VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________
HOÀNG ĐẠI THANH
QUẢNG CÁO TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có
nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2016
Tác giả
Hoàng Đại Thanh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Đặng Vũ Huân - Tổng biên tập Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật đã tận tình hướng dẫn; cảm ơn Ban Giám đốc Học viện
Khoa học Xã hội và các quý thầy, cô trong Học viện đã truyền dạy những
kiến thức quý báu; cảm ơn gia đình và các đồng nghiệp ở Tạp chí Thời Trang
Trẻ, Báo điện tử Một Thế Giới đã giúp đỡ và động viên để tôi hoàn thành tốt
bản luận văn này.
Tác giả
Hoàng Đại Thanh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………….....1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG
CÁO TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ.................................................................................7
1.1. Khái quát về quảng cáo trên báo điện tử......................................................7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của báo điện tử.........................................................7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quảng cáo.........................................................11
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của quảng cáo trên báo điện tử...................................13
1.1.4. Vai trò của quảng cáo trên báo điện tử.........................................................19
1.2. Pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử....................................................23
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử.....................................23
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử...............................27
1.2.3. Nội dung của pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử................................29
Kết luận Chương 1...............................................................................................34
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO TRÊN BÁO
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................35
2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở
Việt Nam................................................................................................................35
2.1.1. Các quy định về quảng cáo trên báo điện tử theo Luật Quảng cáo..............35
2.1.2. Các quy định về quảng cáo trên báo điện tử trong Luật Báo chí.................40
2.1.3. Các quy định về quảng cáo trên báo điện tử trong Luật Cạnh tranh............42
2.1.4. Các quy định về quảng cáo trên báo điện tử theo Luật Dược......................45
2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam
hiện nay..................................................................................................................47
2.2.1. Thực trạng hoạt động quảng cáo trên báo chí ở Việt Nam...........................47
2.2.2. Thực trạng hoạt động quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam....................49
2.3. Nhận xét về thực trạng pháp luật quảng cáo trên báo điện tử ở Việt
Nam........................................................................................................................53
Kết luận Chương 2...............................................................................................60
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢNG CÁO TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM......................................62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt
Nam hiện nay........................................................................................................62
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử phải đáp ứng yêu cầu bảo
vệ những giá trị cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa.......................................62
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử phải thận trọng để điều
chỉnh hiệu quả những luồng văn hóa mới..............................................................63
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử phải nhằm bảo vệ những
lợi ích cơ bản của người dân..................................................................................65
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử phải tôn trọng truyền
thống và duy trì, phát huy văn hóa dân tộc.............................................................66
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt
Nam hiện nay................................................................................................67
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử.......................68
3.2.2. Bổ sung các quy định chưa đầy đủ về Hội đồng thẩm định sản phẩm quảng
cáo………………………………………………………………………………...69
3.2.3. Tăng cường các biện pháp xử lý hành vi vi phạm........................................70
3.2.4. Tăng cường các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về quảng cáo trên báo
điện tử..............................................................................................................71
3.2.5. Chuẩn hóa trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác quảng cáo trên báo
điện tử.....................................................................................................................72
3.2.6. Tăng cường vai trò của Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam...............................73
3.2.7. Thiết lập cơ quan chuyên trách quản lý hoạt động quảng cáo trong đó có hoạt
động quảng cáo trên báo điện tử.....................................................................74
Kết luận Chương 3...............................................................................................76
KẾT LUẬN...........................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................80
DANH MỤC TỪ VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
BTTTT:
BVHTTDL:
Mạng xã hội:
TTTĐT:
VN:
Bộ Thông tin và Truyền thông
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Dịch vụ mạng xã hội trực tuyến
Trang thông tin điện tử
Việt Nam
VĂN BẢN PHÁP LUẬT VIẾT TẮT
1. Luật Quảng cáo 2012:
Luật số 16/2012/QH13 được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 13
thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2012.
2. Luật Công nghệ Thông tin 2006:
Luật Công nghệ Thông tin số 67/2006/QH11
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông
qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2007.
3. Luật Giao dịch Điện tử 2005:
Luật Giao dịch Điện tử số 51/2005/QH11
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 3 năm 2006.
4. Luật Thương mại 2005:
Luật Thương mại số 36/2005/QH11 được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006.
5. Nghị định số 181/2013/NĐ –CP:
Nghị định số 181/2013/NĐ – CP ngày 14
tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật
quảng cáo.
6. Thông tư số 10/2013/TT-BVHTTDL: Thông tư số 10/2013/TT-BVHTTDL ngày
06-12-2013 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch quy định chi tiết và
hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật
quảng cáo và Nghị định số 181/2013/NĐCP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật quảng cáo.
7. Nghị định số 158/2013/NĐ – CP:
Nghị định số 158/2013/NĐ – CP ngày 12
tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
(Trích).
8. Thông tư số 40/2012/TT – BCT:
Thông tư số 40/2012/TT – BCT ngày 21
tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Công Thương quy định cấo Giấy xác nhận
nội dung quảng cáo thực phẩm thuộc trách
nhiệm quản lý của Bộ Công Thương.
9. Thông tư số 08/2013/TT – BYT:
Thông tư số 08/2013/TT – BYT ngày 13
tháng 3 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế
hướng dẫn về quảng cáo thực phẩm thuộc
phạm vi quản lý của Bộ Y tế.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng cáo là một hình thức giới thiệu sản phẩm có lịch sử từ rất lâu đời và là
một trong các công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển thị trường. Quảng cáo có
quan hệ chặt chẽ với chất lượng sản phẩm, thương hiệu hàng hóa, dịch vụ, là nhu
cầu của người kinh doanh, nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, đồng thời
cũng là nhu cầu của người tiêu dùng, tạo cơ hội cho người tiêu dùng có điều kiện để
lựa chọn sản phẩm phù hợp với mình.
Luật Quảng cáo năm 2012 có đưa ra khái niệm quảng cáo “là việc sử dụng
các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có
mục đích sinh lợi, sản phẩm dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân
kinh doanh sản phẩm, hàng hóa dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự, chính sách
xã hội, thông tin cá nhân” (khoản 1 Điều 2). Nội hàm này của khái niệm quảng
cáo không chỉ cho chúng ta biết rõ về phạm vi, đối tượng của hoạt động quảng
cáo, mà còn cho chúng ta hiểu rằng, việc quảng cáo trong một nền sản xuất hàng
hóa, dịch vụ là cần thiết và một nền kinh tế càng phát triển mạnh, các hoạt động
sản xuất, kinh doanh càng phong phú, đa dạng thì dịch vụ quảng cáo càng có ý
nghĩa quan trọng và cần thiết. Thật vậy, quảng cáo là một trong những lĩnh vực
kinh doanh thu nhiều lợi nhuận nhất tại nhiều quốc gia trên thế giới. Quảng cáo đã
có lịch sử từ rất lâu đời. Tại Việt Nam, quảng cáo chỉ thực sự phát triển từ sau
công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta (1986) và ngày càng có vai trò quan
trọng đặc biệt. Trên thế giới, những lợi ích của quảng cáo trên các phương tiện
kết nối không dây đã được chứng minh và chú trọng phát triển từ lâu nhưng tại
Việt Nam những lợi ích của quảng cáo trên các giao thức này mới được chú
trọng từ năm 2005. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, cùng với sự phát triển vượt
bậc của công nghệ thông tin và thương mại điện tử, quảng cáo trên báo điện tử ở
Việt Nam bắt đầu xuất hiện. So với các phương tiện quảng cáo khác, hệ thống
báo điện tử đang trở thành một phương tiện quảng cáo mới, ấn tượng và hiệu quả
hơn rất nhiều. Với sự xuất hiện của báo điện tử, báo in đã không còn giữ vị trí
1
độc quyền của mình trong lĩnh vực cung cấp thông tin như trước nữa. Những lợi
thế về công nghệ hiện đại đã khiến việc truyền bá thông tin trên báo điện tử ngày
càng phát triển với hình thức rất đa dạng. Quảng cáo trên trên báo điện tử vì thế đã
cho phép các doanh nghiệp loại bỏ giới hạn về thời gian, không gian và nhất là dung
lượng. So với báo in thì lượng thông tin quảng cáo trên trên báo điện tử là không có
giới hạn. Trong khi truyền hình thông thường giới hạn khoảng 30 giây cho một
chương trình quảng cáo (1 spot) hoặc nhiều nhất là 1 trang với tần suất 1 lần xuất
hiện cho một kỳ xuất bản của báo in, thì trên báo điện tử có thể có không gian chứa
đựng thông tin bất tận theo ý muốn. Với những ưu điểm như vậy, quảng cáo trên
trên báo điện tử chứa đựng những tiềm năng mà không một công nghệ quảng cáo
nào tại thời điểm này có thể sánh bằng. Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đã và
đang khám phá những sức mạnh của quảng cáo trên trên báo điện tử vì nó đã chứng
minh những hiệu quả tuyệt vời của mình, đặc biệt trong việc giúp doanh nghiệp
Việt Nam có được sự hiện diện của mình trên thị trường thế giới. Nguồn thu từ
quảng cáo trên báo điện tử thay thế luôn cả nguồn thu phát hành của báo in và trở
thành một nguồn thu không nhỏ nhằm giúp cho các báo điện tử tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, mặc dù có nhiều ưu điểm và đang trong giai đoạn phát triển
nhưng hoạt động quảng cáo trên các báo điện tử lại chưa được pháp luật quan tâm
và điều chỉnh đầy đủ. Bên cạnh đó, những hành vi vi phạm đến quyền lợi của những
tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động quảng cáo trên hệ thống thông tin điện tử
cũng xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức, mức độ và thủ đoạn khác nhau.
Có thể thấy rằng, với những vấn đề phát sinh nói trên, việc cập nhật, điều
chỉnh bằng những quy phạm pháp luật đặc thù đối với hoạt động quảng cáo trên hệ
thống thông tin điện tử, mà đặc biệt là trên báo điện tử chưa phù hợp với sự vận
động và phát triển của loại hình này, một số quy định của pháp luật hiện hành còn
mang tính khái quát, chưa đủ mạnh. Hoạt động quảng cáo trên báo điện tử hiện nay
đang đòi hỏi phải có những quy định pháp luật đặc thù và phù hợp hơn để thúc đẩy
sự phát triển cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động. Với thực tế nhiều năm làm
báo, trong đó có nhiều năm trực tiếp quản lý và điều hành các trang thông tin điện
2
tử tổng hợp, phiên bản điện tử và gần đây là Báo điện tử Một Thế Giới, tôi nhận
thấy có rất nhiều vấn đề phát sinh trong thực tiễn quá trình áp dụng pháp luật quảng
cáo trên báo điện tử. Bởi vậy, tôi đã chủ động lựa chọn đề tài “Quảng cáo trên báo
điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” với mong muốn góp phần vào việc xây
dựng những cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện các quy định pháp luật về
quảng cáo trên báo điện tử, phù hợp với nhu cầu phát triển của hoạt động này trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, chế độ pháp lý đối với hoạt động quảng cáo nói
chung và quảng cáo trên các phương tiện truyền thông nói riêng đã được nghiên cứu
dưới các góc độ khác nhau. Nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật quảng cáo được
đề cập tại các diễn đàn, hoạt động nghiên cứu khoa học, hội thảo quốc gia và quốc
tế thu hút sự tham gia đông đảo của những người quan tâm. Cho đến nay, đã có một
số công trình nghiên cứu, bài viết của một số tác giả liên quan đến vấn đề quảng cáo
và pháp luật về quảng cáo được công bố, cụ thể như: Luận án Phó Tiến sĩ kinh tế
của tác giả Lê Quốc Tuấn với đề tài: “Tổ chức và quản lý hoạt động quảng cáo của
các doanh nghiệp Việt Nam”; PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa với chuyên đề: “Pháp luật
về hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp”, Sách tham khảo: Pháp luật về cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 1999; PGS.TS. Nguyễn Bá Diến với bài viết: “Pháp luật về chống quảng cáo
không trung thực ở Việt Nam và một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 10/1997; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đào Tuyết Vân: “Pháp
luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009; Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trịnh Thị
Liên Hương: “Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010; Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung: “Quảng cáo truyền hình Thực trạng và cơ chế hoàn thiện”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2011; Luận văn của Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Tâm “Pháp luật về
3
quảng cáo thương mại qua báo chí, thực trạng áp dụng và hướng hoàn thiện”, Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2012… Nghiên cứu về vấn đề quảng cáo còn có
một số công trình tiểu biểu của một số tác giả nước ngoài như: “Nghệ thuật quảng
cáo” của tác giả Arrmand Dayan, Nxb. Thế giới, năm 2002; “Definition of
Comparative Advertising” của tác giả Peter Miskolczi – Bodnar, European
Integration Studies, Miskolc, Volume 3. Number 1, (2004); - “Ảnh hưởng của
quảng cáo bắt chước với thương hiệu gốc” của GS. Ouidade Sabi, Đại học
Sorbonne (Cộng hòa Pháp); “Nghề quảng cáo” của tác giả Iu.A.Suliagin &
V.V.Petrov, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, năm 2004...
Các công trình nói trên mới chỉ tập trung vào phân tích pháp luật quảng cáo
nói chung, quảng cáo trên báo chí và truyền hình nói riêng, chưa có công trình
nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu dưới giác độ pháp luật về quảng cáo trên báo
điện tử. Đây là vấn đề mới cần phải được nghiên cứu sâu sắc, cần cách tiếp cận mới
trong bối cảnh hoạt động quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam đang phát triển
mạnh mẽ cùng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, các công trình trên đây sẽ là nguồn tư liệu tham
khảo quan trọng cho học viên trong quá trình hoàn thiện bản luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân
tích và đánh giá thực trạng pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam, từ
đó, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được xác định là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về báo điện tử, về quảng cáo, pháp luật về
quảng cáo; khảo cứu kinh nghiệm pháp luật của một số nước điều chỉnh hoạt động
quảng cáo để rút ra bài học cho Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật
4
trong hoạt động quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý
luận và thực tiễn của pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam, mà cụ thể
là hệ thống quy định pháp luật của Luật Quảng cáo năm 2012, Luật Báo chí năm
2016 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, để làm sâu sắc hơn đề tài nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu về thời
gian được giới hạn kể từ khi Luật Quảng cáo năm 2012 được ban hành cho tới nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học cơ bản như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa
trong khi tìm hiểu, đánh giá pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam
hiện nay nhằm tìm ra những hạn chế và đề xuất định hướng hoàn thiện phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những căn cứ và phân tích lý luận về pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng
cáo trên báo điện tử ở Việt Nam của luận văn sẽ góp phần củng cố lý luận về pháp
luật quảng cáo trên hệ thống thông tin điện tử, mở ra hướng nghiên cứu mới về
pháp luật quảng cáo trên hệ thống thông tin điện tử nói chung, báo điện tử nói riêng.
- Những giải pháp pháp lý và những biện pháp thực hiện mà luận văn đưa ra
có khả năng ứng dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao công tác kiểm soát hoạt động
quảng cáo trên hệ thống thông tin điện tử nói chung và báo điện tử nói riêng, góp
5
phần ngăn chặn, giảm bớt các tình trạng quảng cáo tràn lan, xâm phạm đến quyền
lợi của các chủ thể khác, giảm thiểu rủi ro đối với các chủ thể tham gia hoạt động
quảng cáo trên báo điện tử, đồng thời góp phần tăng thêm nguồn thu cho các cơ
quan báo chí điện tử và cho ngân sách nhà nước.
- Trên cơ sở nghiên cứu góp phần làm rõ các vấn đề lý luận, hệ thống, phân
tích thực trạng các quy định của pháp luật, luận văn đánh giá đúng vai trò của pháp
luật trong việc điều chỉnh hoạt động quảng cáo trên báo điện tử.
- Góp phần làm sáng tỏ về tình hình hoạt động quảng cáo trên báo điện tử ở
Việt Nam, qua đó, tác động đến các cơ quan nhà nước trong việc nhận thức tầm
quan trọng đối với công tác quản lý và điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt động
quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết nhược điểm của pháp luật hiện hành,
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử, bảo đảm
tính khách quan, toàn diện và phù hợp thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
hoạt động quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy về pháp luật quảng cáo nói chung và pháp luật quảng cáo trên báo
điện tử nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn này có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận của pháp luật về quảng cáo trên báo điện
tử.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quảng cáo trên báo điện tử ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo trên
báo điện tử ở Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
1.1. Khái quát về quảng cáo trên báo điện tử
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của báo điện tử
1.1.1.1. Khái niệm báo điện tử
Hiện nay, báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình và
chất lượng thông tin, trở thành phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu trong đời
sống xã hội. Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã
hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và
phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo
nói, báo hình, báo điện tử.
Báo điện tử là loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang web
và phát hành dựa trên nền tảng internet. Điều 3 Luật Báo chí năm 2016 đã quy định:
Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên
môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử. Báo mạng điện tử được xuất
bản bởi tòa soạn điện tử, còn người đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động,
máy tính bảng... có kết nối internet [41]. Khác với báo in, tin tức trên báo điện tử
được cập nhật thường xuyên, tin ngắn và thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Báo
điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng không
phụ thuộc vào không gian và thời gian, sự phát triển của báo điện tử đã làm thay đổi
thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển báo giấy truyền
thống. Trên thực tế có một số người hiểu đồng nhất báo điện tử và trang thông tin
điện tử của cơ quan, tổ chức. Sự khác biệt giữa báo điện tử và trang thông tin điện
tử tổng hợp thật ra nằm ở khâu quản lý (cấp phép và quản lý hoạt động). Việc xin
cấp phép hoạt động báo điện tử cần phải đáp ứng yêu cầu rất khắt khe hơn so với
xin cấp phép của một trang thông tin điện tử tổng hợp. Giấy phép hoạt động báo
điện tử sẽ được cấp cho các cơ quan, tổ chức, không được cấp cho doanh nghiệp.
Báo điện tử được hoạt động như một tờ báo với cơ cấu thành phần có Tổng biên
7
tập, bộ phận tòa soạn, phóng viên. Báo điện tử được quyền đăng tải nội dung (tin,
bài báo) do tờ báo sản xuất hoặc dẫn lại nội dung thông tin của các tờ báo khác (có
thỏa thuận về bản quyền). Còn giấy phép với trang thông tin điện tử tổng hợp có thể
được cấp cho doanh nghiệp hay các cơ quan, tổ chức, trong đó có cơ quan báo chí.
Trang thông tin điện tử tổng hợp không được phép tự sản xuất nội dung thông tin và
đưa lên trang của mình như cơ quan báo chí mà phải lấy lại thông tin từ tờ báo hoặc
các trang web khác (phải có thỏa thuận về bản quyền). Như vậy một tờ báo giấy nếu
chỉ có thêm giấy phép làm trang thông tin điện tử thì chỉ được đăng lại tin bài của tờ
báo đó chứ không tự sản xuất tin bài cho trang thông tin điện tử này.
Quy trình xuất bản của báo điện tử cũng khác với các loại hình báo chí khác.
Ở báo in, tất cả tin bài, ảnh đều được Tổng biên tập duyệt trước khi in và phát hành.
Quy trình xuất bản ở báo điện tử lại được giao cho nhiều người trên cơ sở quyết
định phân công, giao quyền của Tổng biên tập. Trên một nền tảng công nghệ hiện
đại về truyền dẫn, báo điện tử cho phép đưa tin tức bài, ảnh lên giao diện của báo từ
khắp mọi nơi, không phân biệt không gian, thời gian. Bộ máy của một tòa soạn báo
điện tử được coi là “tinh nhuệ” hơn báo in với sự phối hợp của các cán bộ, nhân
viên, phóng viên được đào tạo bài bản, nhạy cảm về chính trị, văn hóa, xã hội [18].
Từ những tìm hiểu trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về báo điện tử: "Báo điện
tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang web và phát
hành dựa trên nền tảng internet, được thành lập bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, có tổ chức bộ máy (tòa soạn), quy trình xuất bản tin, bài được giao cho nhiều
người trên cơ sở quyết định phân công, giao quyền của Tổng biên tập".
1.1.1.2. Đặc điểm của báo điện tử
Thứ nhất, thông tin trên báo điện tử được cập nhật nhanh chóng thuận tiện
Trong thế kỷ XXI, con người đang sống trong thời đại bùng nổ về công nghệ
thông tin. Việc sử dụng các thành quả nghiên cứu về công nghệ thông tin được áp
dụng trên tất cả các lĩnh vực phục vụ đời sống của con người. Không thể phủ nhận,
công nghệ thông tin đã đem đến cho chúng ta một cuộc sống hiện đại, năng động
hơn, góp phần phát triển kinh tế xã hội, mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế một
8
cách dễ dàng. Một trong những thành tựu quan trọng của nhân loại đó là internet.
Internet mở ra khả năng và điều kiện cho con người tiếp cận trực tiếp các nguồn
thông tin. Có nghĩa là thông tin ngay từ nguồn sẽ đi thẳng đến người khai thác mà
không qua trung gian nào, hiện tượng nhiễu sẽ giảm đi. Điều này dẫn đến một sự
chuyển hướng quan trọng trong mối quan hệ giữa các nguồn tin, các phương tiện
thông tin và công chúng. Trong mối quan hệ này, báo điện tử giữ vai trò trung gian,
họ thu thập thông tin từ nguồn để lựa chọn và truyền đi cho xã hội. Với internet, quá
trình truyền thông tin tức được thực hiện ngay tức khắc trên phạm vi toàn cầu.
Trước một sự việc, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, với báo chí in, tòa soạn phải
đưa vào các số và phát hành vào những thời điểm đã được ấn định trước (kỳ).
Nhưng đối với báo điện tử, ngay sau khi các sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời
sống xã hội, tòa soạn báo điện tử có thể cập nhật, xử lý và đăng tải cho công chúng
mà không cần phải chờ kỳ xuất bản, phát hành như báo chí in. Do đó, thông tin trên
báo điện tử được cập nhật một cách nhanh chóng, kịp thời. Báo điện tử còn có một
điểm thuận lợi hơn các loại hình báo chí khác, đó là dung lượng đăng tải. Với báo
in, việc đăng tải tin, bài còn phụ thuộc vào số lượng trang báo đã được quy định
trong giấy phép xuất bản. Với báo hình, dung lượng tin, bài còn bị giới hạn về mặt
thời gian phát sóng. Trong khi đó, báo điện tử có thể đăng tải nội dung phản ánh sự
vật, hiện tượng một cách cụ thể, rõ dàng. Tuy nhiên, những thông tin trên báo điện
tử thường được đăng tải nhanh chóng, ngắn gọn để bạn đọc truy cập, nắm bắt.
Thứ hai, báo điện tử hoạt động trên môi trường mạng (internet)
Đây là một trong những đặc điểm khác biệt quan trọng của báo điện tử so với
các loại hình báo chí khác, là một thuận lợi nhưng cũng là khó khăn đối với các
trang báo điện tử. Với một tòa soạn báo hoạt động bình thường, tin bài vẫn được
cập nhật thường xuyên nhưng không có môi trường mạng ổn định thì báo điện tử
cũng không hoạt động được (ví dụ như trường hợp bị đứt cáp quang trên biển, bị
hachker tấn công...). Do vây, sự tồn tại hay không tồn tại những hoạt động của báo
điện tử bên cạnh sự hoạt động của tòa soạn, sự cấp phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền còn phụ thuộc vào công nghệ thông tin, đó là internet. Thêm vào đó, để
9
truy cập báo điện tử, độc giả phải có máy tính, điện thoại di động hay máy tính bảng
có kết nối internet. Do đó, báo điện tử phục vụ đối tượng độc giả hiểu biết nhất định
về công nghệ thông tin.
Thứ ba, báo điện tử có phạm vi truyền tải thông tin rộng lớn
Trong nền báo chí Việt Nam, báo điện tử tuy ra đời sau những loại hình báo
chí khác nhưng đã nhanh chóng phát triển về số lượng, chất lượng và ngày càng
khẳng định được vị trí của mình trong đời sống báo chí, đời sống xã hội của đất
nước. Ở bất kỳ nơi đâu chỉ cần một chiếc máy tính, một chiếc điện thoại hay máy
tính bảng có kết nối internet là mọi người có thể thỏa sức tìm kiếm các thông tin
trên báo mạng điện tử ở tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
và nó cho phép mọi người trên thế giới tiếp cận và đọc không bị phụ thuộc vào
không gian và thời gian. Bên cạnh đó, báo điện tử có sự tổng hợp của công nghệ đa
phương tiện, nghĩa là không chỉ văn bản, hình ảnh mà cả âm thanh, video và các
chương trình tương tác khác. Báo điện tử không bị giới hạn bởi khuôn khổ, số trang,
không bị phụ thuộc vào khoảng cách địa lý nên báo mạng điện tử có khả năng
truyền tải thông tin đi khắp toàn cầu với số lượng không giới hạn. Thông tin từ khi
thu nhận đến khi phát hành đều được diễn ra rất nhanh chóng, với những thao tác
hết sức đơn giản nên báo mạng điện tử có thể tức thời và phi định kỳ, bất kỳ lúc nào
bạn đọc cũng có thể truy cập vào báo điện tử.
Hiện nay, báo điện tử chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc thiết lập các diễn
đàn, các cuộc giao lưu, bàn tròn, phỏng vấn trực tuyến… nhằm tăng mối quan hệ
giữa tòa soạn với độc giả, độc giả với nhau, tạo cơ hội cho độc giả có thể giao lưu,
trao đổi với nhân vật mình quan tâm, yêu thích. Có thể nói báo điện tử là một thư
viện đúng nghĩa, người đọc không chỉ xem các tin, bài hiện tại, mà còn đọc được
những tin, bài trong quá khứ. Thuận tiện hơn, nó còn cung cấp cho người đọc một
công cụ tìm kiếm thông tin khoa học và hiệu quả. Với những ưu thế không thể phủ
nhận, báo mạng điện tử đang trở thành kênh truyền thông được nhiều người lựa
chọn. So với các loại hình báo chí khác, báo điện tử có phạm vi truyền tải thông tin
10
rộng lớn. Chỉ cần có mạng internet, độc giả ở khắp nơi trên thế giới có thể truy cập
và cập nhật thông tin từ các trang báo điện tử một cách nhanh chóng, thuận tiện.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quảng cáo
1.1.2.1. Khái niệm quảng cáo
Trong nền kinh tế thị trường, cá nhân, tổ chức được tự do kinh doanh, buôn
bán, sản xuất, cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, do vậy, với cùng một loại
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhưng có nhiều người, nhiều đơn vị cung cấp khác
nhau. Vì vậy, người tiêu dùng phải tìm hiểu, nghiên cứu để tìm được sản phẩm, dịch
vụ tốt nhất và phù hợp nhất với nhu cầu của từng cá nhân, tổ chức. Việc tìm hiểu
này có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau nhu tự nghiên cứu sản
phẩm, dịch vụ, tìm hiểu qua bạn bè, người thân, qua các phương tiện thông tin đại
chúng... Nắm bắt được điều này, các nhà sản xuất, các cá nhân, tổ chức cung cấp
sản phẩm, dịch vụ tiến hành các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm của mình
tới người tiêu dùng. Việc quảng bá sản phẩm này có thể được thực hiện bằng nhiều
cách như giới thiệu trực tiếp với khách hàng có nhu cầu, phát tờ rơi, giới thiệu sản
phẩm, dịch vụ trên các phương tiện thông tin đại chúng... chúng ta thường gọi là
hoạt động quảng cáo. Người tiến hành việc quảng cáo phải trả cho bên thứ ba (cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp...) một khoản phí để bên thứ ba tiến hành các hoạt
động quảng bá sản phẩm, dịch vụ... của bên cung cấp tới người tiêu dùng.
Mục đích của hoạt động quảng cáo là nhằm tăng cường sự nhận thức của
người tiêu dùng về sản phẩm, giúp người tiêu dùng có thể lựa chọn được sản phẩm
thích hợp và đó cũng là cách mà nhà sản xuất quảng bá sản phẩm. Trong hoạt động
quảng cáo thương mại, các nhà sản xuất thường sử dụng ngôn từ phóng đại để kích
thích thị hiếu của người tiêu dùng như: đệ nhất, tuyệt vời, tuyệt hảo,... cho các sản
phẩm của mình. Nó tạo nên sự thay đổi nhanh chóng các nhu cầu tiêu dùng, dẫn đến
hình thành lối sống tiêu dùng. Nhu cầu quảng cáo trong hoạt động kinh doanh, hàng
hóa, dịch vụ là không thể thiếu bởi lẽ người tiêu dùng cần biết thông tin hàng hóa,
dịch vụ, thông tin về doanh nghiệp thì mới quyết định được việc mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ. Mặt khác, cũng nhờ quảng cáo mà doanh nghiệp mới thông tin được
11
tới người tiêu dùng những ưu điểm về chất lượng, giá, độ tin cậy của hàng hóa, dịch
vụ. Nhờ vậy, quảng cáo đã được biết đến từ rất sớm và hình thành nhiều khái niệm
khác nhau. Tại Việt Nam, dưới góc độ ngôn ngữ học thì: “Quảng cáo là trình bày để
giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm tranh thủ được nhiều khách hàng”.
Dưới góc độ kinh tế thì: “Quảng cáo thực tế chỉ là sự truyền đạt thông tin sản phẩm
đến cho khách hàng”. Trên thế giới cũng có nhiều khái niệm, theo khái niệm của
Hiệp hội Tiêu thụ Quốc doanh Mỹ thì: “Quảng cáo là một hành vi truyền đạt thông
tin đại chúng và tiêu tiền. Mục đích của nó là truyền đạt thông tin, thu hút sự chú ý
của người tiêu dùng qua đối tác người làm quảng cáo” và theo Từ điển luật học
Black’s Law thì quảng cáo là “hoạt động thu hút sự chú ý của công chúng đến một
thứ nào đó để thúc đẩy việc mua bán nó” và “hoạt động kinh doanh đưa ra và lưu
hành những mẩu quảng cáo” [47].
Theo Điều 1 Nghị định số 194/1994/NĐ-CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ
về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ tại Việt Nam, thì “hoạt động quảng cáo bao
gồm việc giới thiệu và thông báo rộng rãi về: doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ, nhãn
hiệu hàng hoá, tên gọi, biểu tượng theo nhu cầu hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh - dịch vụ” [9]. Sự liệt kê này chưa chuẩn xác ở chỗ đã giới thiệu về hàng
hóa là đương nhiên giới thiệu về nhãn hiệu, biểu tượng, tên gọi hàng hóa, đã giới
thiệu về doanh nghiệp là đương nhiên giới thiệu về tên gọi, biểu tượng của doanh
nghiệp. Mặt khác, quy định này cũng chưa thể hiện được mục đích của quảng cáo
nhằm phân biệt quảng cáo với các hoạt động khác.
Khái niệm quảng cáo dưới góc độ pháp lý tại Việt Nam tiếp tục được đề cập
tại khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh Quảng cáo 2001: “Quảng cáo là giới thiệu đến người
tiêu dùng về hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục
đích sinh lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời” [10] khái niệm này có nội hàm
rộng hơn Nghị định số 194/1994/NĐ-CP nhưng vẫn chưa chính xác ở chỗ quảng
cáo không chỉ giới thiệu đến người tiêu dùng mà còn giới thiệu rộng rãi đến các đối
tượng khác trong xã hội và các khách hàng tiềm năng. Khái niệm quảng cáo cũng
được đề cập trong Luật Thương mại năm 2005 nhưng là khái niệm theo nghĩa hẹp,
12
chỉ bao gồm quảng cáo thương mại: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến
thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ của mình” (Điều 102 Luật Thương mại năm 2005) [37]. Khái
niệm này cũng giới hạn đối tượng xem quảng cáo là chỉ bao gồm khách hàng, bên
cạnh đó còn giới hạn cả đối tượng được quảng cáo là chỉ bao gồm hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ. Để khắc phục những thiếu sót trên, khoản 1 Điều 2 Luật
Quảng cáo năm 2013 giải thích: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm
giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản
phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu” [40]. Khái niệm quảng cáo này khá đầy đủ và
chính xác nhưng có vẻ như vẫn chưa thể hiện hết được mục đích của quảng cáo. Do
đó khái niệm quảng cáo có thể hiểu như sau: “Quảng cáo là hình thức tuyên truyền
được trả tiền nhằm giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng...
đến chủ thể mục tiêu về hoạt động, hàng hóa, dịch vụ của người quảng cáo nhằm
khuyến khích chủ thể mục tiêu tham gia hoạt động, sử dụng hàng hóa, dịch vụ được
quảng cáo”.
1.1.2.2. Đặc điểm của quảng cáo
Thứ nhất, quảng cáo là hình thức truyền thông phải trả tiền. Theo đó, bên
muốn sử dụng dịch vụ quảng cáo buộc phải bỏ ra một số tiền nhất định cho việc
truyền bá thông tin về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tổ chức tới công chúng;
Thứ hai, quảng cáo mang tính chất đơn phương. Tính đơn phương ở đây thể
hiện ở việc, chỉ có thông tin một chiều từ bên quảng cáo chứ hoàn toàn không có
thông tin từ bên nhận quảng cáo. Bên quảng cáo sẽ sử dụng các biện pháp quảng
cáo để đưa thông tin đến với người tiêu dùng. Nhưng người tiêu dùng – người nhận
thông tin quảng cáo thì không bắt buộc phải thể hiện bất cứ hành vi nào;
Thứ ba, quảng cáo không dành cho riêng cá nhân nào. Đối tượng mà quảng
cáo hướng tới là đông đảo mọi người. Vì mục đích mà quảng cáo muốn đạt được là
quảng bá sản phẩm đến càng nhiều đối tượng càng tốt, vì vậy, quảng cáo không giới
hạn dành riêng có bất cứ đối tượng nào. Chính vì việc không giới hạn như vậy, nên
13
- Xem thêm -