩy mạnh thì biển, đảo ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với mỗi quốc gia. Thời gian gần đây, sự tranh chấp chủ quyền biển đảo tại Biển Đông giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, ảnh hưởng đến tình hình chính trị, kinh tế, an ninh của khu vực. Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông giữa Trung Quốc và các bên liên quan bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia ngày càng gia tăng phức tạp. Trung Quốc không chỉ dừng lại bằng các tuyên bố chủ quyền phi lý mà ngày càng đẩy mạnh các hoạt động cụ thể, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải tại khu vực. Hoạt động xây dựng, cải tạo, bồi đắp đảo và các đảo nhân tạo khác tại Biển Đông được Trung Quốc tập trung tiến hành với các trang thiết bị và công nghệ hiện đại hỗ trợ thời gian qua đã bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích nặng nề. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn bất chấp dư luận quốc tế và tiến hành các hoạt động của mình, tuyên bố các hoạt động xây dựng, cải tạo, bồi đắp đảo, đảo nhân tạo thuộc chủ quyền của quốc gia để cải thiện điều kiện sống, bảo vệ tốt hơn chủ quyền của mình. Vậy các hoạt động và tuyên bố của Trung Quốc có phù hợp với pháp luật quốc tế hay không? Pháp Luật quốc tế đã quy định và có cơ chế giải quyết vấn đề liên quan đến đảo nhân tạo như thế nào? Các hạn chế và giải pháp nhằm giải quyết tranh chấp liên quan đến đảo và đảo nhân tạo trên biển? Căn cứ vào tình hìn h thực tế và các vấn đề đặt ra đố i với hoạt động nghiên cứu pháp luật quốc tế về đảo nhân tạo trên biển, dựa trên tinh thầ n tiếp thu có chọn lọc những công trình nghiên cứu, bài viết của các học giả trong nước và quốc tế, học viên chọn đề tài “Quy chế pháp lý của đảo nhân tạo 1 và tác động của hoạt động xây dựng đảo nhân tạo đối với hòa bình, an ninh, kinh tế, thƣơng mại tại Biển Đông” để làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật quốc tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian gần đây, khi Trung Quốc ngày càng gia tăng các hoạt động bồi đắp, cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo trên Biển Đông thì các chính phủ, trung tâm, học giả, các nhà nghiên cứu có các bài viết, tuyên bố, phát biểu về vấn đề này rất đa dạng và phong phú trên tất cả các phương diện chính trị, an ninh, pháp lý. Tại Việt Nam và một số nước trên thế giới thời gian qua đã tổ chức nhiề u hội thảo liên quan đến quy chế pháp lý của đảo nhân tạo và các tác động của hoạt động xây dựng đảo nhân tạo (XDĐNT) với sự tham gia, đóng góp ý kiến của các chuyên gia, học giả hàng đầu đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Qua việc tìm hiểu các bài viết, đề tài liên quan đến đảo nhân tạo (ĐNT), tác giả nhận thấy đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu và các bài viết về các vấn đề pháp lý của đảo quy định tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, tuy nhiên đối với ĐNT đến nay có rất ít các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Trên các trang mạng có một số bài viết nghiên cứu của các chuyên gia, học giả viết về ĐNT nhưng mang tính nhỏ lẻ, chỉ đề cập đến một phần của vấn đề, chưa có hệ thống ở cả lý luận và thực tiễn. Trong đề tài này, tác giả sẽ nghiên cứu và hệ thống lý luận về ĐNT trong luật quốc tế, các án lệ điển hình có liên quan đến công trình, ĐNT, các tác động của ĐNT tại khu vực Biển Đông từ đó đánh giá và đưa ra các giải pháp hợp lý cho hoạt động XDĐNT ở Biển Đông. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các quy định về đảo và ĐNT có trong UNCLOS 1982, các vụ án tranh chấp liên quan đến 2 đảo nhân tạo đã được giải quyết, ảnh hưởng của hoạt động XDĐNT đến an ninh, hòa bình, kinh tế, thương mại, môi trường tại Biển Đông, tác giả đề xuất mô ̣t số giải pháp nhằ m giải quyết các tranh chấp liên quan đến đảo nhân tạo ở Biển Đông. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, bổ sung, làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật quốc tế về đảo và ĐNT. - Phân tích và đánh giá ảnh hưởng của ĐNT tại Biển Đông trên các linh ̃ vực cụ thể: Hòa bình, an ninh, kinh tế, chính trị, môi trường. - Đề xuất một số giải pháp tích cực hoàn thiện hệ thống pháp luật, giải quyết các tranh chấp liên quan đến đảo, ĐNT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các quy định về đảo và đảo nhân tạo theo UNCLOS 1982 là chủ yếu, các vụ án giải quyết tranh chấp liên quan đến đảo nhân tạo, các hiệp định, thỏa thuận và các văn bản quốc tế có liên quan, các thông tin, bài báo, nghiên cứu, bài viết đã được đăng tải trên mạng và các tạp chí chuyên ngành. - Phạm vi nghiên cứu: Các ĐNT được xây dựng, bồi đắp và cải tạo ở Biển Đông, các tài liệu có liên quan quy định về ĐNT trong chuyên ngành luật biển quốc tế. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến các vấn đề nghiên cứu. - Một số quan điểm của Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế, pháp luật nhân quyền quốc tế và pháp luật khu vực về ĐNT và hoạt động XDĐNT. 3 - Quan điểm của một số học giả pháp lý, nhà lập pháp và thực tiễn thi hành pháp luật trên thế giới, khu vực và Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể, bao gồm: phân tích, tổng hợp, thống kê, luật học so sánh... để luận giải làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn cũng như những vấn đề nghiên cứu được đặt ra. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Đề tài sẽ nghiên cứu, phân tích các cơ sở lý luận của pháp luật quốc tế về ĐNT theo hệ thống khoa học và tìm ra các vấn đề lý luận còn thiếu, chưa hợp lý của pháp luật quốc tế liên quan đến ĐNT. - Nghiên cứu các lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi ĐNT và hoạt động XDĐNT trên Biển Đông. - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật, giải quyết tranh chấp và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông liên quan đến ĐNT. 7. Bố cục của Luận văn Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bao gồm 3 Chương: Chương 1: Quy chế pháp lý về đ ảo nhân ta ̣o và xây dựng đ ảo nhân tạo theo pháp luật quố c tế . Chương 2: Thực trạng và ảnh hưởng của hoạt động bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo của các nước trên Biển Đông. Chương 3: Tác động của phán quyết trọng tài vụ kiện giữa Philippines - Trung Quốc đến các thực thể đang được xây dựng thành đảo nhân tạo trên Biển Đông và một số kiến nghị, giải pháp. 4 Chƣơng 1 ́ ̉ ̉ ́ QUY CHÊ PHAP LÝ VỀ ĐAO NHÂN TẠO VÀ XÂY DƢ̣NG ĐAO ́ ́ ́ NHÂN TẠO THEO PHAP LUẬT QUÔC TÊ 1.1. Khái niệm, vai trò của đảo trong viêc xác đinh các vùng biể n ̣ ̣ 1.1.1. Khái niệm và phân loại đảo 1.1.1.1. Khái niệm đảo Trong các văn bản pháp lý, khái niệm về đảo được thống nhất và ghi nhận lần đầu tiên trong Công ước 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp: "Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước". Sau đó, tại Hội nghị của Liên Hơ ̣p Quốc về Luật biển lần III đã cho ra đời UNCLOS 1982, định nghĩa đảo trong UNCLOS có sự kế thừa theo định nghĩa đảo trong Công ước 1958. Theo quy định tại khoản 1 Điều 121 UNCLOS 1982, đảo được hiểu là: “Một vùng đất hình thành một cách tự nhiên có nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. Định nghĩa trên của UNCLOS về đảo đã gián tiếp đưa ra các tiêu chuẩn xác định đảo trong mối tương quan với cấu trúc tự nhiên hay nhân tạo khác tồn tại trên biển. Trong quy định về đảo tại Điều 121 UNCLOS, một số tiêu chuẩn về đảo cần làm rõ như sau: - Thứ nhất, một vùng đất tự nhiên: Tiêu chuẩn này nhằm phân biệt đảo tự nhiên với ĐNT và các công trình, thiết bị do con người xây dựng, tạo ra trên biển với mục đích mở rộng vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, ảnh hưởng đến các quyền tự do biển cả. Điều này có nghĩa là khi cho rằng đảo là "một vùng đất” thì đảo không thể là vật thả trôi hay các tảng băng trên biển,“vùng đất” này cũng phải gắn bó hữu cơ một cách tự nhiên với đáy biển. Cả khoản 1 Điều 10 của Công ước 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp và khoản 1 Điề u 121 của UNCLOS 1982 cũng khẳng định đảo phải là một vùng đất tự nhiên. Như vậy, cả hai Công ước đều không coi thành phần cấu tạo địa 5 chất của đảo là một tiêu chuẩn để xác định quy chế đảo. Yếu tố "hình thành tự nhiên” là yếu tố được bổ sung khi xây dựng khái niệm đảo trong Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp và tiếp tục được khẳng định trong UNCLOS 1982. - Thứ hai, có nước bao bọc xung quanh: Đây cũng là mô ̣t trong các tiêu chuẩ n khách quan để xác đinh quy chế của đảo. Tiêu chuẩ n này đươ ̣c đưa ra để ̣ phân biê ̣t đảo với bán đảo. Vùng đất có nước bao bọc xung quanh khi thủy triều lên cao nhưng la ̣i nố i với lanh thổ đấ t liề n khi thủy triề u xuố ng thấ p thì cũng chỉ ̃ đươ ̣c coi là bán đảo chứ không phải là đảo theo quy đinh ta ̣i Điề121 UNCLOS. u ̣ Tuy nhiên, vùng đất có nước bao bo ̣c xung quanh vẫn đươ ̣c coi là đảo nế u đươ ̣c nố i với đấ t liề n bằ ng cầ u hoă ̣c đường hầ . Cả Công ước 1958 về lãnh hải và vùng m tiếp giáp lãnh hải và UNCLOS 1982 đều quy định, nhưng bãi cạn lúc nổi lúc chìm thì không có quy chế đảo, các công trình nhân tạo cũng không được hưởng quy chế đảo dù chúng có nước biển bao bọc xung quanh [19, Điều 13]. - Thứ ba, thường xuyên ở trên mặt nước lúc thủy triều lên: Công ước 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp đã dùng tiêu chuẩn này để phân biệt những cấu tạo tự nhiên nào được hưởng quy chế đảo và những cấu tạo nào không được hưởng quy chế đảo. Tiêu chuẩn này có ý nghĩa quan trọng khi đã loại bỏ tất cả bãi cạn lúc chìm lúc nổi khỏi khái niệm đảo. Theo quy định của UNCLOS 1982, sự khác biệt cơ bản giữa đảo với bãi cạn lúc nổi lúc chìm ở chỗ đảo vẫn hiện hữu ở trên mặt nước không phụ thuộc vào mực nước thuỷ triều lên hay xuống, trong khi đó sự xuất hiện của bãi cạn lúc nổi lúc chìm lại phụ thuộc nhiều vào sự lên xuống của thuỷ triều [19, Điều 13]. Chính vì đặc tính này nên bãi cạn lúc nổi lúc chìm sẽ không có vùng biển riêng biệt và sự có mặt của chúng sẽ không ảnh hưởng đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển giữa những quốc gia có biển. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định liên quan đến việc xác định đường cơ sở của quốc gia có biển, bãi cạn lúc nổi lúc chìm cũng có thể được tính đến là điểm xuất phát hay kéo đến của tuyến đường cơ sở. 6 - Thứ tư, có kích thước nhất định: Ngoài các tiêu chuẩn khách quan nói trên, vấn đề một đảo phải có kích thước như thế nào mới được coi là một đảo thật sự đã được thảo luận nhiều từ cuối thế kỷ XIX cho đến Hội nghị của Liên Hơ ̣p Quốc về Luật biển lần I nhưng chưa đạt được những thỏa thuận cụ thể. 1.1.1.2. Phân loại đảo Phân loại đảo cũng là một vấn đề quan trọng, cho đến nay vẫn chưa có sự phân loại các đảo một cách cụ thể của bất kỳ cơ quan, tổ chức quốc tế nào. Dù vậy, cũng có nhiều tiêu chí được đưa ra để phân loại đảo như: Dựa vào kích thước, khả năng thích hợp cho cuộc sống con người hay cho đời sống kinh tế riêng... Tuy nhiên, tiêu chí được sử dụng rộng rãi là dựa vào vị trí của đảo. Đây là tiêu chí quan trọng bởi nó quyết định tới mức độ ảnh hưởng của đảo đối với việc xác định các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia. Mặc dù có một quy chế cho các đảo nhưng UNCLOS 1982 không đưa ra được các tiêu chí để phân loại đảo. Một số tiêu chí sử dụng để phân loại đảo như sau: - Thứ nhất, dựa vào khả năng thích hợp cho cuộc sống con người hay cho đời sống kinh tế riêng của đảo, có thể chia làm hai nhóm: đảo thích hợp cho cuộc sống con người hay cho đời sống kinh tế riêng (đảo tự nhiên) và đảo không thích hợp cho cuộc sống con người hay cho đời sống kinh tế riêng (đảo đá). Trên phương diện nào đó, có thể hiểu đảo sẽ thích hợp cho con người đến ở hoặc có đời sống kinh tế riêng nếu điều kiện tự nhiên về khí hậu, địa lý của đảo cho phép ổn định cuộc sống lâu dài của những người dân trên đảo. Ngoài ra, tài nguyên trên đảo được đánh giá là hiện hữu và có giá trị kinh tế. Quy chế pháp lý của đảo đá được nêu tại UNCLOS 1982 như sau: "Những đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc có một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng ĐQKT và TLĐ" [19, Điều 121]. Như vậy, theo UNCLOS đảo đá được hiểu là những đảo đáp ứng được các tiêu chuẩn khác của một đảo bình thường, nghĩa là chúng là một vùng đất tự nhiên 7 có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước nhưng không đáp ứng được các tiêu chuẩn "thích hợp cho con người đến ở hoặc có một đời sống kinh tế riêng". Về khái niệm "đảo đá", trong thực tiễn và trong lý luận, người ta chưa thống nhất được các tiêu chuẩn nào để xác định thế nào là một đảo đá [25]. Thuật ngữ "những đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc có một đời sống kinh tế riêng" là một thuật ngữ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau và không có một sự giải thích chính xác. Một đảo đá có khả năng đã được con người đến ở nhưng sau khi đã khai thác hết tài nguyên hoặc do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt họ có thể ra đi. Một đảo đá không thích hợp cho con người đến ở ngày hôm nay có thể trở thành một đảo đá có người đến ở ngày mai nhờ những tiến bộ trong khoa học, kỹ thuật của con người. Bất kì mỏm đá hay bãi cạn nào cũng có thể dùng làm nơi cư trú của con người nếu quốc gia đầu tư thích đáng để con người có thể sinh sống ở đó. Mục đích của quy định tại khoản 3 Điều 121 UNCLOS là để hạn chế việc áp dụng quy chế pháp lý đầy đủ của đảo tự nhiên cho đảo đá nhằm thực hiện yêu sách chủ quyền trên biển của các quốc gia. Do đó, tiêu chí thích hợp cho con người đến ở có thể được hiểu là tiêu chí về địa lý, khí hậu, kinh tế, tài nguyên... cho phép con người xây dựng và ổn định đời sống sinh hoạt xã hội lâu dài cho cộng đồng dân cư trên đảo. Tiêu chí xác định một đảo có đời sống kinh tế riêng cũng không rõ ràng, bởi vì UNCLOS không nêu cụ thể các yếu tố nào là căn cứ có thể xác định một đảo có đời sống kinh tế riêng. Đời sống kinh tế riêng ở đảo có cần phải tự chủ hoàn toàn với lãnh thổ đất liền hay không... là rất khó xác định. Vì vậy, đảo có đời sống kinh tế riêng là đảo đáp ứng được về mặt tài nguyên ở trên và xung quanh đảo được đánh giá là có giá trị kinh tế, đang tồn tại trên thực tế và được cộng đồng dân cư trên đảo tạo lập đời sống kinh tế, xã hội từ chính các nguồn lợi đó. 8 Theo quy định của UNCLOS 1982, vùng biển của hai nhóm đảo tự nhiên và đảo đá này rất khác nhau. Để đảm bảo chủ quyền quốc gia đối với đảo tự nhiên, tại khoản 2 Điều 121 UNCLOS quy định dành cho các đảo tự nhiên có đầy đủ các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền như lãnh thổ đất liền của quốc gia (bao gồm vùng nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, ĐQKT và thềm lục địa). Tuy nhiên đảo đá lại không có vùng biển thuộc quyền chủ quyền là vùng ĐQKT và thềm lục địa (TLĐ). Mặt khác, mức độ ảnh hưởng của hai nhóm này đến quá trình xác định các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia cũng khác nhau. - Thứ hai, dựa vào khoảng cách của đảo đến bờ biển của quốc gia: Dựa trên tiêu chí này có thể chia đảo thành hai nhóm là đảo ven bờ và đảo xa bờ. Mặc dù UNCLOS 1982 không xác định rõ khoảng cách là bao nhiêu để xác định thế nào là gần bờ hay xa bờ, tuy nhiên trong thực tiễn đảo ven bờ là đảo cách bờ biển của quốc gia không quá hai lần chiều rộng của lãnh hải là 24 hải lý, đảo cách bờ quá khoảng cách trên sẽ được xếp vào nhóm đảo xa bờ. 1.1.2. Vai trò của đảo trong viê ̣c xác đinh các vùng biển ̣ Sự hiện diện của các đảo hay chuỗi đảo nằm ven bờ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đường cơ sở của quốc gia ven biển. Theo quy định của UNCLOS 1982, các quốc gia ven biển không phải là quốc gia quần đảo thì có hai phương pháp xác định đường cơ sở là phương pháp đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng. Trong đó, đường cơ sở thông thường được xác định là ngấn nước thuỷ triều xuống thấp nhất dọc theo bờ biển, được thể hiện trên hải đồ có tỉ lệ lớn và được quốc gia ven biển chính thức công nhận thì đường cơ sở thẳng là đường nối các đoạn thẳng tại những điểm thích hợp có thể được lựa chọn (điểm ngoài cùng nhô ra nhất của bờ biển khi ngấn nước triều thấp nhất) của bờ biển, các đảo ven bờ tạo thành đường liên tiếp gẫy khúc. Đường cơ sở thẳng được áp dụng trong ba trường hợp sau đây: Ở những nơi bờ biển khúc khuỷu, bị khoét sâu và lồi lõm; ở những nơi có một 9 chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển; ở những nơi có các điều kiện thiên nhiên đặc biệt gây ra sự không ổn định của bờ biển như sự hiện diện của các châu thổ. Do đó, quốc gia ven biển có các đảo gần bờ có thể lựa chọn vạch đường cơ sở theo phương pháp đường cơ sở thẳng thay vì đường cơ sở thông thường [19, Điều 5.7]. Đối với các đảo xa bờ : Về nguyên tắc, các đảo xa bờ sẽ không được tính đến khi vạch đường cơ sở của quốc gia có biển. Như vậy, sự tồn tại của đảo tự nhiên được xác định là gần bờ hay xa bờ đều có ý nghĩa nhất định đối với việc hoạch định vùng biển của quốc gia ven biển. Trong một số trường hợp đặc biệt, sự tồn tại của đảo, chuỗi đảo tự nhiên này có thể góp phần mở rộng các vùng biển của quốc gia ra hướng biển. 1.2. Quy chế pháp lý về đảo nhân ta ̣o theo pháp luâ ̣t quố c tế 1.2.1. Khái niệm, mục đích, vị trí và điều kiện xây dựng đảo nhân tạo 1.2.1.1. Khái niệm đảo nhân tạo Về phương diện lịch sử, từ thời La Mã cổ đại đã có những ghi chép sơ khai đầu tiên về ĐNT từ gần 2.000 năm trước. Năm 47, Plinius đề cập đến những “gò đất nhân tạo” do cư dân sống tại khu vực mà ngày nay thuộc đông bắc Hà Lan xây dựng để tránh triều cường và sóng bão. Từ năm 1892 đến năm 1954 với mục đích phân loại những người nhập cư vào Mỹ liên quan đến các vấn đề về pháp lý và y tế, chính quyền liên bang Mỹ đã cho xây dựng ĐNT Ellis Island tại Vịnh New York. Đảo Ellis Island ban đầu chỉ là một cù lao nhỏ sau khi được cải tạo thì diện tích đã tăng gấp nhiều lần và trong quá trình 62 năm hoạt động thì đã có 12 triệu lượt người nhập cư đến hòn đảo nhân tạo này để kiểm tra trước khi được nhập cư vào Mỹ [68]. Xuất phát từ học thuyết TLĐ, từ lâu người ta đã công nhận thẩm quyền của quốc gia ven biển xây dựng các cấu trúc nhân tạo nhằm mục đích thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình trên TLĐ của mình nhưng các cấu trúc này không có quy chế đảo. Tại Hội nghị pháp điển hoá Luật pháp 10 quốc tế La Hay năm 1930, đại diện của Đức đã đề nghị nếu một ĐNT có người ở thì sẽ được hưởng quy chế đảo nhưng Hội nghị đã bác bỏ. Từ đó, không có quốc gia nào đề nghị các cấu trúc nhân tạo có quy chế đảo nữa. Trong quá trình đàm phán để ký kết UNCLOS đã có đệ trình của một số quốc gia liên quan tới ĐNT nhưng văn bản cuối cùng của UNCLOS chỉ định nghĩa đảo tự nhiên tại Điều 121 mà không định nghĩa ĐNT. Việc thiếu vắng một định nghĩa chính thức về ĐNT trong UNCLOS đã gây ra rất nhiều tranh chấp trong việc giải thích và áp dụng quy chế pháp lý của ĐNT giữa các quốc gia với nhau. Tại Biển Đông hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo, bồi đắp, xây dựng ĐNT trên các đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm, rạn san hô với quy mô rộng lớn bằng các phương tiện, máy móc hiện đại. Điều này làm cho khu vực trở nên bất ổn, tiềm năng nhiều nguy cơ gây tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia. Nguyên nhân chính là do việc XDĐNT liên quan tới chủ quyền quốc gia, quyền tài phán trên biển, phân định biên giới biển, khai thác tài nguyên biển nếu không được giải quyết hòa bình trong khuôn khổ pháp luật quốc tế thì sẽ tác động nghiêm trọng tới hòa bình, an ninh, kinh tế của khu vực và thế giới [22, Tr.3]. Các chuyên gia, học giả pháp lý trên thế giới đã đưa ra một số định nghĩa về ĐNT theo quan điểm của mình như: Theo Soons, “Đảo nhân tạo là những cấu trúc được tạo ra bằng cách đặt/đổ lên các vật chất tự nhiên như sỏi, cát và đá; trong khi đó các công trình lắp đặt nhân tạo lại là những cấu trúc bê tông cố định gắn với đáy biển bằng ống dẫn và các cọc” [51]. Theo Robert Beckman, “Đảo nhân tạo là các thực thể nổi trên biển khi thủy triều lên cao do các hoạt động cải tạo đất hoặc các hoạt động nhân tạo khác..." Theo Heijmans, “Đảo nhân tạo là các thực thể nhân tạo được hình thành từ nguồn tự nhiên trên nền đất của đáy biển, bao quanh bởi nước và nổi trên biển khi thủy triều lên cao” [56]. Bách khoa toàn thư Công pháp quốc tế định 11 nghĩa: “Đảo nhân tạo là một nền tảng cố định vĩnh viễn hoặc tạm thời do con người tạo nên, bao quanh là nước và nổi trên mặt nước trên khi thủy triều lên”. Trong khi đó, Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại sự an toàn của những công trình cố định trên TLĐ năm 1988 đã đồng nhất khái niệm “đảo nhân tạo” với khái niệm “công trình cố định”. Theo đó, “công trình cố định” được hiểu là “một đảo nhân tạo, thiết bị hoặc cấu trúc được lắp đặt vĩnh cửu gắn với đáy biển nhằm mục đích thăm dò hoặc khai thác tài nguyên hoặc nhằm các mục đích kinh tế khác”. Về nội dung, các định nghĩa nói trên chưa phản ánh toàn diện các vấn đề kỹ thuật và tính pháp lý của ĐNT. Vì vậy, sẽ hợp lý hơn nếu định nghĩa ĐNT dựa trên tiêu chí về kỹ thuật, pháp lý và mục đích xây dựng. Tiêu chí kỹ thuật để trả lời cho câu hỏi ĐNT được xây dựng như thế nào, tiêu chí pháp lý để trả lời cho câu hỏi điều kiện để XDĐNT, ĐNT có quy chế pháp lý, xây dựng nhằm mục đích gì? Tại Biển Đông hiện nay, tồn tại ba thiết lập, cấu trúc nhân tạo đó là: (1) Các thiết lập nhân tạo nổi tạm thời; (2) Các thiết lập và cấu trúc nhân tạo gắn kết tạm thời hoặc vĩnh viễn với đảo tự nhiên; (3) Đảo nhân tạo được xây dựng trên các đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm, rạn san hô. Luận văn tập trung nghiên cứu ĐNT được cải tạo, bồi đắp, xây dựng trên Biển Đông, do đó có thể định nghĩa: "Đảo nhân tạo là công trình vĩnh cửu gắn với đáy biển bằng các vật liệu tự nhiên, được bao quanh bởi nước biển và nổi trên biển khi thủy triều lên cao do các quốc gia tiến hành các hoạt động bồi đắp, cải tạo, xây dựng nhằm mục đích khẳng định hoặc yêu sách về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia trên biển”. Như vậy, khác với các công trình nhân tạo khác như nhà giàn; giàn khoan dầu, khí; hệ thống cáp ngầm, ống dẫn ngầm trên biển, ĐNT là công trình xây dựng cố định, vĩnh cửu, thường xuyên nhô trên mặt nước biển và không thể di dời dịch chuyển được [22, Tr.5]. 12 1.2.1.2. Phân loại đảo nhân tạo Đảo nhân tạo có thể được phân thành hai loại cơ bản dựa vào mục đích sử dụng như sau: Loại 1: Nơi sinh sống ổn định, lâu dài của cộng đồng dân cư trên biển (các thành phố, làng mạc trên biển cố định hoặc nổi như các ĐNT mà UAE, Maldives, Canada, Singapore, Mĩ, Nhật Bản… đã xây dựng) [63]. Loại 2: Các công trình nhằm mục đích dân sự như: thăm dò và khai thác tài nguyên biển, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, khảo cổ học, dự báo thời tiết, điều hòa thủy triều, chống xói mòn (như các đảo của Israel xây dựng để nuôi trồng thủy sản hoặc là các ĐNT của Hà Lan được xây dựng chủ yếu là nhằm mục đích điều hòa thủy triều, chống xói mòn), các công trình phục vụ giao thông vận tải như bến tàu, nhà kho, sân bay (như sân bay quốc tế Hong Kong, Macao Trung Quốc, các sân bay Kansai, Kobe và Nagasaki của Nhật Bản hoặc sân bay Emirate của UAE) hoặc nhằm mục đích quân sự như Trung Quốc đang thực hiện phi pháp trên các đá thuộc quần đảo Trường Sa, chủ quyền của Việt Nam [19]. 1.2.1.3. Điề u kiê ̣n chung về viê ̣c xây dựng đảo nhân tạo Một quốc gia muốn XDĐNT thì phải đáp ứng các yêu cầu như không được cản trở đối với giao thông hàng hải, việc đánh cá hay bảo vệ tài nguyên sinh vật biển, đồng thời không cản trở việc nghiên cứu về hải dương học; Điều 5.2 của Công ước 1958 về TLĐ cũng quy định quốc gia ven biển có quyền xây dựng, duy trì và bảo dưỡng các thiết bị, công trình trên TLĐ của mình nhằm thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy vậy, các thiết bị và công trình đó không được làm ảnh hưởng đến các đường hàng hải quốc tế. UNCLOS 1982 cũng đã đề cập đến cách thức xây dựng các công trình này. Việc xây dựng các ĐNT, thiết bị và công trình phải được thông báo theo đúng thủ tục, phải duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có 13 mặt của các đảo; khi không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để bảo đảm an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra [19, Điều 60.3]. UNCLOS 1982 cho phép quốc gia ven biển khi cần có thể lập ra xung quanh các ĐNT, các thiết bị hoặc công trình những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực này, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các ĐNT, các thiết bị và công trình [19, Điều 60.4]. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn và tuân theo các quy phạm quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong khu vực gần các ĐNT, các thiết bị và công trình [19, Điều 60.6]. 1.2.1.4. Vị trí, mục đích và các điều kiện cụ thể về viê ̣c xây dựng đảo nhân tạo Về nguyên tắ c , các quốc gia ven biển có quyền xây dựng ĐNT trên các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (nô ̣i thủy và lanh hải), trên các vùng biể n ̃ thuô ̣c quyề n chủ quyề n và quyề n tài phán quố c g ia (vùng tiếp giáp lãnh hải , ĐQKT và TLĐ) và trên vùng biển quốc tế . Do ở từng vi ̣trí t hì có các chế độ pháp lý khác nhau nên mục đích cũng như các điều kiện đối với việc xây dựng đảo nhân ta ̣o cũng có sự khác nhau [19, Điều 56, 60]. a. Vị trí xây dựng đảo nhân tạo trong nội thủy và lãnh hải Nô ̣i thủy và lanh hải là lanh thổ trên biể n của quố c gia nên các quố c gia ̃ ̃ ven biển hoàn toàn có quyền xây dựng các đảo và công trình thiết bị nhân tạo để khẳng định, bảo vệ và thực thi chủ quyền quốc gia. Do đó , với vi ̣trí xây dựng ĐNT trong nô ̣i thủy và lanh hải , về nguyên tắ c thì các quốc gia ven biển ̃ có quyền XDĐNT nhằm bất cứ mục đích gì mà luật pháp quốc tế không cấm. Cụ thể, quốc gia ven biển có thể XDĐNT để làm nơi sinh sống cho dân cư hoặc phục vụ hoạt động khai thác tài nguyên, đánh bắt hải sản, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển hoặc ứng phó với biến đổi khí hậu, chống xói mòn, thủy triều dâng hoặc xây dựng các căn cứ quân sự trên biển 14 nhằm bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia với điều kiện tuân thủ các quy tắc và chuẩn mực của luật quốc tế. Tuy nhiên, xuất phát t ừ chế độ pháp lý của lãnh hải là tàu thuyền của mọi quốc gia được quyền “đi qua không gây hại” nên việc XDĐNT trong vùng biển này phải tuân thủ các quy định của UNCLOS nhằm bảo đảm “quyền đi qua không gây hại” của tàu thuyền nước ngoài. Đồng thời, việc XDĐNT phải bảo đảm an toàn cho hoạt động hàng hải, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Trong phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế về vụ Eo biển Corfu (giữa UK và Albania), liên quan đến việc các tàu chiến của Anh đi qua eo biển Corfu bị vướng mìn trong lãnh hải của Albania khiến 44 thủy thủ thiệt mạng. Tòa án Công lý Quố c tế đã tuyên bố r ằng, mọi quốc gia có nghĩa vụ không được sử dụng lãnh thổ của mình vào các hoạt động nếu biết rõ rằng các hoạt động đó xâm phạm đến quyền của các quốc gia; không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ, bao gồm cả lãnh hải của mình theo cách thức có thể gây phương hại tới lãnh thổ quốc gia khác. Theo đó, Tòa đã tuyên, Albania phải chịu trách nhiệm những vụ nổ xảy ra vào ngày 22 tháng 10 năm 1946 và phải bồi thường cho Anh. Đặc biệt, trong trường hợp các quốc gia đối diện hoặc tiếp giáp nhau trong mô t vùng biể n he ̣p thì ho ạt động XDĐNT phải tính đến các tác động ̣ của việc xây dựng đó có thể gây ra đối với lãnh thổ của quốc gia khác. Do vậy, trước khi XDĐNT, các quốc gia cần phải xem xét, tính toán kỹ lưỡng những ảnh hưởng và tác động của việc xây dựng đối với quốc gia láng giềng. Đồng thời, quốc gia xây dựng phải có nghĩa vụ đàm phán với các quốc gia hữu quan nhằm bảo đảm việc xây dựng sẽ không ảnh hưởng hoặc giảm thiểu sự ảnh hưởng, tác động tiêu cực đối với quốc gia khác. Một ví dụ điển hình về việc này là vụ cải tạo đất giữa Singapore những năm đầu thế kỷ XX. Theo đó, Singapore đã thể hiện thiện chí trong việc đảm bảo rằng nước này sẽ thông báo và tham vấn với Malaysia trước khi tiến hành xây dựng liên kết giao 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất