Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản trị tài chính trong các doanh nghiệp fdi tại việt nam t...

Tài liệu Quản trị tài chính trong các doanh nghiệp fdi tại việt nam t

.PDF
35
151
60

Mô tả:

Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ------------ ĐỀ TÀI 11: QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM GVHD LỚP MÔN NHÓM 5 : NGUYỄN THỊ LIÊN HOA : NH2 : TÀI CHÍNH QUỐC TẾ : ĐÀO THỊ MỸ LINH VŨ MẠNH TÙNG PHAN DUY THƯỢNG ĐINH QUỐC TUẤN NĂM 2008 1 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 LỜI MỞ ĐẦU  Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng khoa học – công nghệ diễn ra mạnh mẽ, sự di chuyển các nguồn lực giữa các quốc gia ngày càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia, đặc biệt đối với ở cac nước đang phát triển như Việt Nam. Một trong những nguồn lực lớn tham gia vào quá trình di chuyển này là đầu tư nước ngoài để hình thành trong mỗi nền kinh tế một khu vực mới – khu vực kinh tế có vốn dầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy, quốc gia nào thu hút được nhiều nguồn vốn quốc tế và sử dụng có hiệu quả thì có nhiều cơ hội tăng trưởng kinh tế hơn, qua đó rút ngắn nhanh hơn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triền. Chính vì vậy các nước đang phát triển phải cạnh tranh trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.  Ở nước ta, từ khi đổi mới (tháng 12-1986) đến nay, cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước đã ban hành “Luật Đầu tư nước ngoài” (tháng 12-1987) và sau đó hàng loạt văn bản được ban hành để thu hút va sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Nhờ đó, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã tang lên và có tác động tích cực vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Đại hội IX (năm 2001) của Đảng ta khẳng định, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế. Trong thời gian qua, doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài đã thể hiện vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế Việt Nam, góp phần tích cự vào việc thúc đẩy phát triển công nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu, thu hẹp khoảng cách về trình độ kinh tế của nước ta với các nước trong khu vực, nâng dần vị thế chính trị và kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế.  Tuy nhiên, để phát triển và sử dụng có hiệu quả kinh tế có vốnb đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn FDI, thì chúng ta cần phải nổ lực về nhiều phương diện.  Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứ về vấn đề quản trị tài chính trong các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, trong đó chúng ta sẽ chú trọng tìm hiểu về các chính sách của Nhà nước tác động lên các doanh nghiệp FDI như thế nào trong quá trình quản trị điều hành và sử dụng vốn để đầu tư dự án, các nguồn tài trợ, cơ cấu nguồn vốn đầu tư. . . 2 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 Từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp trong nước và đưa ra các giải pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI hoạt động hiệu quả để góp phần vào quá trình phát triển chung của cả nước. 3 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỂ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP I. Khái niệm Quản trị tài chính là một môn khoa học quản trị, nó nghiên cứu các mối quan hệ tài chính của một doanh nghiệp, trên cơ sở đó đưa ra các quyết định nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích của chủ sở. II. Vai trò của quản trị tài chính trong doanh nghiệp 1) Vai trò quản trị tài chính doanh nghiệp Quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò to lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, tài chính doanh nghiệp giữ những vai trò chủ yếu sau:  Huy động và đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động vốn từ bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và có hiệu quả với phí huy động vốn ở mức thấp nhất.  T ổ chức sử dụng vốn k inh doanh tiết k iệm và hiệu quả Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vào việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của các dự án 4 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 đầu tư từ đó góp phần lựa chọn dự án đầu tư tối ưu. Việc huy động vốn kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Mặt khác việc huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể giảm bớt và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được các khoản tiền trả lãi vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng phạt vật chất một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy người lao động gắm bó với doanh nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động,cải tiến kỹ thuật , nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.  Giám sát, k iểm tra thường xuyên, chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính, lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá tổng hợp và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện được kịp thời những tồn tại hay khó khăn vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các quyết định để điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh. 2) Vai trò quản trị tài chính tại một số quốc gia trên thế giới Ở nhiều nước như Mỹ và châu Âu, trong các công ty, tập đoàn kinh tế lớn như General Motor, Micros oft, Apple, Vodaphone,... quản trị tài chính được tách rời đối với công tác kế toán thống kê. Tại các hãng này, quản trị tài chính là tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về tài chính và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Bộ phận quản trị tài chính trong các doanh nghiệp Mỹ và châu Âu dựa vào các báo cáo kế toán, báo cáo doanh thu, chi phí, báo cáo nhân sự và tiền lượng,... do các bộ phận kế toán tài chính, kế toán quản trị, thống kê cung cấp, kết hợp với những yếu tố khách quan để tiến hành phân loại, tổng, hợp, phân tích và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, so sánh kế quả phân loại của kỳ này với kỳ trước của doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp cùng ngành, lĩnh vực sản xuất, so sánh với các chuẩn mực của ngành. Bằng các chỉ tiêu và sự nhạy bén mà bộ phận quản trị tài chính có thể chỉ ra những mặt mạnh cũng như những thiếu sót của doanh nghiệp trong kỳ. Ngoài ra, bộ 5 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 phận quản trị tài chính còn giúp giám đốc hoạch định chiến lược tài chính ngắn và dài hạn của doanh nghiệp dựa trên sự đánh giá tổng quát cũng như từng khía cạnh cụ thể các nhân tố tài chính có ảnh hưởng quan trọng tới sự tồn tại của doanh nghiệp, bao gồm: chiến lược tham gia vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán; xác định chiến lược tài chính cho các chương trình, các dự án của doanh nghiệp là mở rộng hay thu hẹp sản xuất... Thông qua đó, đánh giá, dự đoán có hiệu quả các dự án đầu tư, các hoạt động liên doanh liên kết, phát hiện âm mưu thôn tính doanh nghiệp của các đối tác cạnh tranh; đề xuất phương án chia tách hay sáp nhập... Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn có những biến động nhất định trong từng thời kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính là xem xét, lựa chọn cơ cấu vốn sử dụng sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất:  Quản trị tài chính trong doanh nghiệp phải tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu nguồn vốn huy động tối ưu cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ.  Quản trị tài chính phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận một cách hợp lý đối với doanh nghiệp, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ doanh nghiệp và các cổ đông, vừa đảm bảo được lợi ích hợp pháp, hợp lý cho người lao động; xác định phần lợi nhuận để lại từ sự phân phối này là nguồn quan trọng cho phép doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh mới, sản phẩm mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng cao và bền vững.  Quản trị tài chính trong doanh nghiệp còn có nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng cả các tài sản trong doanh nghiệp, tránh tình trạng sử dụng lãng phí, sai mục đích. Có thể nói, nhiệm vụ của bộ phận quản trị tài chính, bộ não của doanh nghiệp, rộng hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với bộ phận kế toán - thống kê. Người đứng đầu bộ phận quan trọng này được gọi là giám đốc tài chính (CFO). Trong các tập đoàn kinh tế đa quốc gia trên thế giới, giám đốc tài chính chịu trách nhiệm toàn bộ về mặt tài chính kế toán trước tổng giám đốc và quản trị tài chính là bộ phận chức năng quan trọng nhất trong các bộ phận chức năng của doanh nghiệp. 6 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 CHƯƠNG II:QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM I. QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, tại Việt Nam rất nhiều công ty được thành lập có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, trừ một số doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài còn lại đại đa số các doanh nghiệp đều chưa hình thành bộ phận quản trị tài chính và chức danh giám đốc tài chính. Trong nhiều doanh nghiệp, những nhiệm vụ, chức năng của giám đốc tài chính và bộ phận quản trị tài chính đã mặc nhiên giao cho một phó giám đốc và kế toán trưởng làm thay. Thế nhưng, trớ trêu thay, theo Điều lệ kế toán trưởng các doanh nghiệp quốc doanh còn đang có hiệu lực, kế toán trưởng lại không có những chức năng nhiệm vụ của giám đốc tài chính. Thậm chí, trong luật kế toán cũng vậy. Do đó, có khá nhiều việc kế toán trưởng làm cũng không được mà không làm cũng ... vô can. Sự “làm thay tự nguyện” này chính là một trong những nguyên nhân tạo ra một “khoảng trống về quản trị tài chính” trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là sự nhầm lẫn chức năng giữa bộ phận kế toán và bộ phận tài chính doanh nghiệp, không chỉ có trong nhận thức của các chủ doanh nghiệp mà cả trong tư duy của không ít nhà làm luật. Chẳng hạn, cho đến nay, trong hệ thống văn bản pháp quy về kế toán chưa có một văn bản nào quy định về giám đốc tài chính. Trong một số công ty liên doanh, khi tồn tại song song hai chức danh giám đốc tài chính và kế toán trưởng, nếu giám đốc tài chính là người nước ngoài và kế toán trưởng là người Việt Nam thì thông thường kế toán trưởng chỉ tồn tại trên hình thức. Như vậy, có thể nói để có thể phát triển, tình hình tài chính ổn định thì các doanh nghiệp cần:  Phân định rõ ràng chức năng của giám đốc tài chính và kế toán trưởng như là một bộ phận quản trị tài chính và bộ phận kế toán trong doanh nghiệp;  Tổ chức bộ phận quản trị tài chính doanh nghiệp do giám đốc tài chính đứng đầu theo một cơ cấu thống nhất giữa các doanh nghiệp;  Có sự phối hợp chặt chẽ hơn mối quan hệ mật thiết giữa bộ phận quản trị tài chính doanh nghiệp với các phòng ban chức năng khác, đặc biệt là tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa bộ 7 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 phận quản trị tài chính, giám đốc tài chính với giám đốc, tổng giám đốc hay hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Đó là những việc làm cấp thiết giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhanh hơn, tăng thêm khả năng hội nhập kinh tế thế giới. Một doanh nghiệp phát triển và thành công trong kinh doanh bao giờ cũng phải đi kèm với tình hình tài chính vững mạnh và hiệu quả. II. QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP FDI 1. Quản trị tài chính tại các doanh nghiệp FDI a. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước  Thuế Thuế là một công cụ được nhà nước sử dụng để điều tiết nền kinh tế. Nó có tác dụng trực tiếp đến các doanh nghiệp và sự phát triển giữa các lãnh vực, các vùng kinh tế. Ngòai ra, thuế còn là công cụ điều tiết tái phân phối thu nhập và bảo hộ nên kinh tế trong nước. Riêng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai trước đây đã phải gánh chịu sự phân biệt thuế so với các doanh nghiệp trong nước. Để hiểu rõ hơn về chính sách thuế của nhà nước Việt nam đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai, chúng ta khái quát về chính sách thuế của nhà nước trong thời gian qua và lộ trình cải cách thuế sắp tới.  Sự phân biệt thuế đối với các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước: Thuế thu nhập doanh nghiệp: trước đây các doanh nghiệp FDI phải chịu sự phân biệt về thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 50% so với 35% của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, hiện nay đã không còn sự phân biệt về khoản thuế này khi mà tất cả các doanh nghiệp đều chịu mức thuế 28%. Thuế chuyển lợi nhuận về nước: trước đây thuế chuyển lợi nhuận về nước của doanh nghiệp FDI và bản thân người lao động nước ngòai công tác tại Việt nam khi chuyển lợi nhuận về nước phải chịu mức thuế 10%. Tuy nhiên, hiện nay chính phủ đã bãi bỏ sắc thuế này. Nhìn chung hiện nay đã không còn có sự phân biệt về thuế giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. 8 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05  Lộ trình cải cách thuế: sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Việt nam sẽ tiến hành các chương trình hoàn thiện chế độ, chính sách thuế đối với các doanh nghiệp FDI, cụ thể như sau: + Đối với Luật thuế GTGT, dự kiến sẽ sửa đổi bổ sung thêm đối tượng chịu thuế là hàng hoá, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và giảm bớt nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. Thuế suất thuế GTGT sẽ được xem xét bỏ dần một số mức thuế suất tiến tới chỉ có một mức thuế suất. Chỉ áp dụng khấu trừ đối với hoá đơn GTGT mua vào có ghi rõ số thuế GTGT. + Đối với Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, do sẽ có bổ sung thêm đối tượng chịu thuế GTGT vốn đến nay chỉ là đối tượng chịu thuế TTĐB nên thuế suất thuế TTĐB sẽ được giảm phù hợp với việc đánh thuế GTGT vào mặt hàng trước đó chỉ chịu thuế TTĐB. + Về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, sẽ nghiên cứu và áp dụng thí điểm về thuế tuyệt đối và hạn ngạch thuế quan; việc áp dụng giá tính thuế - tối thiểu sẽ được xem xét bãi bỏ để chuyển sang thực hiện giá tính thuế nhập khẩu theo Hiệp định giá trị hải quan của GATT. + Về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế suất và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ từng bước được thống nhất thành một mức giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.  Nhập khẩu: Trước đây, các doanh nghiệp FDI không được phép nhập khẩu hàng hóa từ nước ngòai về bán lại trong nước, ngoại trừ máy móc thiết bị, nguyên vật liêu phục vụ cho họat động sản suất của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, từ lâu doanh nghiệp FDI kinh doanh tại Việt Nam vẫn có quyền nhập khẩu hàng hóa, nhưng chỉ với mục đích trang bị cho doanh nghiệp hoặc bán thử nghiệm, chứ không được phân phối ở nội địa. Hiện nay theo cam kết của Việt nam về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, ngay thời điểm trở thành thành viên thứ 150, doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam được hưởng quyền nhập khẩu 100%. Đến 1/1/2009, khối FDI được hưởng mọi chính sách, quyền lợi, kinh doanh như doanh nghiệp trong nước, không phân biệt đối xử. Hiện nay tại Việt nam, một số các nhà phân phối lớn như: Metro, Bic C, Parkson đã được hưởng trọn vẹn quyền lợi này. 9 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 b. Chính sách giá: Hiện nay, các doanh nghiệp FDI vẫn phải chịu sự phân biệt về giá cả nguyên liệu đầu vào đối với một số mặt hàng như:  Giá bán điện cho sản xuất trong nước là 1.400 đ/kwh, cho doanh nghiệp FDI là 1.710 đ/kwh - chênh lệch 15,6%.  Giá vé máy bay HN-HCM: cho hành khách trong nước là 1,2 tr. đồng/lượt, người nước ngoài là 1,8 tr. đồng/lượt.  Giá dịch vụ cảng biển: Tàu Việt nam chở hàng hoá xuất nhập khẩu được giảm 40% phí trọng tải, phí bảo đảm hàng hải, phí hoa tiêu. 2. Phân tích khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp FDI trên thị trường tài chính Việt nam Mục đích của quản trị tài chính là tìm kiếm nguồn tài trợ cho các khoản vốn ngắn hạn tạm thời thiếu hụt và nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp nhất. Ngòai ra, quản trị tài chính còn nhằm mục đích tìm kiếm các cơ hội đầu tư cho các nguồn vốn tạm thời dư thừa trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp FDI với những đặc điểm riêng của mình nên việc tiếp cận với các nguồn vốn trong nền kinh tế Việt nam cũng có những khó khăn riêng của mình so với các doanh nghiệp khác. Sau đây là những phân tích về khả năng huy động vốn của doanh nghiệp FDI trên các kênh huy động vốn của thị trường tài chính Việt nam. a. Doanh nghiệp FDI với TTCK:  Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt nam Năm Tổng KLGD Tổng ( CP) (1.000 đồng) 2000 3,641,000 90,214,760 2001 19,028,200 946,019,653 GT GD 2002 10 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 35,028,200 959,329,653 2003 28,074,150 502,022,234 2004 76,393,008 2,003,868,457 2005 141,383,180 3,304,742,639 2006 738,814,685 42,092,408,962 2007 2,620,574,731 269,154,980,694 Nguồn: Công ty chứng khoán Kim Long (http://www.kls.vn/Upload/Documents /Tong%20ket%20TTCK%20nam%202007.pdf) Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao trong những năm gần đây, thị trường chứng khóan Việt nam trong thời gian qua nổi nên như là một trong những kênh huy động vốn hiệu quả. Bằng chứng là tuy mới ra đời được 5 năm và thật sự bùng nổ khoản 2 năm gần đây nhưng tổng số lượng giao dịch trên TTCK vào khoảng 269 ngàn tỷ vào năm 2007. Trải qua nhiều thăng trằm, vẫn đạt mức tăng trưởng vượt bậc với giá trị vốn hóa đạt 43,7% GDP-một con số không nhỏ so với một thị trường còn non trẻ như Việt nam.  Lợi ích từ việc huy động vốn trên TTCK  Quản bá thương hiệu: thị trường chứng khóan là kênh quảng bá thương hiệu rất tốt. Khi tham gia thị trường chứng khoán, hình ảnh và tên tuổi công ty sẽ được xuất hiện thường xuyên trên các bản tin tài chính của báo đài, đặc biệt là những công ty làm ăn hiệu quả có khối lượng giao dịch lớn và tăng trưởng đều đặn. Đây được xem như một sự quảng cáo miễn phí cho doanh nghiệp. Đối với người tiêu dùng, việc công ty được niêm yết trên TTCK s ẽ mặc nhiên được xem là một công ty tốt, làm ăn có hiệu quả vì để được niêm yết trên thị trường công ty phải đáp ứng một số điều kiện nhất định trong đó có chỉ tiêu lợi nhuận.  Minh bạch hóa tình hình tài chính: tham gia TTCK, các công ty phải thường xuyên cung cấp báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Ngoài ra, ban lãnh đạo công ty dưới sức ép của 11 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 hội đồng quản trị phải luôn cố gắng nâng cao hiệu quả họat động của công ty để đánh bóng hình ảnh công ty.  Là kênh huy động vốn hiệu quả: nguồn vốn huy động được từ TTCK được xem là nguồn vốn tự có của công ty và do đó công ty không bị đặt dưới sức ép trả nợ như việc huy động từ các thị trường khác. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cho thấy chi phí từ việc huy động vốn trên TTCK rẻ hơn so với các thị trường khác như TTNH hay không?.  Thực trạng tài trợ vốn của các doanh nghiệp FDI trên TTCK Việt nam Mặc dù là kênh huy động vốn hiệu quả và phổ biến, tuy nhiên, TTCK hiện nay vẫn chưa phải là sân chơi cho các công ty FDI vì mới chỉ có khoảng 5 doanh nghiệp trên tổng số gần 200 doanh nghiệp đang niêm yết trên TTCK.Việc cổ phần hóa và niêm yết trên TTCK đối với một công ty FDI đã và đang gặp phải một số vướng mắc như:  Vướng mắc lớn nhất đối với các doanh nghiệp trên con đường tiến tới TTCK là việc định giá giá trị doanh nghiệp đặc biệt là phần định giá tài sản bất động sản vì đa số các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp thuê đất để đầu tư.  Các quy trình thủ tục để cổ phần hóa một doanh nghiệp còn rất rườm rà mất thời gian đã làm nản lòng các nhà doanh nghiệp. Theo nghị định số 101/2006/NĐ-CP thì một doanh nghiệp FDI muốn cổ phần hóa thì phải đăng ký lại theo luật doanh nghiệp và sau đó chuyển sang công ty cổ phần, công ty đại chúng. Tuy nhiên, cho đến nay vì nhiều nguyên nhân mới chỉ có 1% số doanh nghiệp FDI đăng ký lại theo luật doanh nghiệp.  Một điểm hạn chế nữa của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp trong nước là việc hạn chế số cổ phiếu phát hành ra công chúng. Theo văn bản hướng dẫn niêm yết và đăng ký giao dịch vừa được UBCKNN ban hành thì một doanh nghiệp FDI chỉ được niêm yết một lượng cổ phiếu phát hành ra công chúng (chứ không phải toàn bộ vốn điều lệ) và tỷ lệ tham gia của bên nước ngòai trên TTCK tối đa bằng 30% tổng số cổ phiếu được niêm yết. Chính vì lượng niêm yết hạn chế trong khi nhu cầu mua cổ phiếu của doanh nghiệp FDI là khá cao trong giới đầu tư, nên có thể sẽ dẫn đến tình trạng giá cổ phiếu bị thổi phồng lên thành giá ảo. 12 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05  Một nguyên nhân không kém phần quan trọng khác khiến cho nhiều doanh nghiệp FDI chưa mặn mà với việc cổ phần và niêm yết trên TTCK đó là việc “vạch áo cho người xem lưng”. Các doanh nghiệp FDI thường chịu sự chi phối của công ty mẹ ở nước ngoài nên sử dụng nhiều thủ thuật kế toán khác nhau để có thể mang lại lợi ích cao nhất cho họ nên việc lên sàn có thể sẽ bị phát hiện. Ngòai ra, doanh nghiệp FDI khi đầu tư tại Việt nam cũng đã mang tới nhiều bí quyết kinh doanh, do đó họ không muốn để lộ ra công chúng cũng như các đối thủ cạnh tranh.  Hạn chế doanh nghiệp FDI được cổ phần và niêm yết trên TTCK của Bộ Kế họach-Đầu tư và Bộ Tài Chính. Theo đó, một số doanh nghiệp FDI chưa được xét cổ phần hóa là: nhà đầu tư nước ngòai có cam kết chuyển giao không bồi hoàn cho phía Việt nam; doanh nghiệp họat động kinh doanh hạ tầng công nghiệp, khu chế xuất, xây nhà để bán hoặc cho thuê thu tiền trước; các doanh nghiệp đầu tư theo hình thức BT, BOT, BTO; DN có quy mô vốn đầu tư ghi trên giấy phép trên 70 tr.USD hoặc dưới 1 tr.USD… Song, việc cổ phần hóa và tham gia vào TTCK sẽ là một xu thế tất yếu đối với các doanh nghiệp lớn có uy tín và định hướng làm ăn lâu dài tại Việt nam. Họ cũng biết được giá trị thực sự của mình trên thị trường, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu của họ. TTCK còn là một kênh huy động vốn hiệu quả, DN FDI có thể qua đó tìm gọi vốn cho các kế hoạch sản xuất - kinh doanh. Đến nay, các DN tham gia TTCK, không kể là vốn trong nước hay FDI, đều đã thu hút, huy động vốn khá hiệu quả từ các nhà đầu tư. Ngược lại, việc các doanh nghiệp FDI tham gia thị TTCK sẽ giúp thị trường trở lên sôi động hơn, các nhà đầu tư sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong danh mục đầu tư của mình. b. Doanh nghiệp FDI với thị trường tài chính -ngân hàng  Thị trường Ngân hàng: Là một kênh huy động vốn phổ biến nhất và có từ lâu đời. So với doanh nghiệp nhà nước được định giá đất vào tài sản doanh nghiệp, các doanh nghiệp FDI đa số là thuê đất nên không được tính vào giá trị doanh nghiệp. Ngòai ra, các doanh nghiệp FDI không được nhà nước đứng ra bảo lănh khi vay ngân hàng.  Thị trường cho thuê tài chính: Tổng quan về thị trường cho thuê tài chính (CTTC) 13 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 + Thị trường tài chính một số nước trên thế giới: tại Mỹ, ngành cho thuê tài chính chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động cho thuê tài chính trung bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỉ USD, ở Thái Lan 3 tỉ USD... Và tổng doanh thu hàng năm của ngành này trên toàn thế giới ước đạt trên 500 tỉ USD với đà tăng trưởng trung bình 7% hàng năm. + Thị trường tài chính Việt nam: xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1995, song hoạt động của các công ty CTTC trong thời gian qua đã phần nào làm giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc cung ứng vốn đối với các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Tính đến tháng 10/2006 đã có 11 công ty CTTC hoạt động tại Việt Nam Các công ty CTTC sau đây đang hoạt động tại Việt Nam: Công ty CTTC của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Công ty CTTC của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, 2 Công ty CTTC của Ngân hàng NN&PT NT Việt Nam, Công ty CTTC Kexim (100% vốn của Hàn Quốc), Công ty CTTC ANZ-VTRAC (100% vốn của Ngân hàng ANZ của Úc và tập đoàn V-TRAC của Mỹ), Công ty CTTC VILC (liên doanh giữa Ngân hàng công thương Việt Nam và đối tác nước ngoài). Hầu hết các Công ty CTTC đang hoạt động tại Việt Nam đều gặt hái nhiều thành công, lợi nhuận cao, tỷ lệ nợ quá hạn thấp trong tổng dư nợ, hoạt động CTTC tỏ ra là hình thức kinh doanh phù hợp trong việc tài trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp trong tình hình hiện tại của Việt Nam.  Lợi ích từ việc huy động vốn từ CTTC CTTC là một kênh huy động vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, khác với huy động vốn từ CTTC có những đặc trưng riêng khác với huy động vốn từ thị trường ngân hàng. Khi thực hiện tài trợ vốn từ các CTTC, doanh nghiệp sẽ có được những thuận lợi sau: + CTTC là phương thức tài trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn tại ngân hàng. Đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Trong thời hạn cho thuê tài chính thì tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên hình thức cấp tín dụng này đạt sự an toàn cao. Ngược lại, doanh nghiệp có nhiều thuận lợi khi thuê tài chính: bên CTTC xét thấy doanh nghiệp có dự án đầu tư hiệu quả, tình tình tài chính tốt thì doanh nghiệp chỉ cần đặt cọc hay ký cược thì sẽ được xét 14 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 duyệt thuê tài chính mà không cần tài s ản thế chấp hay cầm cố, với sự thuận như vậy nên thời gian qua hoạt động cho thuê tài chính đã tiếp cận rất nhiều với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ thông qua tài trợ vốn. + Thực hiện tài trợ vốn từ các công ty CTTC, doanh nghiệp sẽ tích kiệm được thời gian và công sức. Bên cho thuê đứng ra mua các loại động sản theo yêu cầu của doanh nghiệp và cho doanh nghiệp thuê lại trong thời gian nhất định theo thoả thuận. Trong thời hạn thuê, tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp thuê quyền sử dụng. Tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đi thuê khi đã thanh toán đủ nợ gốc, lãi tiền thuê và giá quyền chọn mua danh nghĩa. + Tích kiệm chi phí khi mua tài sản. Khi cần mua một dây truyền sản xuất, thông thường doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, đàm phán với đối thác và thuê bên thứ ba thẩm định chất lượng. Công việc này đòi hỏi mất nhiều thời gian, tiền bạc, công sức và nhân lực và đôi khi doanh nghiệp vẫn có thể mua phải hàng không đúng với chất lượng. Các CTTC với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của mình sẽ đứng ra đảm nhận toàn bộ công việc này và khi đó doanh nghiệp chỉ việc đem vào sử dụng.  Khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp FDI từ các công ty CTTC. CTTC là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất tốt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi cần vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp. Đó là một thị trường tiềm năng to lớn cho các công ty CTTC khai thác. Tuy là một kênh tài trợ vốn trung và dài hạn với nhiều ưu điểm nhưng việc tiếp cận nguồn vốn từ các CTTC hiện nay ở Việt nam vẫn chưa phổ biến và gặp nhiều khó khăn, trở ngại như: + Họat động cho thuê tài chính chưa mang tính phổ biến. Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại... Nguyên nhân là do mặc dù đã xuất hiện 10 năm trên thị trường Việt Nam 15 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 nhưng sự quảng bá, giới thiệu để cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực cho thuê tài chính còn hạn chế. + Giá cho thuê còn cao. Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Nguyên nhân là do ở Việt nam hiện nay số lượng các công ty CTTC hoạt động thật sự chuyên nghiệp còn rất ít, đa số các công ty hoạt động như là cánh tay trái của các Ngân hàng. Và chỉ khi nào các công ty hoạt động chuyên nghiệp thì mới giảm được chi phi cho vay thấp.  Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính.  Hoạt động của các công ty CTTC còn chưa hiệu quả. , trình độ của cán bộ kinh doanh trong các Công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp, không năng động trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn. mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân hàng thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm.  Sản phẩm cho vay chưa phong phú, đa dạng. quy định về đối tượng cho thuê tài chính tại Việt Nam chỉ bó hẹp trong động sản, đối với dây chuyền sản xuất lại yêu cầu tỷ lệ tham gia vốn lớn.  Các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam phần lớn còn yếu kém về năng lực sản xuất, trình độ quản lý, tính khả thi của dự án thiếu thuyết phục (do đa số là doanh nghiệp hộ gia 16 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 đình, tình hình tài chính không rõ ràng, doanh nghiệp mới thành lập...). Đây là thế yếu khi họ có nhu cầu tìm nguồn vốn cho dự án.  Tiếp cận vốn từ các nguồn khác Phát hành trái phiếu: Hiện nay, việc phát hành trái phiếu chủ yếu vẫn do chính phủ thực hiện đối với các loại trái phiếu như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị…Đối với trái phiếu doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc Chính phủ phát hành thay cho một số Tổng công ty nhà nước. Ví dụ, vừa qua chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế 750 tr.USD với lãi suất 7,125% để tài trợ cho các dự án lớn của Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việtnam (Vinashin). Tuy nhiên, hiện nay Bộ tài chính đã có đề án báo cáo chính phủ về chủ chương cho phép các doanh nghiệp được tiến hành phát hành trái phiếu quốc tế theo hai hướng: chính phủ vay về và cho doanh nghiệp vay lại hoặc doanh nghiệp phát hành dưới sự bảo lãnh của chính phủ. Bộ Tài chính khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện theo phương án hai. Việc phát hành trái phiếu cũng đồng nghĩa với việc vay nợ quốc tê, và do đó khi đi vay các doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc sau:  Khi đi vay thì tiêu chí hiệu quả là đầu tiên.  Không vay thương mại đối với những dự án không có khả năng hoàn trả trực tiếp.  Không vay ngắn hạn tài trợ cho những mục tiêu dài hạn. Hiện nay, mức nợ của Việt nam chỉ khoảng 31-32% GDP, trong khi đó, tiêu chí của Ngân hàng Thế giới là 50% GDP mới là mức nguy hiểm. Việc tiếp cận nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành trái phiếu đối với các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp FDI nói riêng vẫn còn rất hạn chế do:  Tình trạng tài chính của các doanh nghiệp chưa ổn định, vững chắc.  Việc kiểm toán còn nhiều yếu kém về minh bạch hóa thông tin đối với thị trường, đây là một yêu cầu rất quan trọng khi phát hành trái phiếu ra quốc tế.  Hầu hết các doanh nghiệp Việt nam đều chưa có đánh giá về hệ số tín nhiệm.  Các doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào Việt nam đã xác định trước mục tiêu, quy mô hoạt động và số vốn cần thiết. Đối với dự án của các tập đoàn kinh tế lớn, khi cần tăng vốn thì 17 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 đã có nhiều nguồn đặc biệt là sự tài trợ của công ty mẹ. Đối với các công ty liên doanh nhỏ thì hầu như không thể vì không đủ khả năng.  Quy trình thủ tục phức tạp, tốn nhiều thời gian. Ngòai ra, doanh nghiệp còn gặp phải sự quản lý chặt chẽ bởi chính sách quản lý ngoại hối của ngân hàng trung ương.  Các quỹ đầu tư Trên thị trường tài chính Việt nam vài năm trước đây đã đón nhận Quỹ đầu tư Dragon Capital, gần đây xuất hiện thêm hàng loạt các quỹ Mekong Capital, VinaCapital, VietFund... Đó là chưa kể cơ hội đón nhận sự tham gia của một số quỹ đầu tư quốc tế rất lớn khác nữa IDG (Mỹ), DEG (Đức)... Đây được xem là nguồn cung cấp vốn dài hạn cho doanh nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay. Tiếp cận với các nguồn vốn này dưới sự tư vấn chuyên nghiệp của các tổ chức tư vấn tài chính, doanh nghiệp có thể huy động được một khoản vay hoặc đầu tư dài hạn có quy mô từ vài trăm ngàn USD cho đến vài triệu USD với thời hạn thường kéo dài từ 4 đến 10 năm. Đối với đa số doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì đây là mức huy động phù hợp với năng lực và nhu cầu. Và một điều khá “dễ chịu” cho người cần vay vốn là đa số các quỹ đầu tư thực hiện việc cung cấp vốn thông qua hình thức đầu tư vốn cổ phần. Tuy nhiên, các nguồn đầu tư tài chính dài hạn thường đòi hỏi ở doanh nghiệp các phương án hoặc kế hoạch kinh doanh được lập một cách bài bản và chuyên nghiệp, hệ thống sổ sách rõ ràng, các báo cáo tài chính phải được một công ty kiểm toán có uy tín kiểm toán, hệ thống quản trị công ty có tiêu chuẩn cao, hiệu quả và minh bạch đồng thời có bộ máy quản lý có năng lực, hoạt động hiệu quả. Do đó, các doanh nghiệp FDI có hệ thống kế toán không minh bạch, được thực hiện có lợi cho phía nước ngoài khó có khả năng tiếp cận từ nguồn tài chính này.  Thị trường phái sinh: Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái s inh bắt đầu xuất hiện khoảng 5 năm trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn đang được thực hiện.Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang 18 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 tính thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi s uất đã có qui chế của NHNN ( Quyết định sso 1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui chế). Đồng thời số lượng các giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện( trong số đó có một số giao dịch đã chưa phát sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số TCTD đã được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện:  Ngân hàng Citibank thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005 đến 2/2006.  Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi s uất chéo giữa 2 đồng tiền chéo (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ;thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụnglãi s uất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến động của một số yếu tố thị trường , như tỷ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng hóa nào đó...  Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại VN được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các NH nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của NHĐT&PT. Tổng số là hợp đồng trong thời gian thí điểm không vượt quá 50% mức vốn tự có của NH. thời hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán đổi vào kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong thời gian hiệu lực của giao dịch  NHNT thực hiện giao dịch hoán đổi lãi s uất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là TCTD hoạt động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong nước và nước 19 Giảng viên: N guyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 05 ngoài, phù hợp với các qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về NHNT là quyền kết thúc trước hạn hợp đồng Swap đối với các khoản vay của BTC.  NH HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi s uất cộng dồn – Daily range accrual, thời hạn của hợp đồng hs bc_grp.jpgtối đa 5 năm. Theo thoả thuận hoán đổi này, khách hàng vay cuả HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch và tổng lãi suất phải trả này không vượt quá mức lãi s uất cao nhất đã được định trước. Đổi lại HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi s uất Sibor giao động trong một khoảng được định trước. Cụ thể, hợp đồng này thoả thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu đến ngày đáo hạn lãi s uất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4,5%/năm ) thì HSBC sẽ trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất (Sibor + 1,1% ). Trường hợp vượt mức lãi s uất định trước, thì HSBC không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại, khách hàng sẽ trả cho HSBC mức lãi s uất (Sibor + 0,6%), nhưng tối đa không vượt quá 5,1%/ năm; thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền  Thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/ VND): Đã cho phép thực hiện thí điểm NHTMCP Quốc tế,), ngân hàng NT (8/2005); NHTM cổ phần Á Châu, NHĐT&PT, NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội (12/2005).  NH Calyon, citibank, ABN-AMRO thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi s uất bắt đầu thực hiện trong tương lai (Forward Start Swap) là thoả thuận để tham gia giao dịch hoán đổi lãi suất vào một ngày cụ thể trong tương lai theo một mức lãi suất đã được định trước.  Cho phép NH TMCP kỹ thương thực hiện giao dich hợp đồng tương lai trên thị trương hàng hoá (9/2004);Vinasin thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ... Qua thống kê trên cho thấy, thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, tuy nhiên còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ lợi còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này. Sự kém phát triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan