Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học việt nam từ cách mạng tháng 8194...

Tài liệu Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học việt nam từ cách mạng tháng 81945 đến nay

.DOC
23
1629
93

Mô tả:

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ĐẾN NAY LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong thi pháp học. Mặc dù hiện nay, khái niệm này chưa được các nhà nghiên cứu định nghĩa một cách thống nhất và chặt chẽ, nhưng nó đã phần nào gợi mở cho chúng ta hướng đến đối tượng chủ yếu của văn học. Theo đó, “Văn học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm rất cụ thể” và “Hình tượng nghệ thuật một khi đã hình thành là mang tính chất quan niệm, ngay cả vô thức cũng là quan niệm về cái vô thức. Nhà văn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng”[4;23]. Có thể khẳng định, quan niệm chính là một phương tiện thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Do vậy, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung, chính là bước đi thiết thực để đến với chiều sâu của các tác phẩm, của các giai đoạn văn học. NỘI DUNG I. Quan niệm về con người trong văn học Macxim Gorki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do vậy, con người chính là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều nhằm mục đích miêu tả và thể hiện vào con người. Thực tế cho thấy, không có một tác phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên nhiên mà không liên quan đến 1 con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là nhằm hướng đến thể hiện con người. Ví dụ: Truyện cổ tích, thần thoại: miêu tả thần linh, ma quỷ, địa ngục, đồ vật...là nói đến cái hiện thực tồn tại trong đầu óc con người, góp phần thể hiện ước mơ, khát vọng con người. Ngay cả những nhân vật không thực, ví như trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Ngoài việc bóc trần hiện thực xã hội Trung Quốc hỗn loạn thời bấy giờ, tác giả còn thể hiện sự khái quát vềtriết lí làm người. Con người muốn đạt được thành công phải có đầy đủ sự kiên định như Đường Tăng, lanh lợi như Ngộ Không, cần cù như Sa Tăng và rất đời như Bát Giới. Hay với những dòng thơ viết về cảnh vật, thiên nhiên. Đó không phải là động tác phác thảo vài nét cơ bản vào không gian, mà là sự bộc lộ những tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình cũng như chủ thể tác giả giấu mặt. Bởi thế mới Voltaire khẳng định: "Thơ là âm nhạc của tâm hồn”. Tóm lại, trong văn học, yếu tố con người được nói đến như một điều tất yếu. Con người chính là nhân vật trung tâm của văn học. 2. Xác định khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ nói chung và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Cụ thể như sau: Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, 2 tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[5;15]. Tức, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vàophân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm. Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”. Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.” Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Từ đó, chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan niệm nghệ thuật về con người như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng. Như vậy, vì trung tâm của văn học là con người nên con người cũng chính là đối tượng thẫm mĩ thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc sống. Người sáng tác sẽ là người vận động, suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Bởi người ta không thể miêu tả và tạo nên 3 chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học nếu không hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Từ việc hướng đến xác định khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người, có thể khẳng định rằng: Chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh cũng như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động của con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm nghệ thuật của các tác giả về con người trong văn học. Nói cách khác, nếu bỏ qua quan niệm nghệ thuật về con người sẽ dẫn tới cách hiểu đơn giản về bản chất phản ánh của nghệ thuật, hạ thấp yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ của nghệ thuật. Cho nên, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là điều hết sức quan trọng. Cách mạng tháng Tám là biến cố lịch sử to lớn đã làm đổi thay sâu sắc đất nước và con người Việt Nam. Tháng Tám năm 1945 mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc ta, chấm dứt hàng ngàn năm chế độ phong kiến và giật tung xiềng xích hơn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp để bắt đầu kỉ nguyên độc lập và dân chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội của nước Việt Nam. Cách mạng tháng Tám cũng mở đầu một thời đại mới cho văn học dân tộc mà 30 năm, từ 1945 đến 1975 là giai đoạn đầu tiên. Những đổi mới của văn hóa Việt Nam giai đoạn này có thể nhận thấy trên rất nhiều bình diện và ở những cấp độ khác nhau. Nhưng ở trung tâm và chiều sâu của những biến đổi ấy là sự thay đổi trong quan niệm về con người, là sự hình thành và vận động của quan niệm nghệ thuật vồn con người. Quan niệm này mang tính thống nhất của cả nền văn học và trong suốt giai đoạn 1945 - 1975, nhưng cũng mang những nét đặc trưng riêng của từng thời kì nhỏ của sự phát triển văn học trong giai đoạn này, cụ thể là qua ba chặng đường: 1945 - 1954; 1954 - 1964 và 1964 - 1975. Sau 1975, quan niệm nghệ thuật về con người có sự đổi mới mạnh mẽ. 4 Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu quan niệm về con người trong từng chặng đường ấy và cố gắng chỉ ra những đặc điểm như là những nguyên tắc lớn của sự thể hiện con người trong văn học của từng chặng đường. II. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học từ 1945 1975: 1.Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 Cách mạng đã đem lại những biến đổi kỳ diệu cho con người Việt Nam. Đó không chỉ là người nô lệ thành người tự do của một nước Việt Nam độc lập, mà còn tập hợp, liên kết mọi con người trong một cộng đồng dân tộc, trong các đoàn thể, tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc và nhân dân, đặt mỗi con người vào trong cộng đồng, sống với đời sống chung của dân tộc và đất nước, trong dòng chảy xiết của lịch sử, thức tỉnh ở mỗi con người ý thức công dân và tinh thần dân tộc tiềm tàng. Nhà văn là một công dân đồng thời với sự nhạy cảm của người nghệ sĩ, đã cảm nhận được điều biến đổi lớn lao ấy. Cách mạng tháng Tám, rồi kháng chiến đã đem lại cho nhà văn sự phát hiện lớn lao: Phát hiện ra sức mạnh quật khởi của dân tộc và con người Việt Nam hiện ra trong một vẻ đẹp mới lạ của đời sống cộng đồng. Nguyễn Đình Thi viết: "Chúng ta đã tìm thấy bao trùm trên chúng ta, bao trùm làng xóm, gia đình chúng ta một cái gì lớn lao chung ấy là dân tộc" (Nhận đường: Tạp chí văn nghệ số 1/1948). Còn Hoài Thanh thì nhận thấy: Thực đẹp đẽ vô cùng cái quang cảnh của một dân tộc vươn mình đến ánh sáng, cảnh tưng bừng của cả dân tộc Việt Nam đang trỗi dậy. Tôi cảm thấy khắp nơi ở quanh tôi và trong lòng một cuộc tái sinh màu nhiệm: (T/c Tiên Phong số 2/1945) Văn học Việt Nam trong vài năm đầu sau cách mạng tháng Tám đã kịp ghi lại một số hình ảnh của cảnh tượng vĩ đại ấy: Trong thơ đó là Tố Hữu với Huế tháng tám và Vui bất tuyệt, là Xuân Diệu với Ngọn Quốc kỳ và Hội nghị non sông, Tình sông núi của Trần Mai Ninh v.v… Trong văn xuôi, đó là ở 5 chiến khu và ý nghĩ một sáng mùa thu của Nguyễn Huy Tưởng, là Rãnh cày nổi dậy của Mạnh Phú Tư, Dân khí miền trung của Hoài Thanh, Đường vô Nam của Nam Cao v.v… Trong sự thức nhận về sức mạnh của "cả một dân tộc vươn mình tới ánh sáng" phát hiện quan trọng nhất của văn học thời kỳ 1945 - 1975 là về Con người quần chúng. Cách mạng và kháng chiến đã đặt nhà văn trước một hiện thực lớn lao là cuộc đổi đời và sức mạnh vĩ đại của quần chúng nhân dân. quần chúng đã làm nên biến cố cách mạng và gánh vác cả cuộc kháng chiến. Hướng tới đại chúng, phục vụ đại chúng trở thành mục tiêu và phương hướng của nền văn nghệ kháng chiến. Khám phá và miêu tả những con người tiêu biểu của thời đại mình bao giờ cũng là khát vọng của các nhà văn chân chính ở mọi thời đại. lịch sử văn học các thời đại đều gắn liền với mẫu người tiêu biểu của thời đại ấy. Iohan Becher - nhà thơ và nhà hoạt động văn hóa của nước Đức - có nhận xét "Nghệ thuật không phải bắt đầu bằng những hình thức mới. Nền nghệ thuật mới ra đời cùng với con người mới. Nhưng để nói cho đầy đủ hơn thì ở chiều sâu của sự xuất hiện một kiểu người mới chính là sự hình thành quan niệm mới về con người và điều sau này mới là quyết định. ý thức về nhân vật trung tâm của nền văn học mới nảy nở rất sớm, ngay sau những ngày tưng bừng của cách mạng tháng Tám. Đầu năm 1946, khi phê bình vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi đã nhận xét: "Kịch Bắc Sơn đưa lên sân khấu những sự việc mới, những đám đông, những con người mới của cách mạng: người cán bộ, ông già nông dân khẳng khái, anh du kích, bà cụ có tấm lòng yêu nước trung thực. Đây là điều đáng chú ý nhất và cần nhấn mạnh" (T/c Tiên Phong số /1946) Trần Đăng trong truyện ngắn Một lần tới Thủ đô (1946) đã dứt khoát lựa chọn đối tượng mới của ngòi bút mình. Hình ảnh bốn chiến sĩ đi hàng một lối đi của người đi rừng " người đi sau dẫm lên dấu chân của người đi trước" 6 giữa đường phố Hà Nội một chiều tối, đối lập với mọi khng cảnh ồn ã và xa hoa của phố phường. Vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân vật quần chúng được xác định cụ thể hơn đó là Công nông binh. Quần chúng công nông binh là nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện của nền văn học kháng chiến. Hơn thế nữa quần chúng trở thành nguyên tắc xây dựng nghệ thuật và chuẩn mực đánh giá tác phẩm. tác phẩm phải biểu hiện lên được tư tưởng, tình cảm khát vọng của quần chúng, phải học cách nói, cách thể hiện của quần chúng. Sở thích và sự đánh giá của quần chúng là thước đo thành công và giá trị của tác phẩm nghệ thuật.Các nhà thơ hóa thân vào các vai quần chúng để bộc lộ tâm trạng, tình cảm, ao ước của họ và thay lời quần chúng để bộc lộ tâm trạng, tình cảm, ao ước của họ và thay lới quần chúng tự kể về mình. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều bài thơ được bắt đầu bằng lối "xưng danh", tự giới thiệu và khẳng định với tất cả lòng tự hào của quần chúng: "Em là con gái Bắc Giang", "Chúng ta đoàn áo vải"' "Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ" v.v… Trong truyện và ký những năm đầu kháng chiến cũng diễn ra quá trình chuyển biến theo hướng thống nhất giữa quan điểm trần thuật của tác giả và nhân vật quần chúng, giữa hình tượng tác giả - người kể chuyện và hình tượng quần chúng. Văn xuôi kháng chiến đã tìm thấy cách trần thuật từ quan điểm của chính nhân vật quần chúng. Các sáng tác từ khoảng giữa cuộc kháng chiến đã chuyển hẳn sang lối trần thuật khách quan từ điểm nhìn trần thuật của các nhân vật quần chúng, hình tượng tác giả - người trần thuật hầu như không tồn tại nữa, hoặc nếu có còn (chẳng hạn trong tập tùy bút Tình chiến dịch của Nguyễn Tuân), thì cũng cố gắng nhập vào chỗ đứng và tâm trạng của đám đông nhân vật quần chúng. Cái mới mẻ trong sự thể hiện con người quần chúng của văn học thời kỳ này trước hết là việc đưa vào trung tâm chú ý của văn học con người chính trị, con người công dân. Cách mạng và kháng chiến đã thức tỉnh ý thức công dân, 7 tinh thần yêu nước, ý thức giai cấp của quần chúng lôi cuốn, tập hợp đông đảo quần chúng vào trong cái tổ chức chính trị, các đoàn thể quần chúng xung quanh Đảng. Con người của gia đình, gia tộc, làng xóm đã thành con người của dân tộc, giai cấp cả đời sống cộng đồng. Từ em nhi đồng, chị phụ nữ, đến các cụ phụ lão đều được tập trung trong các đoàn thể của mình. Việc đưa lên hàng đầu con người chính trị, con người công dân đã khiến cho văn học thời kỳ này tập trung thể hiện những nét tâm lý chung của quần chúng như lòng yêu nước, căm thù giăc, tình nghĩa đồng bào, tình cảm tiền tuyến hậu phương, ý thức giai cấp, sự ham thích đời sống tập thể, sinh hoạt chính trị,…. Em nhỏ đi liên lạc thấy " vui lắm chú à, ở đồn Mang cá, thích hơn ở nhà" (Lượm Tố Hữu). Chị phụ nữ nông dân ý thức về trách nhiệm công dân của mình, hăng hái đi "phá đường" dù việc nhà bộn bề (Phá đường Tố Hữu). Anh thanh niên làng vác bó tre đi cản giới địch say sưa, đọc thuộc lòng bài "Ba giai đoạn" kháng chiến "Đôi mắt Nam Cao). Người nông dân phải xa làng đi tản cư, thấy đau xót, tủi hổ khi nghe tin làng mình lập tế theo giặc và lại vui mừng phấn khởi tự hào khi được tin làng mình vẫn là làng kháng chiến (Làng - Kim Lân). Những người trai làng sẵn sàng ra đi cầm súng theo tiếng gọi của Tổ quốc "Ruộng nương anh gửi lại bạn thân cày. "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay" (Đồng chí Chính Hữu)… Việc tập trung thể hiện con người công dân cũng gắn liền với việc mô tả con người chủ yếu trong các biến cố lịch sử, trong các hoạt động rộng lớn của cách mạng và kháng chiến hơn là những quan hệ và biến cố đời tư. Văn học thời kỳ 1945 - 1954 đã mở ra những không gian rộng rãi mang tính xã hội cho nhân vật hoạt động. Không gian ấy mang tính lưu chuyển, vận động và không đóng kín. Không gian mở rộng ấy có thể là tiền tuyến với một chiến dịch, một trận đánh, một cuộc hành quân ở vùng núi hay đồng bằng có thể là một xóm làng ở hậu phương trong vùng giặc chiếm. Nhưng dù giới hạn địa lý của các không gian cụ thể trong một bộ phận có thể không rộng lớn, thì nó vẫn khác với môi trường mang tính phong bế và tĩnh tai như trong nhiều tác phẩm hiện 8 thực phê phán viết về nông thôn trước 1945. Trong văn học kháng chiến, dù tác phẩm chỉ mô tả cuộc sống ở một xóm nhỏ, một làng quê hay một xóm núi heo hút "thâm sơn cùng cốc", thì nó vẫn gắn liền với toàn cuộc kháng chiến, là một bộ phận trong cái toàn cảnh rộng lớn của cả đất nước Việt Nam kháng chiến. Mặt khác văn học thời kỳ này cũng đưa ra những không gian đặc trưng cho cuộc sống kháng chiến như Con đường (Đường vui của Nguyễn Tuân, Con đường trong thơ Tố Hữu: Cá nước, Phá đường. Lên Tây bắc, Ta đi tới, Việt Bắc,…..), Văn học 1945-1954 chưa xem xét con người như một cá nhân, nó khám phá và thể hiện con người tập thể. Nếu như phát hiện quan trọng nhất đưa đế sự cách tân văn học Việt Nam những năm từ đầu thế kỷ XX đến 1945 có thể nói đó là sự phát hiện con người - cá nhân - cá thể, thì sự biến đổi quan trọng nhất ở chiều sâu quan niệm trong văn học sau 1945 chính là ở cái nhìn con người tập thể này. Đây không phải là sự trở lại với con người loại hình trong văn học dân gian hay con người siêu cá thể trong văn học thời trung đại. Quan niệm con người tập thể của văn học 1945 - 1954 mang tính đặc thù của một thời đại khi con người được thức tỉnh về sức mạnh của cộng đồng và khi quần chúng nhân dân đông đảo được tập hợp vào trong các tổ chức của mình. Quan niệm con người tập thể luôn đặt nhân vật trong một đám đông, một tập thể hoạt động. Cách mạng đã tập hợp quần chúng vào các tổ chức, con người riêng biệt và con người của gia đình, họ tộc bây giờ đã thành con người của cả dân tộc, của các đoàn thể. Quần chúng tham dự vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến là qua các tổ chức, các đoàn thể của mình. Các nhân vật quần chúng đã được hiện ra với vẻ đẹp và sức mạnh ở trong những tập thể ấy. Thơ trữ tình thì thể hiện những nét tâm lý và tình cảm chung của một tầng lớp, một thế hệ, một tập thể. Có khi trực tiếp là tiếng nói của "chúng tôi", "chúng ta" Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ) - Hồng Nguyên; "Chúng ta đoàn áo vải" - Hoàng Trung Thông; "Lòng vui rung rung câu hát của chúng ta 9 làm ca ngợi chúng ta" - Chính Hữu). Còn trong văn xuôi, người ta chú ý xây dựng các tính cách. Chưa mấy nhân vật có thể xem là một tính cách. Các nhân vật đều được trình bày, mô tả trong một nhóm, một tập thể của họ. Trong các tiểu thuyết Xung kích, Vùng mỏ, cũng chưa có nhân vật nào được tập trung xây dựng thành một tính cách riêng đậm nét mà họ thường là các nhóm nhân vật. Trong nhiều tác phẩm thẩy nổi bật hình tượng đám đông, hình tượng tập thể quần chúng. Như các đám đông dân công và bộ đội trong Xung kích, đám đông công nhân trong Vùng mỏ của Võ Huy Tâm v.v…). Nhiều khi, nhà văn đối lập hình tượng đám đông quần chúng với hình ảnh cá nhân để làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của tập thể. Một đặc điểm của con người quần chúng trong văn học kháng chiến là con người được thể hiện chủ yếu trong hành động, trong các quan hệ hướng ngoại. Thế giới nội tâm tuy không phải là bị bỏ qua nhưng không được chú ý khai thác và đời sống nội tâm cũng hầu như không có, những diễn biến phức tạp, những quá trình tâm lý riêng biệt. Các tác phẩm thường chỉ thể hiện những nét tâm lý tiêu biểu của quần chúng, của tập thể hơn là đi vào những biểu hiện riêng biệt của mỗi cá nhân. Các quá trình tâm lý nếu có được miêu tả thì cũng không được quy vào một số típ đặc trưng như từ ngộ nhận đến thức tỉnh, từ căm thù đến hành động, từ giác ngộ thấp đến giác ngộ cao hơn v.v… Vợ chồng A Phủ là một trường hợp hiếm hoi mà các quá trình tâm lý của nhân vật đã được tập trung soi rọi nhưng cũng không ra ngoài các mô típ tiêu biểu như trên và sự miêu tả quá trình tâm lý của nhân vật chủ yếu chưa nhằm khắc họa cá tính mà là bộc lộ quy luật chung của sự phản kháng và sức sống tiềm tàng của quần chúng lao động bị áp bức. Nhìn chung, con người trong văn học kháng chiến ít có những dằn vặt, suy tư, giằng xé nội tậm. Họ thường là những con người trong sáng dứt khoát, toàn tâm vì sự nghiệp chung, hòa mình trong tập thể. ở các nhân vật chính diện của văn học thời kỳ này, mối quan hệ riêng - chung thường rất dễ dàng 10 được giải quyết theo hướng gác tình riêng vì sự nghiệp chung và hòa nhập những tình cảm riêng trong những tình nghĩa chung như Thăm lúa của Trần Hữu Thung, Cá nước, Bầm ơi của Tố Hữu. Nhìn chung, trong văn học 1945 - 1954 hầu như chưa có những nhân vật được xây dựng với cá tính rõ nét, với quá trình tâm lý cụ thể riêng biệt. Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là văn học thời kỳ này đã không thể hiện được con người của thời đại ấy. Với sự phát hiện con người quần chúng, con người tập thể, với sự chú trọng làm nổi bật con người công dân và con người hành động, văn học Việt Nam 1945-1954 đã đem lại một kiểu người mới mẻ chưa từng có trước đó, phản ánh khá chân thực con người Việt Nam của thời đại vươn mình, giải phóng, hồi sinh dưới ánh sáng của cách mạng và trong ngọn lửa của cuộc kháng chiến chóng Pháp. Quan niệm con người của cho thời kỳ ấy tuy chưa đạt đến sự phong phú và những chiều sâu mới, nhưng vẫn là một phát hiện mới mẻ, tạo ra bước đổi mới quan trọng của cho dân tộc. Con người quần chúng của văn học thời kỳ này tuy chưa có được những tính cách riêng nổi bật, chưa có cá tính sắc nét, chưa được khám phá ở phương diện đời tư, nhưng lại mang được những nét nổi đậm của tâm lý và tính cách dân tộc, tích cách quần chúng và dấu ấn của thời đại. Văn học thời này đã để lại được những hình tượng tập thể khá sinh động, chân thực. 2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp (1954 -1964) Văn học Việt Nam trong khoảng mười năm từ sau cuộc kháng chiến chống Pháp - những năm tạm thời có hòa bình ở miền Bắc từ 1955 đến 1964 đã có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu. Sau cuộc kháng chiến thắng lợi, nửa nước được giải phóng, nhân dân ta đã bắt vào khôi phục đất nước phục đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề và từ nền kinh tế còn rất kém phát triển, lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Văn học đứng trước những yêu cầu của xã hội: một mặt là những nhu cầu tất yếu của con 11 người trong cuộc sống hòa hình sau hàng chục năm chiến tranh, mặt khác phải tiếp tục cuộc đấu tranh cho những mục tiêu cách mạng: thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan niệm về con người trong văn học thời kỳ này cũng trở nên đa dạng hơn và không tránh khỏi có cả những khác biệt, trái ngược giữa những quan niệm khác nhau. Nhưng nhìn chung xu thế nổi bật và có ưu thế hơn cả vẫn là tiếp tục quan niệm về con người của cho thời kháng chiến và phát triển nó trong những điều kiện lịch sử mới và những đòi hỏi mới của cuộc cách mạng. Trung tâm của quan niệm con người trong văn học thời kỳ này là khái niệm con người mới. Văn học những năm chống Pháp dừng lại ở quan niệm con người tập thể, chưa chú ý đến việc xây dựng những tính cách riêng, nhân vật chưa tách ra khỏi đám đông mà hòa tan trong tập thể. Văn học những năm hòa bình đã chú ý đến các tính cách cá nhân và ngày càng coi trọng giá trị của điển hình. Trong một số tác phẩm, nhất là ở đề tài về kháng chiến chống Pháp và để tài cách mạng, đã xuất hiện những nhân vật được xem như những điển hình văn học của thời kỳ này. Có thể kể đến Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, chị Tư Hậu trong Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức ái, Khắc trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi…Nhìn chung, trong tiểu thuyết lúc này, nhân vật đã có một dáng dấp riêng, một bề dày về đời sống nội tâm, một quá trình vận động, biến đổi của số phận và tính cách qua những biến cố xã hội - lịch sử. Văn xuôi thời kỳ này quan tâm tái hiện những biến bố lịch sử trọng yếu, những hiện trạng xã hội rộng lớn theo khuynh hướng tiểu thuyết sử thi, nhưng cũng không coi nhẹ việc xây dựng nhân vật sáng tạo điển hình. Các nhân vật được xem là thành công, trong văn học thời kỳ này đều được xây dựng theo hướng tập trung, khái quát những nét tiêu biểu của số phận, tính cách của tầng lớp giai cấp của họ, hoặc rộng hơn, mang ý nghĩa tiêu biểu cho dân tộc, cho số phận của nhân dân (như trường hợp Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc và những nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu như chị Trần Thị Lý trong Người con gái Việt Nam, Mẹ Tơm trong bài thơ cùng tên). Việc 12 không phân biệt rõ, thậm chí đồng nhất điển hình xã hội với điển hình văn học đã dẫn đến tình trạng nhiều nhân vật văn học thiếu cá tính sinh động, chưa vượt qua những nét chung nhất của bản chất một tầng lớp xã hội hay giai cấp, không mang được tính nhân loại phổ quát. Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học thời kỳ này là con người trong sự thống nhất riêng - chung. Trong văn học kháng chiến chống Pháp, hầu như chưa đặt vấn đề cái riêng của con người, hoặc nếu có nói đến cuộc sống riêng, số phận của một cá nhân nào đó thì cũng là để cụ thể hóa cái chung của dân tộc, giai cấp. "Gác tình riêng" là một cách ứng xử duy nhất đúng lúc ấy mà các nhân vật chính diện của văn học đều lựa chọn một cách dứt khoát, nhẹ nhàng. Hạnh phúc cá nhân, cuộc sống riêng tư được xem như là cái gì xa lạ và đối lập với cuộc sống chung, với sự nghiệp lớn của dân tộc. Một nữ thi sĩ đã nói lên tâm trạng chung ấy của con người Việt Nam sau cuộc cách mạng: Đẹp gì chăn gối trong khi cả Dân tộc sôi lên chí quật cường Hãy gác tình riêng mưu nghiệp lớn Để đong máu giặc dội biên cương (Ngân Giang - Xuân Chiến địa) Nay chiến tranh đã kết thúc, cuộc sống hòa bình trở lại, không thể không quan tâm đến cuộc sống thường nhật và những vấn đề về hạnh phúc. về cuộc sống riêng của mỗi con người. Hơn nữa, trong quan niệm của xã hội ta lúc ấy, chủ nghĩa xã hội là gắn liền với tập thể, với sở hữu tập thể, chủ nghĩa tập thể, khẩu hiệu phấn đấu lúc ấy là "mình vì mọi người, mọi người vì mỗi người", chủ nghĩa cá nhân được nhìn nhận như là kẻ thù tư tưởng lớn nhất, nên cần "nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (Hồ Chí Minh). Quan niệm con người hài hòa thống nhất riêng- chung và đặt lợi ích 13 của tập thể lên trên lợi ích cá nhân đã chi phối các chủ đề chính yếu, các nhân vật chính và cả việc lựa chọn cây dựng các cốt truyện tiêu biểu của văn học thời kỳ này, nhất là trong mảng sáng tác về đề tài cuộc sống hiện tại. Cố nhiên, quan niệm về sự thống nhất này cũng có tính biện chứng, cái riêng không phải là "hòa tan" trong cái chung, trong ý thức cộng đồng như ở văn học kháng chiến và con người đi tới sự thống nhất riêng - chung cũng thường phải trải qua đấu tranh, tự vượt lên mình, đổi mới trong nhận thức và tình cảm qua một quá trình, chứ không hoàn toàn là một sự " hồn nhiên" dễ dàng không cần suy nghĩ lựa chọn gì như con người trong thời đầu cách mạng và kháng chiến. Nhiều tác phẩm viết về nông thôn ở khoảng trước năm 1960 thường xoay quanh vấn đề "vào - ra" hợp tác xã. Lựa chọn con đường làm ăn tập thể được xem là tiêu chuẩn hàng đầu của cái mới, cái tiên tiến. Lớp người già thường bị xem như nặng đầu óc bảo thủ, chậm tiếp nhận cái mới và lớp trẻ được coi là đại diện cho cái mới, cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở nôn thôn (Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm của Đào Vũ…). Sau năm 1960, khi phong trào hợp tác hóa đã căn bản hoàn thành, các tác phẩm viết về nông thôn lại nêu lên vấn đề "riêng-chung" này trong những hình thức đấu tranh mới, nhưng quan niệm xã hội và thẩm mỹ về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Nguyễn Khải trong một loạt truyện vừa viết về nông thôn hợp tác hóa (Tầm nhìn xa, Người trở về, Gia đình lớn) rất có tiếng vang lúc ấy, đã phát hiện những vấn đề xã hội ở nông thôn sau hợp tác hóa- chẳng hạn vấn đề đội ngũ cán bộ nông thôn, vấn đề tư tưởng tư lợi và phường hội của người nông dân khi đã vào hợp tác xã, vấn đề mâu thuẫn giữa lợi ích của tập thể nhỏ và tập thể lớn là toàn xã hộinhưng cách lý giải và giải quyết của nhà văn thì vẫn không vượt ra ngoài những quan niệm chung, nhận thức chung lúc bấy giờ, như phải biết hy sinh những lợi ích riêng cho lợi ích chung, phải có "tầm nhìn xa" không để cho mối lợi trước mắt nó cản trở, níu kéo mình…..Những nhân vật cán bộ nông thôn được xây dựng trong văn học lúc này như những mẫu người tiêu biểu, tích cực thường là những con người chịu hy sinh lợi ích riêng, có một cuộc sống gia 14 đình nghèo khó, vợ con nheo nhóc vì họ không thể chăm lo cho gia đình riêng mà toàn tâm dành cho công việc chung, lợi ích tập thể: Ví dụ: anh chủ nhiệm trong thơ của Hoàng Trung Thông đến anh Biên trong Tầm nhìn xa, Năm trong Gia đình lớn của Nguyễn Khải. Một hướng khẳng định sự thống nhất riêng - chung trong văn học lúc này là thể hiện những cuộc đổi đời của con người trong xã hội mới, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách nhân vậttrong hoàn cảnh xã hội tốt đẹp, trong môi trường tập thể. Những tác phẩm đi theo hướng này đã thể hiện đượckhát vọng hạnh phúc của con người, đặc biệt là những người đã chịu nhiều đau khổ, bất hạnh. Những thành công theo hướng này phải kể đến tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, Mùa lạc – Nguyễn Khải. Điều đáng chú ý là những tác phẩm viết theo hướng này đều chọn giải pháp duy nhất đẻ giải quyết những vấn đề số phận cá nhân là cách hòa nhập vào tập thể, vào cách mạng và trong cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa. Môi trường tập thể với những con người tiên tiến, mang tư tưởng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng, chủ động đón nhận, cảm hóa, nâng đỡ những con người riêng lẻ, cô đơn, bất hạnh, giúp họ tìm thấy chỗ đứng, niềm vui, hạnh phúc. Thời kì này, thơ trữ tình cũng đặt ra vấn đề riêng – chung như một chủ đề nổi bật. Như Riêng - chung của Xuân Diệu; Ánh sáng và phù sa của Huy Cận đều thể hiện cuộc phấn đấu và niềm vui của con người đi từ “chân trời của một người đến chân trời của tất cả” ( Paul Eluard) cũng là con đường “ Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”. Quá trình ấy không phải không trải qua những trăn trở, dằn vặt như “ Ta là ai? Ta vì ai? Ta được gì và mất gì?... Các nhà thơ lãng mạn trước cách mạng phải trải qua hàng chục năm đi với cách mạng và nhân dân đến lúc này mới tìm được cái tôi của mình trong sự hòa hợp thống nhất với cuộc đời chung. Các nhà thơ có rất nhiều sáng tác về vấn đề này như: Đất nở hoa và Bài thơ cuộc đời – Huy Cận, Riêng - chung của Xuân Diệu.... 15 Nhìn chung, văn học 10 năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp đã thể hiện một kiểu quan niệm về con người được hình thành trong môi trường lịch sử xã hội thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình còn đơn giản và mang màu sắc lý tưởng hóa. Văn học giai đoạn này nổi lên là 2 kiểu hình tượng nhân vật: Con người riêng tư, nhỏ bé được lớn lên nhờ cách mạng, đi tới hòa nhập với cuộc đời chung và kiểu nhân vật khái quát, tập hợp đại diện cho những phẩm chất, cho số phận và con đường của giai cấp ( Núp trong Đất nước đứng lên – Nguyên Ngọc, các hình tượng trong thơ Tố Hữu). Trong văn học 10 năm chống Mỹ tiếp theo, kiểu nhân vật thứ 2 được đặc biệt phát triển trở thành những nhân vật mang đậm tính sử thi. Trong quan niệm về con ngườ thời kì này, mặc dù sự thống nhất riêng – chung có thể xem là một bước tiến so với quan niệm về con người tập thể, hoàn toàn hòa tan trong tập thể của văn học kháng chiến. Nhưng nhìn chung, sự thống nhất này chưa phải được quan niệm trong tính biện chứng và đa dạng. Nhiều trường hợp còn đơn giản, còn tuyệt đối hóa cái chung và vai trò tập thể trong một mô tip đi từ cái riêng đến cái chung, từ cô đơn đến chan hòa tập thể như một giải pháp toàn năng để giải quyết mọi cảnh ngộ số phận con người. 3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học mười năm kháng chiến chống Mỹ (1965 -1975) Trong những năm tháng chống Mỹ, đất nước và con người Việt Nam đã sống những năm đau thương, dữ dội những cũng hào hùng chói lọi nhất. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, quan niệm nghệ thuật về con người vẫn tiếp tục quan niệm về con người trong văn học 20 năm trước đónhuwng được phát triển tập trung vào mộ hướng lớn và đi tới đỉnh cao của nó là quan niệm con người sử thi. Biểu hiện: Con người trong văn học chống Mỹ vẫn được khai thác trên phương diện con người chính trị, cong người công dân, nhưng mỗi cá nhân được thể 16 hiện như là biểu hiện tập trung của ý chí khát vọng và sức mạnh của cộng đồng dân tộc, thậm chí của thời đại của nhân loại. Con người trong văn học chống Mỹ thường thể hiện ý thức công dân, nhận thức chính trị một cách hồn nhiên, còn trong văn học chống mỹ con người được nhấn mạnh về tầm vóc tư tưởng và ý thức chính trị. Đó là con người có ý tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội cao cả. Cùng với tầm cao nhận thức, lý tưởng, con người trong văn học chống Mỹ là con người của ý chí lớn, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Lý tưởng và nhận thức đã thể hiện thành ý chí và hành động. Ý chí ấy thấm sâu vào mọi hành động suy nghĩ của con người. Ví như chị Út tịch với câu nói nổi tiếng: “ còn cái lai quần cũng đánh” và hình ảnh người mẹ bụng chửa vượt mặ vẫn xông lên đánh bốt, chiếm đồn địch. Nhân vật trong văn học thời kỳ chống Mỹ đều được đưa vào những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, những gian khổ ác liệt của chiến tranh đẻ càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ chói sáng chủ nghĩa anh hùng. Nhiều tác phẩm đặt con ngưoif trước sự lựa chọn nghiệt ngã giữa sự sống và cái chết và khẳng định ý nghĩa cao cả của sự hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ chị Sứ, anh Trỗi, Anh Thuận, đến Lữ ( Dấu cchân người lính) dù ở những hoàn cảnh thử thách khác nhau nhưng trước cái chết họ đều giống nhau trong sự dứt khoát, thanh thản, trong sáng và cao cả chấp nhận hy sinh. Đó là con người sử thi, con người đại diện đầy đủ cho ý chí, sức mạnh, tầm vóc và khát vọng của cả cộng đồng dân tộc. Con người trong văn học thời kì này không chỉ sống với thời gian hiên tại và ước vọng về tương lai mà còn sống với thời gian lịch sử. Con người chống Mỹ sống trong sự dồn nén cô đặc của thời gian. Họ sống với nhiều thế kỉ, với truyền thống dân tộc được khơi dậy không hề xưa cũ. Ví dụ: Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi; trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm.... 17 Đây là điều mới mẻ so với văn học trước đó. Nếu trong văn học thời chống Pháp nhân vật chủ yếu sống với thực tại, quá khứ nếu có chỉ là tăm tối khổ nhục mà con người dứt khoát đoạn tuyêt thì thời chống Mỹ, quá khứ được nhìn nhận như là nỗi đau khổ bế tắc của cha ông để làm nổi bật sự tươi sáng và lối giải thoát của cuộc sống mới do cách mạng mang lại ( Bài ca xuân 61 – Tố Hữu; Các vị La Hán chùa Tây Phương – Huy Cận) Con người mang tính sử thi được nhìn nhận như là sự kết tinh của quê hương đất nước và gắn bó sâu nặng với quê hương, đất đai quê hương đã hóa thân vào mỗi con người, vàcon người cũng hóa thân làm nên quê hương đất nước ( Đất nước – trích trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) Từ quan niệm về con người toàn vẹn, văn học chống Mỹ chú trọng mô tả con người ở các phương diện ý thức, tư tưởng, ý chí niềm tin và hành động anh hùng đồng thời cũng rất chú ý khắc họa đời sống tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn con người. Lòng nhân ái, tình thương, ân nghĩa được khắc họa như là sự đối lập, vươn lên và chiến thắng sự tàn bạo hủy diệt của chiến tranh xâm lược. Thế giới tình cảm của con người thời kỳ này được khai thác ở nhiều mặt nhưng nổi lên và bao trùm vẫn là những tình cảm cộng đồng, tình quê hương, đất nước nhưng không thiếu những tình cảm riêng như tình yêu đôi lứa.Đây là bước tiến so với văn học chống Pháp. Khai thác tình cảm cá nhânvà đời sống nội tâm con người là cách để văn học chống Mỹ làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, lý tưởng và tình cảm. Từ quan niệm về con người quần chúng trong văn học thời chống Pháp, văn học thời chống Mỹ đã vươn tới những hình tượng tập thể, xây dựng hình tượng nhân dân với những thành công đáng kể. Nhìn chung, văn học thời chống Mỹ đã sáng tạo những hình tượng con người mang được dấu ấn, tầm vóc tư tưởng và ý chí của thời đại. Con người sử thi trong văn học thời kì này với 2 phương diện nổi bật là chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồnlà đóng 18 góp lớn của văn học vào việc khám phá và thể hiện con người, đè cao sức mạnh của con người Việt Nam. Nhìn chung, văn học 1945 -1975 đã đi qua một gia đoạn đầy biến động của lịch sử và con người việt Nam. Quan niệm nghệ thuật về con người của văn học thời kỳ này có đời sống xã hội – chính trị của đất nước. Quan niệm này chi phối cả nền văn học và mỗi tác giả. Từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là thời kì đổi mới của đất nước, văn học bước vào giai đoạn mới với những biến đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện. Sự biến đổi quan niệm về con người vẫn là trung tâm của mọi biến đổi của một nền văn học. Để thấy rõ sự đổi mới của văn học sau 75 không thể không tìm hiểu sự thay đổi trong quan niệm về con người thời ki này. II.Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học từ sau 1975 đến nay: Sau 1975, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những quy luật thời bình sớm muộn sẽ chi phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân diễn ra manh mẽ khi giá trị cá nhân được coi trọng. Nếu trước 1975, các nhà văn có thiên hướng thể hiện con người theo tiêu chí giai cấp, lựa chọn nhân vật điển hình, chú trọng tính chung sao cho phù hợp với quan điểm về sự vận động tích cực và thuận chiều của đời sống, do đó đã bỏ qua hoặc coi nhẹ phương diện “riêng tư”, “cá biệt” của con người thì sau 1975 dần dần quan tâm con người ở tư cách cá nhân độc lập. Xuất hiện con người “không trùng khít với chính mình”, con người phức tạp, nhiều chiều. Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là con người đối diện với chính mình, là “tòa án lương tâm” sáng suốt nhất phân xử tư cách con người trong mối quan hệ với “số đông người” và với “cá nhân” anh thợ cắt tóc.Nguyễn Khải từng triết lí: "cái thế giới tinh thần của con người là vô cùng phức tạp vì con người luôn nhắm tới cái thật cao và thật xa”. Ông ngạc nhiên thấy có người "ăn no mà buồn, không phải lo nghĩ mà lại buồn ” (Anh hùng bĩ vận), có người "hiển lành là thế, hồn nhiên là thế mà có ngày sẽ trở 19 thành sát nhân ư” (Đổi đời), Nguyễn Minh Châu từ tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành trở đi dường như liên tục làm những thử nghiệm, "đối chứng’’ về "tính chất kì lạ của con người". Chiếc thuyền ngoài xa, Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, đều ít nhiều diễn tả cái phức tạp của đời sống, những giằng xé nội tâm khiến con người nhiều lúc như bị phân thân. Phát hiện con người phức tạp, con người lưỡng diện, con người không nhất quán với mình, văn xuôi sau 1975 có vẻ như đã đi đúng quỹ đạo tư duy của những nhà khoa học nhân văn có tiếng trên thế giới. L.Tônxtôi từng ví "con người như dòng sông”. "Nước trong mọi con sông như nhau và ở đâu cũng thế cả nhưng mỗi con sông thì khi hẹp, khi chảy xiết, khi thì rộng khi thì êm, khi thì trong veo, khi thì lạnh, khi thì đục, khi thì ấm. Con người cũng như vậy. Mỗi con người mang trong mình những mầm mống của mọi tính chất con người và khi thì thể hiện tính chất này, khi thì thể hiện những tính chất khác và thường là hoàn toàn không giống bản thân mình tuy vẫn cứ là chính mình". Sau này M.Bakhtin nói: "Con người không thể hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã hội - lịch sử hiện hữu. Chẳng có hình hài nào có thể thể hiện được hết mình cho đến lời nói cuối cùng như nhân vật bi kịch hoặc sử thi, chẳng có khuôn hình nào để có thề rót nó vào đầy ắp mà lại không chảy tràn ra ngoài. Bao giờ cũng vẫn còn phẩn nhân tính dư thừa chưa được thể hiện”. Ý kiến này vừa chỉ ra tính chất phong phú, phức tạp của con người với tư cách cá nhân, vừa cho thấy cả tính “nhân loại” với tư cách giống loài mà tự nhiên nhào nặn. Cùng với sự phức tạp còn là sự bí ẩn. Nếu văn học 1945 - 1975 đem lại ấn tượng về con người có thể biết trước, nhà văn nhìn con người chủ yếu như một ý thức chính trị vận động hợp quy luật lịch sử thì văn học từ sau 1975 đem lại cảm giác con người là một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không thể biết trước, không thể biết hết. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là"tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Con người hành động có khi theo sự chỉ huy của ý 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan