Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Quan niệm của lqt về hình tượng người anh hùng qua hồi thứ 21...

Tài liệu Quan niệm của lqt về hình tượng người anh hùng qua hồi thứ 21

.DOCX
42
499
96

Mô tả:

Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung MỤC LỤC I. Tác giả và tác phẩm.......................................................................................3 1. Tác giả.............................................................................................................3 2. Tác phẩm........................................................................................................3 3. Về hồi thứ 21 “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng”................................6 II. Quan niệm về hình tượng người anh hùng của Lưu Bị và Tào Tháo qua hồi thứ 21..................................................................................................................6 1. Về hình tượng người anh hùng.....................................................................6 1.1. Khái niệm hình tượng..............................................................................6 1.2. Về khái niệm “anh hùng” và hình tượng người anh hùng....................7 2. Quan niệm về người anh hùng của La Quán Trung trong hồi thứ 21......8 2.1. Người anh hùng là người chưa gặp thời thì phải biết chờ thời.............9 2.2. Người anh hùng là người biết quyền biến, nắm bắt cơ hội và hành động mạnh mẽ..................................................................................................11 III. Quan niệm của La Quán Trung về hình tượng người anh hùng trong “Tam quốc diễn nghĩa”.........................................................................................13 1.Người anh hùng phi thường, xuất chúng......................................................13 2. Người anh hùng trọng “nghĩa”.....................................................................17 3. Người anh hùng mưu lược, tài trí...............................................................22 4. Người anh hùng biết quyền biến, biết chờ thời.........................................32 IV. Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người anh hùng của La Quán Trung............................................................................................................36 V. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng trong “Tam quốc diễn nghĩa”......................................................................................................................39 VI. Kết luận.........................................................................................................42 1 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung I. Tác giả và tác phẩm 1. Tác giả La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là "Hồ Hải tản nhân" có thể là người Thái Nguyên (còn có thuyết cho rằng ông là người Lư Lăng Tiền trị của nhà Nguyên Thuận Đế (Thỏa Hoàn Thiếp Mộc Nhĩ) và Minh Đường, Đông Nguyên. v. v ...). Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1300 đến năm 1400 giữa thời thống Thái Tổ (Chu Nguyên Chương). Có thuyết còn nói rõ rằng ông sinh năm 1328 và mất năm 1398. Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch, nhưng nổi tiếng nhất là về tiểu thuyết. Ông là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử đời Minh-Thanh. La Quán Trung xuất thân từ một gia đình quý tộc. Tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang suy tàn, ông bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân. Ông là một trong những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương". Tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay không thể biết rõ được. La Quán Trung tương truyền từng tham gia cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyên của Trương Sĩ Thành. Sau khi Trương Sĩ Thành thất bại, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi, thống nhất đất nước, ông lui về ở ẩn, sưu tầm và biên soạn dã sử. 2. Tác phẩm Về tiểu thuyết thì ngoài Tam Quốc Diễn Nghĩa ra, tương truyền có tất cả hơn mười bộ, như nay ta biết còn có: Tùy Đường chí, Tản Đường ngũ đại sử diễn ca, Tam toại bình yêu truyện... (hiện nay những bản còn lưu truyền đã bị người đời sau sửa đổi, viết lại, không còn nguyên bản của ông nữa). Tam quốc diễn nghĩa nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa], là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190280) với khoảng 120 chương hồi, theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu). Tiểu thuyết này được xem là một trong bốn tác phẩm cổ điển hay nhất của văn học Trung Quốc. 2 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người. • Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm. • Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác (Tam quốc chí của Trần Thọ, Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông. • Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm. Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau: - Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường". - Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn. - Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật. - Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng vềnước Thục chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách. Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng 3 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng. Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679). Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, v.v... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộTam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi. Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế độ... nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này. Tóm tắt tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa kể lại cuộc phân tranh trong vòng 87 năm giữa ba tập đoàn phong kiến: Ngụy, (Tào Tháo), Thục, (Lưu Bị) và Ngô (Tôn Quyền). - Từ hồi 1 đến hồi 14 (năm 184–190) cuộc khởi nghĩa nông dân Khăn Vàng. Đổng Trác thâu tóm quyền hành. Vương Doãn dùng mĩ nhân kế diệt Trác. Các thế lực bắt đầu xâu xé lẫn nhau. - Từ hồi 15 đến hồi 50 (năm 190–208) Viện Thiệu xưng hùng rồi đại bại. Tào Tháo tiêu diệt sạch các tập đoàn phương Bắc, làm chủ trung nguyên Lưu Bị đã có binh hùng tướng mạnh nhưng chưa có đất. Tào Tháo đại bại ở Xích Bích. Lưu Bị được đất Kinh Châu: Thế chân vạc Ngụy–Thục–Ngô hình thành. - Từ hồi 51 đến hết (208–280) Tào Tháo có binh hùng tướng mạnh, lúc đánh Ngô, lúc tiến công Thục, thế trận giằng co thì Táo Tháo chết. Con là Tào Phi lên thay, phế vua Hán, lập ra nước Ngụy, quyền hành rơi dần vào tay thừa tướng Tư Mã Ý. 4 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung - Lưu Bị có mưu sĩ Khổng Minh, có ngũ hổ tướng, thế lực ngày một mạnh. Lưu Bị lên ngôi vua. Quan Vũ bị Đông Ngô giết. Trương Phi cất quân đánh báo thù cho anh mà bị hại. Lưu Bị thảm bại về trận hoả công của Đông Ngô rồi ốm chết. Con là Lưu Thiện nối ngôi. Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, “Lục xuất Kỳ Sơn”, sự nghiệp đang dở dang thì ốm chết. Thục suy vong dần. Năm 263, tướng Ngụy là Đặng Ngải, diệt Thục, Lưu Thiện đầu hàng. Nhà Ngô có địa thế Giang Đông hiểm yếu, có binh hùng tướng mạnh, lấy thủ, làm công, nhiều lần đánh bại Ngụy, Thục. Sau khi Tôn Quyền chết, Tôn Hạo lên thay, thế yếu dần. Năm 279 Tư Mã Viêm (cháu Tư Mã Ý), kéo đại binh đánh Đông Ngô, Tấn Hạo đầu hàng. Tư Mã Ý phế Ngụy, lập ra nhà Tôn thống nhất Trung Quốc. Như vậy, “Tam quốc diễn nghĩa” chủ yếu kể lại những sự kiện lịch sử chính diễn ra trong thời kì loạn lạc của Trung Quốc. Bên cạnh câu chuyện được kể xoay quanh sự tranh giành quyền lực giữa ba tập đoàn Ngô- Thục- Ngụy thì tác phẩm còn ẩn chứa những ước mơ, khát khao của tác giả về một đất nước hòa bình, hưng thịnh. Ẩn sâu bên trong tác phẩm chính là hình ảnh những người anh hùng xuất chúng, những biểu tượng bất tử của lòng trung hiếu, tiết nghĩa đáng được người đời ca tụng. 3. Về hồi thứ 21 “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng” Thuộc hồi 21 trích trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của La Quán Trung. Đoạn trích giới thiệu nhân vật, sự vật, sự việc, hoàn cảnh của Huyền Đức khi đang nương nhờ trên đất Tào Tháo, nhẫn nhịn chờ thời cơ để ra đi mưu đồ việc lớn. Qua đoạn trích này, bản chất của hai nhân vật Lưu Bị và Tào Tháo được bộc lộ rất rõ từ đó La Quán Trung cũng gửi gắm những quan niệm đúng đắn về hình tượng người anh hùng. II. Quan niệm về hình tượng người anh hùng của Lưu Bị và Tào Tháo qua hồi thứ 21 1. Về hình tượng người anh hùng I.1. Khái niệm hình tượng Về vấn đề hình tượng nghệ thuật, theo từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá HánTrần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (NXB Giáo dục_2010) chủ biên có nói: “Hình 5 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung tượng nghệ thuật là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật”. Hình tượng là kết quả của sự nhận thức và cắt nghĩa đời sống mà tác giả thể hiện trong tác phẩm. Bằng cá tính sáng tạo, người nghệ sĩ xây dựng hình tượng để bộc lộ những quan điểm về cuộc đời và nghệ thuật. Hình tượng là những bức vẽ về cuộc đời và con người cụ thể, có thể là đồ vật, thiên nhiên hay cảnh lao động sản xuất…Nhưng hình tượng trung tâm nhất vẫn là con người có tên hay không tên, cá nhân hay tập thể. Nhưng không phải nhân vật nào trong tác phẩm cũng trở thành hình tượng văn học. Hình tượng nghệ thuật phải vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của người nghệ sĩ. Hay có thể nói đó phải là một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Hình tượng điển hình khái quát được những nét bản chất nhất của đời sống, thể hiện được những tư tưởng sâu sắc, lí tưởng cao, tình cảm mãnh liệt của người nghệ sĩ. Như vậy, hình tượng nhân vật trong văn học là nhân vật điển hình trong tác phẩm, mang những nét khái quát của một tầng lớp, một giai cấp nào đó, đồng thời nhân vật đó phải mang những nét bản chất nhất được thể hiện nổi bật qua sự miêu tả sinh động, hấp dẫn với những số phận éo le, những cảnh ngộ riêng biệt, những hành vi độc đáo, những cá tính không lặp lại. I.2. Về khái niệm “anh hùng” và hình tượng người anh hùng “Anh hùng” , chữ “anh” được hiểu ở đây là chữ anh hoa với vẻ đẹp được biểu hiện ra bên ngoài, đó chính là sự cộng hưởng của vẻ đẹp tâm hồn lẫn trí tuệ. Đó là những người có tài năng và dũng khí hơn hẳn người thường; có sức mạnh vĩ đại và làm nên những kì tích được người đời ca tụng. Ta có thể tìm thấy bóng dáng người anh hùng qua những câu chuyện thần thoại dân gian. Như vậy hình tượng người anh hùng chính là những hình mẫu lí tưởng, những bức chân dung về những con người có tài năng và sức mạnh phi thường, đại diện cho công lí và chính nghĩa. Hình tượng người anh hùng trong văn học cổ Trung Quốc được nhắc tới rất nhiều và thường xuất hiện trong những tác phẩm có quy mô lớn, viết về đề tài lịch sử. Hình tượng này xuất hiện trong văn học và trở thành một trong những hình tượng trung tâm làm phong phú nền văn học Trung Quốc thời kì trước. Và “Tam quốc diễn nghĩa” cũng là một tác phẩm đã xây dựng nên hình tượng những người anh 6 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung hùng xuất chúng, có vị trí quan trọng đối với lịch sử với những nét đẹp con người và nhân cách cao quý. Qua đó, tác giả cũng đã bộc lộ được những quan niệm khác biệt, đúng đắn về hình tượng người anh hùng trong thời xưa. 2. Quan niệm về người anh hùng của La Quán Trung trong hồi thứ 21 Có thể nói nhân vật Lưu Bị trong hồi thứ 21 trong nghệ thuật tự sự của tác giả chỉ đóng vai trò là người dẫn dắt câu chuyện để từ đó La Quán Trung thể hiện quan niệm của mình về hình tượng người anh hùng thông qua câu nói của nhân vật Tào Tháo : “Rồng là vật anh hùng, lúc ẩn, lúc hiện, lúc thì hô phong giá vũ, lúc thì ẩn núp trong lùm cây, tùy theo từng lúc mà cử động. Đó chẳng sánh với các bậc anh hùng sao”. Trong câu nói đó của Tào Tháo ta nhận ra được hai ý chính trong quan niệm về hình tượng người anh hùng mà tác giả muốn gửi gắm, đó là người anh hùng thì phải biết quyền biến, tức có lúc phải biết chờ thời nhưng một khi có cơ hội thì phải vùng lên một cách mạnh mẽ . Hình tượng rồng trong nền văn hóa Trung Quốc tuy xếp hàng thứ tư trong tứ linh nhưng rồng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tâm linh của người dân Trung Quốc. Cuối năm 1987 tại huyện Bộc Dương tỉnh Hà Nam, người ta khai quật được một con rồng bằng gốm, giám định là có 6 ngàn năm tuổi. Như vậy điều này càng chứng minh thêm sự sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy. Sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy chiếm địa vị trọng yếu trong tín ngưỡng linh vật hay vật tổ: Đồ đằng sung bái và liên quan mật thiết đến chính trị, kinh tế, văn học nghệ thuật, phong tục dân gian từ đời Hạ, đời Thương và ảnh hưởng này kéo dài mấy ngàn năm không suy giảm Rồng luôn hiện hữu trong các chuyện thần thoại Trung Quốc, trong các cổ vật, tranh vẽ, lời bói trên mai rùa xương thú khai quật được, và trong các thư tịch cổ như Chu Dịch, Sơn Hải Kinh, Tả Truyện, v.v.... Nói tới rồng người ta nghĩ tới hình tượng của vua chúa, rồng trong biểu tượng của Nho giáo đó là sự thể hiện của sự khôn ngoan. Như vậy chúng ta thấy việc sử dụng hình tượng rồng để nói lên quan niệm về hình tượng người anh hùng của La Quán Trung là một hình ảnh đặc sắc có sức khái quát rất lớn thể hiện sự tinh tế và tài tình của tác giả La Quán Trung. Với vai trò là người dẫn dắt câu chuyện thì quan niệm của Lưu Bị về người anh hùng trong thiên hạ là cách ông che mắt Tào Tháo khi đưa ra một loạt những cái tên quân nhiều thế mạnh, tung hoành giang hồ. Việc ông hàng ngày chỉ chăm chú làm vườn, không quan tâm đến chính sự cũng chính vì sợ Tào Tháo phát hiện 7 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung ra ý đồ của mình. Khi Tào Tháo cố tình dò xét tư tưởng Lưu Bị, ông đã có những biểu hiện như giật mình, sợ tái mặt. Nhưng sau khi nghe Tào Tháo nói mục đích của buổi gặp mặt, Lưu Bị an lòng, lấy lại bình tĩnh mà đối đáp. Nghe Tào Tháo gợi chuyện từ rồng liên tưởng đến người anh hùng, Lưu Bị đã trả lời rất khiêm nhường, che giấu đi suy nghĩ thật trong lòng mình. “Tôi là phường mắt thịt, đâu biết những đấng anh hùng” câu nói ấy cũng đủ minh chứng cho một chí lớn ấp ủ thẳm sâu trong tiềm thức ông mà không thể thổ lộ. Không thể tùy tiện đối đáp với Tào Tháo, Lưu Bị đành đưa ra một số vị tướng quân mà ông cho là có chỗ đứng trong trời đất nhằm làm an lòng Tào Tháo. II.1. Người anh hùng là người chưa gặp thời thì phải biết chờ thời. Trong hồi thứ 21 chúng ta có thể thấy rất rõ hình ảnh của sự chờ đợi thời cơ với hình ảnh của Lưu Bị.Ta có thể thấy trong hoàn cảnh Tào Tháo lộng quyền, vua Hiến Đế là vua nhưng lại dưới quyền Tháo và rất sợ Tháo. Tháo mời vua đi săn để thể hiện uy lực của mình ( hồi 20), vua Hiến Đế tức giận nhưng không thể làm gì được bèn có cha của Phúc hoàng hậu bày kế tiến cử Đổng Thừa. Vua liền may áo đai có mật chiếu bằng máu đỏ tỏ rỏ tâm huyết cứu nhà Hán giết Tào Tháo và đưa cho Đổng Thừa. Đổng Thừa về suy nghĩ và tập hợp lực lượng bèn cùng với Huyền Đức mưu bàn cơ nghiệp sau này. Và trong hồi thứ 21 Huyền Đức sợ Tào Tháo biết âm mưu của mình nên hằng ngày chỉ biết cuốc đất chăm vườn cây nhằm che mắt Tào Tháo đợi cơ hội để lập nghiệp lớn. Có thể nói hình tượng Lưu Bị trong hồi thứ 21 là hình ảnh của một con rồng đang trú ngụ ở nơi đất khô chờ cơ hội để ra biển rộng vẫy vùng, còn hình tượng của Tào Tháo là hình ảnh của một con rồng đang bay cao và muốn bay cao hơn nữa. Sự chờ thời này cũng được thể hiện rõ trong hồi thứ 37 với hình ảnh của Lưu Huyền Đức ba lần đến Thảo Lư với mong muốn được Khổng Minh giúp sức trong mưu đồ lập nghiệp sau này. Nếu Trương Phi và Quan Công không thích thái độ của Khổng Minh nhưng với sự chờ đợi quyết thu phục Khổng Minh thì Bị hoàn toàn có thể làm tất cả. Trong cuộc chiến bất phân thắng bại nếu bên nào có những quân sư tài ba thì cũng chứng tỏ sẽ nắm phần thắng nhiều hơn và khi Từ Thứ tiến cử Khổng Minh một con người trí tuệ hơn người thì Bị đã không bỏ qua cơ hội này. Sự nắm bắt cơ hội là một bước ngoặt quan trọng nó có thể làm thay đổi cục diện của một lực lượng và điều này chúng ta có thể thấy rõ là từ khi có Khổng Minh trợ giúp thì lực lượng của Lưu Bị lớn mạnh lên rõ rệt và đánh thắng nhiều trận như trận Đồi Bác Vọng, 8 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung mượn Chu Du đánh Tào…Ngược lại như chúng ta thấy nếu không biết nắm bắt cơ hội thì thất bại sẽ đến, ví như khi Đào Khiêm tỏ ý muốn nhường lại Từ Châu cho Lưu Bị nhưng bị với sự trọng nghĩa khí của mình không muốn nhận, hay như Khi Lưu Chương ở vùng đất Tây Xuyên vốn nhu nhược, với lời khuyên của Khổng Minh là phải giết Lưu Chương chiếm lấy vùng đất Tây Xuyên, dù Khổng Minh đã sắp đặt xong xuôi hết cả nhưng Bị vẫn không nỡ lòng nào giết chế người cùng họ của mình. Đó là hình ảnh của một con người lấy nhân nghĩa làm đầu, nhưng cũng chính không biết nắm bắt cơ hội cho nên Bị lại phải khốn đốn nhiều lần, thậm chí mất dần những cánh tay đắc lực của mình khi họ phải lao vào những cuộc chiến trận mà đáng lẽ nếu Bị biết nắm bắt cơ hội thì không thể nào xảy ra. Chúng ta cũng có thể lấy ví dụ về hình ảnh của Lưu Biểu, nhân lúc Tào Tháo dốc quân lên Hà Bắc đánh hai người con của Viên Thiệu là Viên Đàm và Viên Thượng, Lưu Biểu sai Lưu Bị mang quân tấn công Hứa Xương. Nhưng quân Lưu Bị chỉ tiến đến huyện Diệp thì lực lượng được Lưu Biểu giao quá ít ỏi không thể tiếp tục tác chiến, phải rút lui. Lưu Biểu giữ chủ trương “ngồi xem thành bại” trong nhiều năm, không can dự vào việc tranh hùng ở trung nguyên. Lúc Tào Tháo mới mang quân đi xa lên đánh Liễu Thành, Lưu Bị khuyên Lưu Biểu đánh úp Hứa Xương nhưng ông không theo. Sau này Tào Tháo thắng trận trở về, Lưu Biểu ân hận vì không nghe theo Lưu Bị. Như vậy qua đó chúng ta thấy được sự chờ thời nó đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự thành bại, cùng với sự mưu trí thì sự nắm bắt cơ hội là một điều rất cần thiết tạo nên những chiến công trong sự nghiệp của những anh hùng. Và hình tượng Tào Tháo cũng chính là hình ảnh của một con người biết chờ thời ví như trong cuộc thu phục Quan Công. Vì yêu mến tài năng và nghĩa khí của Quan Công cho nên Tháo đã tìm mọi cách đối xử tốt với Quan Công nhằm thu phục, dù nhiều lần Quan Công từ chối nhưng Tháo vẫn gắng thu phục bằng được, thử hỏi nếu như không biết tận dụng cơ hội thu phục lòng người thì liệu rằng các lực lượng Ngô, Ngụy, Thục có dễ dàng có những vị quân sư tài ba như vậy, bởi vậy điều mà chúng ta dễ nhận thấy là một khi có ai tiến cử một người nào đó giúp sức cho mình thì cả Tôn Quyền, Lưu Bị, và Tào Tháo đều gắng mời họ đến giúp sức, đó chính là biểu hiện của những con người biết nắm bắt cơ hội vậy.Ví như trong hồi thứ 31 trong lúc Viên Thiệu đánh Tào khiến Tào phải thua bỏ chạy, Thiệu đuổi theo, hai bên đánh nhau mà vẫn không phân chia thắng bại, Hứa Nhu khuyên Thiệu không nên động binh, Thiệu tức giận làm Hứa Nhu sang đầu hàng Tào, bày kế đánh Thiệu khiến Thiệu bị thua trận. Tào liền đem quân đánh Ký Châu nhưng phải đợi sang Thu, sợ bọn Lưu Bị nhân cơ hội Tào tấn 9 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung công Hà Bắc sẽ chiếm Hứa Đô của Tào nên Tào bèn đánh chiếm Nhữ Nam ngăn Lưu Bị. Huyền Đức Bị thua phải cầu cứu Lưu Biểu. Thấy binh lính mỏi mệt Tào không thể đánh Ký Châu ngay mà phải đợi đến sang Thu và chuyển qua đánh Thiệu. Như vậy Tháo cũng là một con người biết chờ thời, nắm thời và điều đó đã tạo nên những thành công của Tháo sau này. Tóm lại chúng ta có thể thấy hình ảnh của một con rồng ẩn trong đám mây chính là sự tượng trương cho con người biết chờ thời, chính sự chờ thời và nắm bắt cơ hội sẽ là một tiền đề quan trọng cho sự thành công trong cuộc chiến giữa các lực lượng, nhưng điều quan trọng là không chỉ dừng lại ở sự chờ thời mà người anh hùng phải biết quyền biến trong mọi hoàn cảnh, biến cái không thành có, một khi có cơ hội thì phải hành động một cách mạnh mẽ nhằm thu phục thiên hạ, bởi vậy hai mặt này phải có sự thống nhất hài hòa với nhau, đó chính là một sự tinh tế trong cách nhìn nhận của La Quán Trung về hình tượng của người anh hùng vậy. II.2. Người anh hùng là người biết quyền biến, nắm bắt cơ hội và hành động mạnh mẽ Qua đoạn trích ta thấy quan niệm Tào Tháo ở điểm nổi bật đó chính là chú ý đến tài năng cá nhân phải hơn người, phải có mưu trí, tính quyết đoán. Người anh hùng không phải bao giờ cũng thành công hết mà cái quan trọng là phải biết chờ thời nắm bắt cơ hội nhưng khi đã hành động thì phải tung hoành thiên hạ cho phỉ chí làm trai, thỏa nguyện bậc đại trượng phu. Tháo là một con người thông minh, sắc sảo rất tự tin ở chính mình, bởi vậy Tháo mới dám nói “anh hùng trong thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi” và ngầm ý chỉ mình hơn Lưu Bị. Theo Tào Tháo người anh hùng phải biết chờ thời bởi vậy ông xem Lưu Bị cũng là một con rồng ẩn náu mình trong mây, đang tìm cách rời đồng khô để vào bể lớn. Còn Tháo là con rồng đang bay cao vút trên bầu trời và đang muốn bay cao hơn nữa, từ quan niệm này ta cũng thấy phần nào tính cách tự đắc của Tào Tháo. Chúng ta thấy rằng những bình luận về người anh hùng của Tào Tháo nhìn chung đều đúng và đúng với cả tương lai khi hầu hết họ đều bị tiêu diệt hoặc thất bại. Đó là sự tài tình của một đôi mắt nhìn xa trông rộng và sắc sảo của Tào Tháo. Như vậy, qua đoạn trích hồi 21 “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng” chúng ta có thể thấy được bản chất của hai nhân vật Tào Tháo và Lưu Bị. Một người có chí lớn nhưng phải che giấu, một người vì lo ngại trước ý chí phi thường của người kia 10 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung mà phải thăm dò, xét thử. Nhưng qua cuộc nói chuyện trên, phần nào ta cũng thấy được người anh hùng bên trong suy nghĩ của Tào Tháo và Lưu Bị là như thế nào. Qua cách nghĩ và cách suy luận của hai nhân vật, La Quán Trung cũng đã gửi gắm quan niệm của mình về hình tượng người anh hùng. Thiết nghĩ nếu quan niệm rằng người anh hùng là phải lập được chiến công và thành danh, quyết đoán và quyết làm với mục đích làm bá vương làm cho dân chúng phải quỵ lụy thì chúng ta thấy rằng La Quán Trung hoàn toàn đồng ý với quan niệm của Tào Tháo. So sánh với Tào Tháo ta thấy Lưu Bị quá nhân từ và có phần không quyết đoán, chính điều này là mộ trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại sau này. Ngược lại Tháo rất mạnh tay trong mọi việc chính điều đó đã tạo nên sự thành công, như vậy xét phần nào ta thấy La Quán Trung có phần ủng hộ quan niệm của Tào Tháo. Lòng nhân nghĩa phải đi liền với sự cương quyết thì mới thành công, Tháo dù không nhân từ nhưng cũng thành công chính là vì thế. Nhưng nếu xét về quan niệm rằng người anh hùng là người lấy được lòng dân thì thiết nghĩ với tư tưởng “ủng Lưu phản Tào” thì chúng ta thấy rằng La Quán Trung hoàn toàn đồng ý với quan niệm của Lưu Bị. Dù họ không đạt được mục đích cuối cùng là tồn tại và tồn tại với cái uy lực lẫy lừng nhưng họ cũng đã phần nào thành danh trong cuộc đời của mình. So sánh với Lưu Bị chúng ta thấy ông đã trở thành người hùng trong lòng dân chúng, điều nhân nghĩa trong tư tưởng của Lưu Bị không thể nào lung lay được. Với Tào Tháo là đạp lên trên chữ “nhân” dù thành công nhưng lòng dân không phục, ngược lại Lưu Bị dù không thành công trên con đường sự nghiệp nhưng lại trở thành người hùng trong lòng nhân dân. Như vậy dường như La Quán Trung đang đặt ra câu hỏi cho muôn thời đại về vấn đề quan niệm như thế nào về người anh hùng là đúng, xã hội như thế nào sẽ chấp nhận người anh hùng như thế này hoặc thế khác, hoặc là vừa phải có cái nhân của Lưu Bị và có cái gian của Tào Tháo. Và có lẽ thiết nghĩ hợp lý hơn cả sẽ là sự tổng hòa của hai con người Lưu Bị và Tào Tháo như vậy vừa được lòng dân mà vừa được sự nghiệp. Tào Tháo nói Lưu Bị và Tháo là anh hùng nhưng thiết nghĩ trong lúc này đây La Quán Trung đang ngầm ý muốn hợp nhất hai con người này lại với nhau như thế mới đáng là anh hùng trong thiên hạ.Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn quan niệm của tác giả, chúng ta không thể dừng lại ở mỗi hồi 21 mà phải tìm hiểu toàn bộ tác phẩm, xét trên phương diện khái quát và tổng thể. 11 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung III. Quan niệm của La Quán Trung về hình tượng người anh hùng trong “Tam quốc diễn nghĩa” 1.Người anh hùng phi thường, xuất chúng Quan niệm về người anh hùng của La Quán Trung không chỉ được tập trung chủ yếu qua hai nhân vật Tào Tháo và Lưu Bị trong hồi thứ 21 mà nó bao trùm toàn bộ tác phẩm. “Tam quốc diễn nghĩa” được viết ra không chỉ ghi chép lại những sự kiện trong thời loạn lạc của lịch sử Trung Quốc mà còn gửi gắm những ước mơ của tác giả về một xã hội tốt đẹp hơn. Tất cả những nhân vật trong tác phẩm được khắc họa trên phương diện khí phách, mưu lược cùng tấm lòng trung nghĩa. Nhiều người được coi là bậc anh kiệt nhưng cũng có nhiều kẻ tầm thường. Có những người anh hùng cũng có những kẻ gian hùng. Dù vậy, nổi bật lên trong Tam quốc chính là hình tượng những người anh hùng dũng cảm, tài nghệ phi thường, sống có lí tưởng. Hình tượng người anh hùng xuất chúng được thể hiện rất rõ qua nhân vật Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân, Điển Vi, Hoàng Trung, Mã Siêu,… với tài nghệ đánh giặc cao cường, làm ai nấy khi được chứng kiến đều phải nể phục, khen ngợi. Họ đều là những tướng giỏi, hết lòng thờ chúa, làm nên những chiến công vang dội trong việc giao tranh với kẻ thù. Tài năng của những anh hùng này đều được lấy từ thước đo là lòng dũng cảm và sức mạnh phi thường, địch nổi muôn người. Trước hết, ta có thể kể đến Quan Công- người anh hùng đẹp đẽ nhất trong lịch sử thời Tam quốc. Ông được miêu tả là người cao chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phụng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt. La Quán Trung đã tập trung rất nhiều bút lực để miêu tả tài năng xuất chúng và tính cách nghĩa khí của Vân Trường. Quan Công chém rớt đầu của Hoa Hùng xong mà chén rượu rót ra vẫn còn nóng hổi (Hồi 5), giết chết hai tướng mạnh là Nhan Lương và Văn Xú của Viên Thiệu để đáp lại ơn của Tào Tháo. Sau đó, Quan Công lại một mình một ngựa vượt qua năm ải và chém hết sáu tên tướng Tào để bảo vệ hai phu nhân của Lưu Bị. Những việc làm này không phải bất cứ người thường nào cũng có thể làm được. Tài nghệ của Quan Công đều được đặt trong những thử thách thực sự, luôn phải đối đầu với những đối thủ có sức mạnh phi thường. Chính trong những hoàn cảnh đó, sự chiến thắng của Quan Công càng tôn lên vẻ đẹp oai hùng, xuất chúng cũng như tinh thần dũng cảm của một vị tướng tài ba. Có những đoạn tài năng của ông được miêu tả bằng giọng văn hết sức hào hùng, tỏ rõ khí phách hiên ngang của 12 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung bậc anh hào. Sau khi từ giã Tào Tháo đi tìm Lưu Bị, Quan Công chém chết sáu tướng qua ải và gặp lại Trương Phi nhưng lại bị Trương Phi nghi ngờ về lòng trung nghĩa, Quan Công đã chứng minh bằng cách chém đầu tướng Thái Dương của Tào Tháo chỉ trong vòng chưa đầy một hồi trống: “Quan Công chẳng thèm nói thèm rằng cứ vung Thanh long đao vỗ ngựa đến. Thanh long đao vừa vung ra, đầu Thái Dương đã rụng xuống đất. Trên thành Trương Phi chưa đánh hết một hồi trống” (Hồi 28, tr459- tập 1). Không chỉ có tài xuất chúng khi ra trận, ngay cả trong những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt của cuộc sống Quan Công lại chứng tỏ được sức mạnh phi thường, không ai sánh nổi. Lúc Quan Công bị trúng độc, cách điều trị duy nhất là phải róc thịt, cạo xương để lấy hết chất độc ra ngoài. Đối với một người bình thường, việc ấy quả thật không hề đơn giản và có vẻ phóng đại nhưng Quan Công vẫn tỏ ra thản nhiên đánh cờ trong khi ai nhìn thấy cũng phải sợ hãi rùng mình. Hoa Đà đã thất kinh mà nói rằng: “Tôi chưa bao giờ thấy một người có khí phách như thế này, thật tiếng đồn chẳng sai” (Hồi 75, tr 588- tập 2). Cái tài của Quan Công khiến ai nghe thấy cũng phải nể sợ, chính vì thế mà ông được coi là một trong “ngũ hổ tướng quân” của đất Thục. Như thế, khi nói về sức mạnh phi thường thì Quan Công không chỉ được biết đến ngoài tài chiến đấu mà trong cuộc sống, sự kiên cường của ông vẫn luôn được khẳng định và đề cao. Bên cạnh Quan Công là bậc hào kiệt không ai sánh bằng, vẫn còn rất nhiều chân dung người anh hùng cái thế, sức mạnh địch nổi muôn người mà chúng ta không thể bỏ qua đó chính là Trương Phi. Quan Công và Trương Phi đều có sức mạnh hơn người. Trương Phi mình cao tám thước, mắt tròn, râu hùm hàm én, tiếng vang như sấm, mắt phượng mày tằm, vô cùng oai phong lẫm liệt. Cái tài của Trương Phi đã được bộc lộ ngay từ những ngày đầu diệt giặc Khăn Vàng, cùng Quan Công và Lưu Bị lập nhiều chiến công lớn. So với Quan Công, Trương Phi có phần nóng nảy nhưng khí phách thì luôn luôn giữ vững cho dù hoàn cảnh nào. Như khi Lưu Bị bị Tào Tháo đuổi đến Cẩu Trường Bản, Trương Phi đã tỏ rõ được sự oai phong, phi thường của mình chỉ bằng một tiếng hét vang như sấm khiến ai cũng phải giật mình hoảng sợ. Tào Tháo nghe tiếng Trương Phi thì luôn tỏ ra đề phòng, lo lắng: “Trương Phi xông vào chỗ trăm vạn quân, lấy đầu thượng tướng dễ như lấy vật trong túi. Nay gặp hắn ở đây, chúng ta chớ nên giao đấu” (Hồi 42, tr57- tập 2). Điều thật đáng khen là tiếng hét của Trương Phi oai lực đến nỗi khiến tướng của Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt sợ hãi vỡ mật chết tươi. Thực ra đây là một yếu tố hư cấu, phóng đại nhằm khẳng định, ngợi ca khí phách và sức mạnh hơn người của 13 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung Trương Phi. Đã có rất nhiều lần Trương Phi lập công không phải bằng sức mà bằng mưu lược đúng đắn. Vậy nên ta có thể khẳng định rằng Trương Phi là một anh hùng xuất chúng trong thiên hạ, một hình tượng nhân vật sống động nhưng mang tính toàn vẹn nhất, thực tế nhất trong Tam quốc. Người anh hùng phi thường, xuất chúng trong tác phẩm còn được thể hiện qua rất nhiều nhân vật mà chủ yếu đều xoay quanh các chư tướng của hai thế lực Tào Tháo và Lưu Bị. Một trong những người thuộc bộ “ngũ hổ tướng quân” của nước Thục đó chính là Triệu Tử Long- người anh hùng đại diện cho sự trung thành tiết nghĩa. Tài năng của Triệu Vân được đánh giá và nhìn nhận qua nhiều chi tiết lớn nhỏ khác nhau, đặc biệt là những khi ông phải đối diện với những hiểm nguy. Vì có tài mà Triệu Vân được Lưu Bị vô cùng khâm phục và mến mộ nên sau khi rời Công Tôn Toản, Triệu Vân đã gặp được Lưu Bị và suốt đời trung thành, cống hiến nhiều chiến công vang dội. Lúc Huyền Đức dắt dân qua sông, Triệu Vân có nhiệm vụ bảo vệ gia quyến Huyền Đức nhưng giữa đường không may để bị lạc, Triệu Vân đã một mình xông pha vào trận quyết cứu được hai phu nhân. Triệu Vân đã chém chết Hạ Hầu Ân, dù bị vây kín giữa trận Tào nhưng ông vẫn không hề nao núng mà tiếp tục giục ngựa xông vào đám quân Tào chém giết, vừa chém vừa hỏi thăm tin tức hai phu nhân. Sau khi cứu được Á Đẩu, Triệu Vân cũng một mình một ngựa đâm chết Ẩn Minh, giao đấu với Trương Cáp. Lúc bị sa xuống hố, bốn mặt đều có quân Tào, Triệu Vân đã quyết chiến một lúc với bốn tướng: “Triệu Vân rút rút bảo kiếm Thanh Cang ra chém loạn đả. Lưỡi kiếm bay đến đâu chặt cụt thương, chém toác giáp, đầu rơi, máu đổ như suối đến đó” (Hồi 41, tr 53- tập 2). La Quán Trung đã dùng những lời lẽ rất oai hùng để miêu tả tài năng của Triệu Vân: “Tính ra trận ấy, Triệu Vân một mình một ngựa phá bao nhiêu vòng vây, chém gãy hai cây cờ lớn, cướp ba ngọn giáo dài, và trước sau đã giết hơn một trăm viên tướng Tào bỏ mạng” (Hồi 41, tr 54- tập 2). Cũng giống như Quan Công và Trương Phi, Triệu Vân cũng thể hiện được bản lĩnh và sức mạnh hơn người trong những hoàn cảnh hết sức nguy hiểm. Nhưng chính trong những thời khắc đó, hình tượng và bản chất anh hùng của Triệu Vân mới càng được bộc lộ rõ và khẳng định. Về sau, cái khí phách của Triệu Vân vẫn được ca ngợi mặc dù tuổi tác đã cao nhưng vẫn chém liên tiếp các tướng Hàn Anh, Hàn Quỳnh, Hàn Dao, Hàn Đức khiến quân lính đều trầm trồ ngợi khen khí phách của ông như lúc trai trẻ. Như vậy, Triệu Vân là một nhân vật anh hùng có tính cách khá trầm tĩnh nhưng luôn hăng hái, xông pha mọi trận chiến dù là khó khăn nhất. 14 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung Những anh hùng có sức mạnh phi thường không chỉ được nhắc đến xoay quanh tướng của Lưu Bị mà có các nhân vật tiêu biểu của Tào Tháo như là Điển Vi- một tướng tài rất được Tào Tháo trọng dụng. Ngay từ buổi đầu gặp Tào Tháo, Điển Vi đã thể hiện được tài nghệ của mình khiến ai cũng phải nể phục: “Tào Tháo bảo Điển Vi múa kích thử xem. Điển Vi liền cắp đôi kích nhảy lên ngựa, đi đi lại lại múa veo veo. Giữa lúc đó bỗng có ngọn gió thổi đến làm xiêu ngọn cờ lớn trước trướng. Quân sĩ xúm lại giữ không nổi. Điển Vi từ trên lưng ngựa nhảy xuống quát bảo quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm cán cờ dựng đứng lên, để mặc cho cờ tung bay, gió tự do thổi” (Hồi 11, tr182- tập 1). Rõ ràng sức mạnh ấy của Điển Vi đã được hư cấu, phóng đại và không phải người bình thường nào cũng có thể làm được. La Quán Trung cũng dành không ít lời khen khi miêu tả sự oai phong của Điển Vi. Đặc biệt trong hồi 26, cái chết của Điển Vi như minh chứng cho một khí phách ngang tàng, xả thân vì cứu chúa: “Điển Vi vung gươm chạy ra chặn cửa, giết luôn một lúc hơn hai mươi người. Nhưng quân kỵ vừa lui, quân bộ lại tới, hai bên gươm giáo đâm tua tủa như rừng gai. Điển Vi không có mảnh giáp che thân, bị đâm trên dưới vài chục mũi thương, vẫn cố liều chết mà đánh. Rồi gươm bị sứt mẻ không dùng được nữa, Vi liền quăng gươm, hai tay nắm xác hai tên lính, vung lên mà quật vào quân giặc. Lại quật được tám chín tên”. Chính trong lúc gặp nguy hiểm, Điển Vi đã dùng tất cả sức mạnh để chiến đấu và đã hi sinh một cách anh dũng nhất. Cái chết của Điển Vi đã khiến Tào Tháo vô cùng thương tiếc vì cảm phục trước lòng trung thành và tài năng xuất chúng của ông. Còn rất rất nhiều người anh hùng được coi là phi thường, xuất chúng, hơn người được La Quán Trung đề cao và khen ngợi như Hoàng Trung, Mã Siêu, Cam Ninh, … mà ở mỗi nhân vật tác giả đều tập trung khai thác khía cạnh tài năng cũng như tinh thần vì chúa của họ. Vì là những người anh hùng có sức mạnh đặc biệt nên họ đều được yêu mến và trọng dụng. Có những chương vô cùng cảm động về tình huynh đệ, tình vua tôi khi viết về sự xả thân, hi sinh của những tướng tài để đáp lại ơn nghĩa của chúa. Có thể nói, hình tượng người anh hùng phi thường, xuất chúng trong Tam quốc là hình tượng nổi bật, xuyên suốt mọi thời đại, mọi không gian và thời gian. Không chỉ bắt gặp hình tượng người anh hùng này trong “Tam quốc diễn nghĩa” mà trong những tác phẩm văn học cổ Trung Quốc, người anh hùng có sức mạnh được nói đến rất nhiều và nó đã trở thành một thước đo giá trị con người. Như trong “Thủy Hử” viết về 108 anh hùng Lương Sơn Bạc với võ nghệ cao cường và ý chí chiến đấu xả thân vì nghiệp lớn. Nói như vậy để thấy rằng, người anh 15 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung hùng đầu tiên phải là người có tài năng xuất chúng, phải được mọi người kính trọng, khâm phục. Nhưng không phải bất cứ ai có tài năng thì đều trở thành người anh hùng. Người có tài nhưng bất nghĩa, vô mưu, sống gian dối, xảo quyệt thì người đó không còn là bậc anh hùng mà là kẻ tầm thường. Như trong tác phẩm ta vẫn thấy nhân vật Lữ Bố là người có sức mạnh vô địch mà đến Quan Công, Trương Phi cũng phải nể phục. Lữ Bố có lần đã đấu với ba anh em Lưu, Quan, Trương và cũng nhiều lần lập được nhiều chiến công lừng lẫy. Tuy nhiên, Lữ Bố bị coi là kẻ thất phu, sống hai mặt, bất nghĩa. Lữ Bố đã giết cha nuôi Đinh Nguyên, theo Đổng Trác, về sau lại giết Đổng Trác chỉ vì Điêu Thuyền. Khi gặp phải khó khăn, Huyền Đức hết lòng giúp đỡ nhưng Lữ Bố lại nhân lúc Huyền Đức đi vắng đã đánh chiếm Từ Châu. Lữ Bố cũng được coi là kẻ hữu dũng vô mưu, luôn ỷ vào tài năng của mình nên cuối cùng dẫn đến thất bại. Như thế, Lữ Bố mặc dù là kẻ có sức mạnh phi thường nhưng phần nào vẫn là một kẻ tầm thường, không phải là hình mẫu lí tưởng của bậc anh hùng xuất chúng. Quan niệm về người anh hùng của La Quán Trung không chỉ dừng lại ở biểu hiện tài năng con người mà còn đi sâu vào tâm hồn, tính cách để khắc họa những hình tượng anh hùng toàn vẹn cả nhân lẫn trí, cả dũng lẫn mưu. 2. Người anh hùng trọng “nghĩa” Chữ “nghĩa” là một trong những khía cạnh thuộc về nhân cách cao đẹp của con người, thể hiện tinh thần, thái độ sống nhân nghĩa, có lí tưởng. Người được coi là anh hùng bên cạnh tài năng còn phải là người sống nghĩa khí. Chữ “nghĩa” không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là nhân nghĩa, nghĩa hiệp mà nói rộng hơn đó là trung nghĩa và cả tín nghĩa; tức là lòng trung thành, có trước sau, luôn phấn đấu và hi sinh vì lí tưởng đẹp đẽ; nghĩa tức là nói ra phải làm, đã hứa thì phải thực hiện. Trong tác phẩm này, hình tượng người anh hùng trọng nghĩa được khắc họa nổi bật nhất chính là Lưu Bị- một vị vua nổi tiếng nhân từ, nghĩa khí ngay từ những ngày đầu khởi binh lập nghiệp. Tư tưởng xuyên suốt tam quốc được La Quán Trung tập trung thể hiện qua nhân vật Lưu Bị và Tào Tháo. Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy rằng, Lưu Bị là hình mẫu lí tưởng cho một người anh hùng vẹn toàn còn Tào Tháo không chỉ mang khí phách anh hùng mà còn mang bản chất của một kẻ gian hùng. Sự đối lập, trái ngược nhau trong hai hình tượng nhân vật này đã tạo nên sự sinh động, phong phú và cũng rất chân thực trong quan niệm anh hùng của tác giả. Như đã nói ở trên, 16 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung người anh hùng trong Tam quốc chính là những người rất dũng cảm trong chiến trận và trọng tình nghĩa cụ thể là tình vua tôi, tình huynh đệ, tình bạn bè,… Với 120 hồi với rất nhiều tình tiết hấp dẫn, thú vị, nhiều người được ngợi ca bằng giọng điệu hết sức oai hùng, thể hiện được phần nào khí chất anh dũng của người trai thời chiến. Trước hết, ta có thể nói về Lưu Bị- người mẫu lí tưởng cho hình tượng người anh hùng toàn vẹn cả nhân lẫn trí. Lưu Bị tuy xuất thân là một người dệt chiếu, đóng giày nhưng là người có chí lập nghiệp lớn. Sau khi kết nghĩa anh em với Quan Vũ, Trương Phi, Lưu Bị đã chiêu hiền đãi sĩ, dấy binh giúp triều đình diệt giặc Khăn Vàng, diệt trừ phản tặc Đổng Trác. Sau đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, có khi phải nương nhờ Lữ Bố, Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Biểu nhưng chưa có khi nào Lưu Bị tỏ ra hèn nhát, suy kiệt tinh thần. Bằng sự dũng cảm, Lưu Bị đã một mình thoát khỏi vòng vây khi bị Thái Mạo truy kích ở Đàn Khê. Không những thế, Lưu Bị còn được biết đến là người nhân nghĩa, là vị chúa được nhân dân tôn thờ, kính trọng. Khi Lữ Bố có ý sang đầu hàng, Lưu Bị lấy nghĩa mà đối xử, vui mừng coi trọng Lữ Bố. Sau đó, Lữ Bố lại quay sang cướp Từ Châu, buộc Lưu Bị đóng quân nơi Tiểu Bái, Lưu Bị vẫn không có ý trả thù. Khi Khổng Minh tỏ ý muốn Lưu Bị đem quân đánh Kinh Châu, lấy đó làm gốc mà chống lại Tào Tháo, Lưu Bị lúc này đang mang ơn Lưu Biểu nên không nỡ làm việc ấy và đã nói rằng “Ta thà chết chứ không làm điều phụ nghĩa” (Hồi 40, tr 23- tập 2).Vì tấm lòng luôn nghĩ đến nhân dân mà ông đã không bỏ chạy mà vừa đi vừa dẫn bá tính đi theo, một ngày đi được mười dặm (Hồi 41). Khi Bàng Thống hiến kế lấy Ích Châu, Lưu Bị một mực không đồng ý vì ông đặt chữ nghĩa lên hàng đầu. Vốn Lưu Chương và ông đều là dòng dõi hoàng tộc và lại không có hiềm thù. Nếu chiếm Ích Châu, ông sẽ bị mang tiếng bất nghĩa. Vì vậy, Lưu Bị nói rằng: “Hiện nay có một kẻ địch khắc ta như nước với lửa. Đó là Tào Tháo. Tào Tháo gay gắt, ta khoan hồng; Tào Tháo tàn bạo, ta nhân đức; Tào Tháo gian dối xảo quyêt, ta trung hậu thật thà…Mọi việc của hắn đều trái với ta hết. Nay nếu vì lợi nhỏ làm tổn thất thanh danh thì nhất định ta không bao giờ thi hành” (Hồi 60, tr 344- tập 2). Chính vì trọng nhân nghĩa mà Lưu Bị quyết không làm những điều ông cho là sai trái. Rất nhiều lần Lưu Bị bỏ qua cơ hội nhưng cũng không ít lần chính tấm lòng nhân nghĩa của ông đã chinh phục được lòng người. Như khi Trương Tùng muốn dâng Thục cho Tào Tháo, Tào Tháo y thế mình hơn người nên coi thường Trương Tùng. Ngược lại, Lưu Bị lại đối đãi với Trương Tùng rất hậu, sai Triệu Vân, Quan Công ra tận nơi đón vào và còn bày tiệc rượu thết đãi. Vì vậy, Trương Tùng tỏ ra rất kính trọng, khâm phục Lưu Bị: “Minh công là thân thuộc nhà Hán, lại nổi tiếng nhân từ 17 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung khắp nơi. Đừng nói đến việc chiếm châu quận giả thử thay bậc chính thống lên ngôi Hoàng đế cũng còn được mà” (Hồi 60, tr 336- tập 2). Hầu như đi đến đâu, tấm lòng nhân nghĩa của Lưu Bị đều được mọi người ca tụng.Đến khi Lưu Bị chiếm được Hán Trung, đánh bại Tào Tháo, các chư tướng đều muốn Lưu Bị xưng đế nhưng ông nhất quyết không đồng ý, coi hành động đó là hành động phản quốc, không đúng lòng người. Phải từ chối nhiều lần, phân lẽ nhiều phen Lưu Bị mới chấp nhận lên ngôi Hoàng đế. Việc nhỏ ấy thôi cũng nói lên được sự trọng nghĩa khí của Lưu Bị. Sự nhân nghĩa của Lưu Bị còn được thể hiện qua cách ông đối xử với các tướng, không những coi họ theo nghĩa chúa tôi mà còn lấy tình cảm để mà đáp lại sự nhiệt thành của họ. Khi Lưu Bị gặp Triệu Vân, ông đã rất vui mừng, tình cảm chân thành, lưu luyến: “Khi ta mới gặp Tử Long, ta đã đem lòng lưu luyến rồi. Nay được gặp nhau còn mừng nào hơn” (Hổi 28, tr 465). Vì cảm mến tấm lòng của Lưu Bị, Triệu Vân đã rất trung thành, hết lòng phục vụ: “Tôi đã rong ruổi khắp bốn phương, thờ cũng nhiều chúa, không có ai được bằng Sứ quân. Nay tôi đã gặp chúa, thật là phỉ chí bình sinh, dù phải phơi gan trải mật, tôi cũng không nản lòng” (Hồi 28, tr465). Cho đến cuối đời, Lưu Bị vẫn dùng nghĩa mà gửi gắm Thái tử cho Triệu Vân: “Trẫm với khanh từ lúc hoạn nạn đến giờ, khổ sướng có nhau, không ngờ hôm nay phải chia lìa nơi đây! Vậy trẫm gởi gắm con trẫm cho khanh, khanh ráng giúp đỡ nó, chớ phụ lời trẫm dạy đó” (Hồi 85, tr 99- tập 3). Không chỉ đối với Triệu Vân mà với Quan Công, Trương Phi ông đã dùng tình nghĩa huynh đệ bên cạnh nghĩa vua tôi để mà đối xử. Sau khi kết nghĩa tại vườn đào, cả ba người đã trải qua nhiều sướng khổ, hoạn nạn, vui buồn. Tình nghĩa của họ đã tốn không ít lời ngợi ca, trân trọng của La Quán Trung. Sau khi nghe Quan Công bị Tôn Quyền chém chết, Lưu Bị đã khóc rống lên, ngất lên ngất xuống nhiều lần. Về sau lại nghe tin Trương Phi bị ám sát, Lưu Bị đã thân chinh tự mình cất quân đánh Đông Ngô báo thù cho hai em. Cái nghĩa khí năm xưa khi kết nghĩa vườn đào vẫn không hề mất đi sau bao năm chinh chiến đến lúc Lưu Bị lập nên nghiệp lớn. Lời nói của ông đã khiến nhiểu người vô cùng cảm động: “Ta với Quan, Trương ngày kết nghĩa Vườn Đào thề cùng sống chết. Nay Vân Trường thác đi, lẽ nào lại ngồi đây hưởng thụ phú quý một mình?” (Hồi 78, tr5- tập 3). Còn rất nhiều những biểu hiện đáng ngưỡng mộ của Lưu Bị thể hiện lòng trung nghĩa. Như với Từ Thứ, Lưu Bị rất trọng dụng, coi trọng tài năng của ông. Nhưng vì Tào Tháo lập mưu khiến Từ Thứ phải rời Lưu Bị về gặp mẹ, ông đã rất buồn. Khi nghe Tôn Càng nói nếu để 18 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung Từ Thứ về ắt được Tào Tháo trọng dụng, còn nếu giữ lại chắc chắn Từ Thứ sẽ giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo trả thù, Lưu Bị đã lắc đầu và nói: “Làm cho kẻ khác dùng người mẹ, để mình dùng người con, ấy là bất nhân! Cố giữ lại không cho đi, khiến người ta phải dứt tình mẫu tử, ấy là bất nghĩa! Ta thà chết chứ không thể bất nhân bất nghĩa” (Hồi 36, tr582- tập 1). Nhân cách cao đẹp ấy đã khiến Từ Thứ rất cảm phục, hết lòng giúp đỡ Lưu Bị và hứa sẽ không bao giờ hiến kế giúp Tào Tháo. Và để có được Gia Cát Lượng, Lưu Bị phải ba lần đến tìm kiếm, ba lần khổ sở gặp mặt, lấy tấm chân tình để mà thuyết phục lòng người. Có thể nói, trong thiên hạ không có ai nhân nghĩa như Lưu Bị. Hình tượng Lưu Bị hiện lên như một đấng anh hùng cái thế nhưng tấm lòng vô cũng nhân từ, trọng nghĩa. Như ban đầu đã khẳng định, hình tượng Lưu Bị chính là ước mơ của tác giả về một đấng minh quân trong thời đại loạn lạc. Qua nhân vật này, có thể khẳng định hình tượng người anh hùng phải vừa có tài vừa có tâm, bên cạnh dũng cảm còn phải là người nhân nghĩa. Những người anh hùng như Lưu Bị luôn được mọi người ủng hộ, yêu mến. Bên cạnh Lưu Bị, nhân vật Quan Công cũng được coi là một người anh hùng dũng cảm, sống trọn tình trọn nghĩa. Tinh thần dũng cảm đã khiến cho những người anh hùng sẵn sang xả thân vì nghiệp lớn mà Quan Vũ chính là hình tượng đẹp đẽ nổi bật nhất. Vì lúc ấy Lưu Bị thua trận phải qua đầu Viên Thiệu, Tào Tháo thừa thế mua chuộc Quan Công, trọng đãi rất hậu nhằm khiến Quan Công cảm phục mà từ bỏ Lưu Bị. Nhưng bằng tấm lòng trung thành và nghĩa hiệp, Quan Công đã khẳng định “hàng Hán chứ không hàng Tào”. Những ngày nương nhờ Tào Tháo, ông đã làm tròn bổn phận của kẻ bề tôi thờ chúa, giết chết hai tướng của Viên Thiệu, lập công báo ân. Nhưng sau khi biết được tin tức của Lưu Bị, Quan Công nhất quyết đi tìm dù cho Tào Tháo dùng bao nhiêu lời lẽ thuyết phục cùng với vàng bạc ban thưởng. Quan Công đã từ chối tất cả và cũng xin được ra đi trong minh bạch, quyết từ biệt Tào Tháo rồi mới ra đi: “Đã sinh làm người trong trời đất, nếu không trọn nghĩa, chẳng phải đấng trượng phu. Lúc tôi đến đây minh bạch, nay đi cũng phải minh bạch….” (Hồi 26, tr431- tập 1). Biết Quan Công là người trọng nghĩa, Tào Tháo từ chối gặp mặt để giữ Quan Công ở lại. Nhưng với Quan Công, tình nghĩa anh em sâu hơn trời biển, lời thề năm nào vẫn luôn vẹn nguyên nên ông đã quyết định ra đi dù cho Tào Tháo làm cách nào để cản trở. Điều đáng là ta khâm phục nhất chính là tất cả những của cải Tào Tháo ban thưởng, Quan Công đều niêm phong để lại, không đem theo bất cứ thứ gì, chỉ cùng những người tùy tùng cũ và hai phu nhân lên đường hội ngộ với Lưu Bị. Vì cảm phục 19 Quan niệm vềề hình tượng người anh hùng của La Quán Trung trước nghĩa khí của Quan Công, Tào Tháo đã đích thân ra tiễn đưa trong ngậm ngùi, thương tiếc. Sau đó, Quan Công liên tiếp vượt qua năm ải của tướng Tào, chém rơi đầu sáu tướng dám ngăn cản (Hồi 27). Một mình một ngựa, lại phải mang trọng trách bảo vệ hai phu nhân nhưng Quan Công vẫn thản nhiên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Có những đoạn, khí phách của Quan Công được ca ngợi bằng giọng văn hào sảng, tỏ rõ bản chất của bậc anh hùng cái thế trong thiên hạ. Người ta vẫn thường nhận xét, Quan Công là một người “tuyệt nghĩa”, luôn đặt chữ nghĩa lên hàng đầu và suốt đời sống, làm trọn theo quan niệm trọng nghĩa đó. Người đời sau đã ca ngợi về phẩm chất đẹp đẽ của Quan Công: Phong vàng niêm ấn bỏ Tào man, Bươn bả tìm anh vượt dặm ngàn. Xích Thố tung ngàn vạn dặm, Thanh Long chém tướng vượt ngũ quan. Tấm lòng trung nghĩa mù trời đất, Chí khí anh hùng nức thế gian. Chém tướng như chơi ai địch nổi, Xưa nay sùng kính khói hương lan… Như vậy, nhân vật Quan Công là đại diện tiêu biểu cho hình tượng người anh hùng trọng nghĩa. Bên cạnh cái tài được mọi người chấp nhận thì Quan Công nổi tiếng là người trung nghĩa và cả tín nghĩa. Dù là trong quan hệ vua tôi hay quan hệ xã hội, Quan Công vẫn luôn làm tròn bổn phận, trách nhiệm cũng như coi trọng lời hứa của mình. Vì trọng nghĩa khí mà Quan Công đã thả Tào Tháo ở Hoa Dung. Ngày trước, Quan Công qua ải chém mất năm tướng của Tào Tháo và khi nhớ lại sự hậu đãi của Tào Tháo đối với mình, Quan Công đã để Tào Tháo đi và tự mình trói mình về xin chịu tội. Việc làm của Quan Công đã chứng mình tinh thần trọng nghĩa dù là trong hoàn cảnh nào chăng nữa. Tấm gương về chữ “nghĩa” đến Quan Công được bộc lộ vô cùng hào hùng. Còn nhiều hình mẫu lí tưởng về người anh hùng trọng nghĩa mà tác phẩm thể hiện. Có thể kể đến Triệu Vân cũng là một trong những anh hùng nghĩa hiệp hay là Khổng Minh cũng là trang kiệt xuất về chữ nghĩa và mưu lược. Triệu Vân ban đầu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan