Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư nước ngoài về lĩnh vực du lịch...

Tài liệu Quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư nước ngoài về lĩnh vực du lịch

.PDF
88
390
141

Mô tả:

Chuyên ngành: / Kinh tế - Quản lý / Quản lý nhà nước Sơ lược: Mục đích của luận văn là nhằm nêu lên toàn diện thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với lĩnh vực du lịch tại tỉnh Bình Thuận từ năm 1988 đến nay, đánh giá những đóng góp của nó trong nền kinh tế xã hội của tỉnh, cũng như những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. Luận văn cũng hệ thống lại các văn bản pháp lý của Trung ương và địa phương về vấn đề này, nêu lên các nhân tố tác động, những cơ hội, thách thức trong thời gian tới; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp thiết thực đồng bộ trong quản lý Nhà nước, góp phần đề xuất, gợi ý cho địa phương đẩy mạnh được thu hút đầu tư nước ngoài trong việc phát triển ngành du lịch..
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: Nằm tận cùng của dải đất miền Trung nhiều nắng gió, tiếp giáp với Vũng Tàu - Đồng Nai – Thành phố Hồ Chí Minh đầy năng động, bên cạnh Lâm Đồng sương mù thơ mộng; biển trời Bình Thuận thật hiền hòa, êm ả và quyến rũ lòng du khách. Với 192 km bờ biển, hàng trăm ngàn ha rừng tự nhiên, những đồi cát, những hòn đảo thơ giữa biển, những con thác, con suối..., thiên nhiên đã ưu đãi cho Bình Thuận một tiềm năng du lịch thật tuyệt vời. Nếu như đất Bình Thuận ngày xưa chỉ được biết đến với sự khô hanh, toàn nắng và cát, thì ngày nay miền đất ấy đã thay đổi hoàn toàn. Nếu những du khách đã từng đặt chân tới Bình Thuận nhận xét về nơi đây, họ sẽ bảo rằng: “Mảnh đất và con người Bình Thuận thật hiền hòa như chính tên gọi của nó”. Sức sống mãnh liệt của đất và người Bình Thuận đang trỗi dậy, để biến nơi đây thực sự là “Điểm đến của thiên niên kỷ mới”. Có thể thấy rõ ràng rằng du lịch chính là lợi thế phát triển của Bình Thuận. Khi mà tiềm lực kinh tế của tỉnh còn nhiều yếu kém, thì việc phát triển du lịch dựa vào tiềm năng tự nhiên trời phú là một hướng đi đầy triển vọng cho nền kinh tế của tỉnh. Nhận thức được tiềm năng ấy, chính quyền tỉnh Bình Thuận đã quyết định đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, và hơn thế nữa, sự phát triển của ngành dịch vụ này sẽ kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành nghề khác như tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, công nghiệp - xây dựng... Mục tiêu là vậy, nhưng để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực phấn đấu. Không chỉ là sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân địa phương, mà còn nhờ đến sự chung tay góp sức của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vốn là một tỉnh nghèo, nội lực chưa đủ mạnh, Bình Thuận vẫn rất cần đến các nhà đầu tư bên ngoài để tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển. Từ khi có chính sách mở cửa của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Việt Nam đã phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện giao lưu quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư. Từ đó đến nay, hoạt động đối ngoại của ta không ngừng phát triển mạnh mẽ, và theo đó là sự xuất hiện với vị thế ngày càng được khẳng định của lĩnh vực đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế. Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta “một thành phần mới xuất hiện và hình SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN thành ngày càng rõ nét trong những năm gần đây: thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. Việc nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp tối ưu để phát triển nền kinh tế này một cách có hiệu quả đang là mối quan tâm của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, cốt để làm sao khai thác được tiềm năng và lợi thế so sánh cho từng vùng. Cũng giống nhiều tỉnh thành khác, Bình Thuận hiện nay cũng phải ra sức thu hút đầu tư nước ngoài, mà quan trọng hơn cả là đầu tư cho du lịch, nhằm phát triển một ngành công nghiệp xanh theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà tỉnh đã đề ra. Hiện nay, trên cả nước có hơn 100 Resort thì Bình Thuận đã có tới 79 Resort, trở thành nơi có nhiều Resort nhất Việt Nam. Tuy nhiên tất cả các cơ sở lưu trú của tỉnh chưa phải là tốt nhất, chưa có nhiều Hotel và Resort cỡ lớn, đạt tiêu chuẩn cao cấp; mà điều đó hầu như chỉ có thể được đáp ứng bởi các nhà đầu tư nước ngoài với quy mô vốn lớn và trình độ quản lý du lịch cao. Bên cạnh đó, mặc dù đã xuất hiện từ những năm đầu của thập kỷ 90, nhưng cho đến nay, số lượng dự án đầu tư nước ngoài về du lịch ở Bình Thuận vẫn còn khá ít ỏi. Tại sao lại như vậy? Và giải pháp nào cho vấn đề này? Đó là những câu hỏi đang đặt ra cho các nhà lãnh đạo tỉnh Bình Thuận. Và cũng từ những yêu cầu cấp bách đó, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VỀ LĨNH VỰC DU LỊCH TẠI TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2006 2010” để nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp cử nhân Hành chính hệ chính quy. Nội dung luận văn sẽ tìm hiểu xem tại sao nhà đầu tư lại lựa chọn Bình Thuận để đầu tư du lịch; doanh nghiệp FDI sẽ cần gì ở địa phương khi quyết định đầu tư một dự án, và Bình Thuận hiện đã đáp ứng được tới đâu các nhu cầu đó của nhà đầu tư. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tìm ra nguyên nhân, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển du lịch - một ngành công nghiệp xanh cho tỉnh Bình Thuận. 2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: ♦ Mục đích của luận văn là nhằm nêu lên toàn diện thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với lĩnh vực du lịch tại tỉnh Bình Thuận từ năm 1988 đến nay, đánh giá những đóng góp của nó trong nền kinh tế xã hội của tỉnh, cũng như những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. Luận văn cũng hệ thống lại các văn bản pháp lý của Trung ương và địa phương về vấn đề này, nêu lên các nhân tố tác động, những cơ hội, thách thức trong thời gian tới; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp thiết thực đồng bộ trong quản lý Nhà nước, góp phần đề xuất, gợi ý cho địa phương đẩy mạnh được thu hút đầu tư nước ngoài trong việc phát triển ngành du lịch của tỉnh nhà. ♦ Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 2 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN - Nêu các khái niệm, đặc đểm của đầu tư nước ngoài và của ngành du lịch. - Nghiên cứu các nhân tố tác động đến quy mô dòng vốn đổ vào địa phương, thực trạng và xu hướng của dòng vốn FDI trong bối cảnh hiện nay - Nghiên cứu thực trạng đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. - Phân tích hệ thống chính sách của Trung ương và địa phương trong lĩnh vực này. - Phân tích những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân. - Đề ra những giải pháp Quản lý nhà nước nhằm tạo ra môi trường đầu tư tốt hơn, thu hút đầu tư nước ngoài cho phát triển du lịch của địa phương, đồng thời tạo được sự chặt chẽ trong quản lý dự án, tiến tới một đô thị du lịch bền vững. ♦ Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Đầu tư nước ngoài gồm có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên, tại Bình Thuận nói riêng và nhiều tỉnh thành khác nói chung, hiện nay vốn đầu tư gián tiếp (mà chủ yếu là vốn hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA), và vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ) hầu như chỉ đầu tư vào phát triển các lĩnh vực mang tính chất xã hội, cộng đồng, như: trường học, bệnh viện, đường giao thông nông thôn, điện nước sinh hoạt nông thôn..., chứ không đầu tư vào phát triển kinh tế du lịch. Do đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung vào nghiên cứu dưới góc độ quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (gọi tắt là FDI) trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. 3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của Đảng ta về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, lịch sử, so sánh, tổng hợp, để từ đó đề ra giải pháp thực tiễn. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 3 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI LĨNH VỰC DU LỊCH 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ DU LỊCH: 1.1.1. Khái niệm, các hình thức và vai trò của đầu tư nước ngoài: 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài: ™ Khái niệm: Trong cuộc sống, đầu tư là một hoạt động rất phong phú, đa dạng, do đó cũng có khá nhiều cách hiểu về khái niệm này. Xét theo nghĩa gốc, «đầu tư» (Investment) là chỉ sự chi phí, hi sinh các nguồn lực ở hiện tại (thời gian, sức lực, tiền bạc...) vào hoạt động nào đó của con người nhằm thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai. (Trích Tài liệu tham khảo số [23]) Người Pháp có sự phân biệt rõ ràng giữa 2 khái niệm «Đầu tư» (investissement) và «dùng tiền sinh lãi» (Placement). Placement tức là dùng tiền để mua thứ gì đó cho thuê chẳng hạn, vậy nó sinh lời cho người đó nhưng thực ra tổng đầu tư xã hội không tăng. Còn investissement là xây nhà máy, xây dựng cơ sở vật chất, trồng cây nông lâm nghiệp...,hoạt động này làm tăng tổng đầu tư xã hội. [16] Người Mỹ lại không phân biệt những khái niệm này. Họ gọi chung đầu tư và dùng tiền sinh lãi là «investment». [16] Theo Luật đầu tư năm 2005, Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Pháp luật. [2] Như vậy, để phân biệt một hoạt động có phải là đầu tư hay không, ta có thể dựa vào 2 đặc trưng sau của đầu tư : - Tính sinh lãi: mục đích của việc đầu tư là sinh lãi. Chẳng hạn nếu như ta bỏ tiền ra chỉ để mua một thứ hàng hóa cho tiêu dùng thì không gọi là đầu tư vì nó không vì mục đích sinh lãi. - Tính rủi ro: Mục đích của đầu tư là sinh lãi, nhưng không phải hoạt động đầu tư nào trên thực tế cũng có lãi, mà có khi bị lỗ. Đó là do SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 4 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN thuộc tính thứ hai này của đầu tư. Rủi ro cao hay thấp tuỳ thuộc vào loại hình đầu tư, nhưng đầu tư thì luôn đi liền với rủi ro. Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau nhằm đạt một hoặc một số mục tiêu cụ thể được thực hiện trong một thời hạn nhất định, dựa trên những nguồn lực nhất định. Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất, hoạt động có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ dùng cho đầu tư trực tiếp). Để thực hiện dự án đầu tư, chủ thể thực hiện gọi là chủ đầu tư. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn, người vay vốn hoặc người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật. Đầu tư gồm có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta chỉ đề cập đến hình thức «đầu tư trực tiếp». Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. [1] Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam) đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và trực tiếp điều hành quá trình sản xuất kinh doanh đó. Về bản chất, đầu tư nước ngoài là một hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn xuất khẩu hàng hóa. [23] ™ Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài thực chất là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức là vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm tối đa hóa lợi ích của mình. Nguyên nhân cơ bản của sự di chuyển vốn đầu tư dưới hình thức này là do có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận xuất phát từ lợi thế so sánh khác nhau giữa các quốc gia. Xu thế tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính ngày càng tăng trên thế giới hiện nay chính là điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển vốn đầu tư trên thế giới. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 5 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN Đầu tư trực tiếp nước ngoài biểu hiện sự gặp nhau giữa cung và cầu, đó là giữa lợi ích của nhà đầu tư và nhu cầu của nước tiếp nhận đầu tư. Khi việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận, các nhà đầu tư có sự chuyển hướng đưa vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng được chi phí sản xuất rẻ hơn. Còn đối với nước nhận đầu tư, FDI sẽ là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước, đổi mới công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế... Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu tuỳ theo quy định trong luật đầu tư của nước chủ nhà. Chẳng hạn như ở Việt Nam, luật Đầu tư nước ngoài quy định số vốn góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án. Quyền quản lý công ty phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu đóng góp 100% vốn thì công ty hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành. Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Lời và lỗ được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế lợi tức cho Nhà nước. Tại các nước đang phát triển, FDI khác với các nguồn vốn đầu tư khác ở chỗ: FDI có khuynh hướng bổ sung vào đầu tư tư nhân và khu vực mậu dịch và làm gia tăng đầu tư trong khu vực tư nhân. Trong khi đó viện trợ hoặc các khoản vay từ ngân hàng nước ngoài có khuynh hướng bổ sung vào khu vực công và sản xuất hàng hoá phi mậu dịch. Mà thực tế cho thấy, tác động của đầu tư tư nhân lên tăng trưởng kinh tế mạnh hơn so với đầu tư của chính phủ, do đó, FDI chứng tỏ tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế hơn là bất cứ luồng vốn nước ngoài nào khác. So với các hình thức đầu tư khác như nguồn hỗ trợ chính thức ODA, viện trợ phi chính phủ NGOs... , FDI có một số mặt tích cực như sau: ¾ FDI không để lại gánh nặng nợ cho các nước nhận đầu tư như các hình thức vay, viện trợ ODA.... ¾ Đầu tư FDI khá bền vững vì nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn như đầu tư gián tiếp. Nếu nước sở tại có bất ổn, khủng hoảng thì dù cho nhà đầu tư có muốn rút vốn cũng không thể rút được ngay vì vốn của họ nằm trực tiếp trên nhà xưởng, thiết bị của nước nhận đầu tư. ¾ Nước tiếp nhận đầu tư không chỉ cò thể bổ sung nguồn vốn như các hình thức viện trợ khác mà còn tiếp nhận cả khoa học công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến... từ phía nhà đầu tư. ¾ FDI thích hợp cho mọi trình độ phát triển của đất nước, từ nước đang phát triển đến nước phát triển đều cần FDI. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 6 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN ™ Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta hiện nay: Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều hình thức đầu tư. Theo cách phân chia của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, có 3 hình thức đầu tư sau : 1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. 2. Doanh nghiệp liên doanh. 3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. [2] Cùng với chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam cũng như xu thế hội nhập của quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến môi trường đầu tư ở Việt Nam, các hình thức đầu tư cũng ngày càng đa dạng hơn. Theo Luật đầu tư 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm các hình thức đầu tư như sau : 1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài. 2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. 3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT. 4. Đầu tư phát triển kinh doanh. 5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. 7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác. [1] Î Các hình thức đầu tư trên có thể gom lại thành 4 nhóm chính như sau: Nhóm 1: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế: Tổ chức kinh tế có thể gồm 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tổ chức kinh tề có thể là: a) Doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; b) Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính khác theo quy định của pháp luật; c) Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi; d) Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Nhóm 2: Đầu tư theo hợp đồng SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 7 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN Có nhiều hình thức đầu tư theo hợp đồng, trong đó điển hình có các hình thức: BCC, BOT, BTO, BT. ¾ Hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC: Hợp đồng BCC là tên gọi tắt của Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract) Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân. [1] Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng. ¾ Hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT: Hợp đồng BOT là tên gọi tắt của Hợp đồng xây dựng – kinh doanh chuyển giao (Building – Operating – Transfering) Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. [1] ¾ Hình thức đầu tư theo hợp đồng BTO: Hợp đồng BTO là tên gọi tắt của Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (Building – Transfering – Operating) Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. [1] ¾ Hình thức đầu tư theo hợp đồng BT: Hợp đồng BT là tên gọi tắt của Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (Building – Transfering). Hợp đồng xây dựng - chuyển giao là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT. [1] SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 8 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN Nhà đầu tư ký kết hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các dự án xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành các dự án kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ quy định lĩnh vực đầu tư, điều kiện, trình tự, thủ tục và phương thức thực hiện dự án đầu tư; quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT. Nhóm 3: Đầu tư phát triển kinh doanh Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức sau đây: 1. Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh; 2. Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường. Nhóm 4: Góp vốn, mua cổ phần và sáp nhập, mua lại Hình thức này bao gồm cả việc mua cổ phần, góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư hoặc đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành, nghề và điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của Pháp luật. 1.1.1.2. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam trong công cuộc CNH – HĐH: Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay, tư duy lý luận của Đảng ta đã được đổi mới và có những tiến bộ đáng kể. Vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tuởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa ra những đường lối chính sách đúng đắn có được những thành công to lớn, tạo nên thế và lực cho đất nước. Với những chủ trương ấy, Đảng ta không những đã nhận được sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, mà còn nâng cao uy tín trên trường quốc tế; từ đó mà các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày một tăng lên, phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần vào việc huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, FDI cũng đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 9 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng trong cơ cấu kinh tế của cả nước, đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn cho phát triển. Có thể thấy rõ điều này qua bảng sau: 1995 2000 2002 Cả nước 100,0 1000,0 1000,0 - Kinh tế Nhà nước 40,2 39,0 38,3 - Dân doanh 53,5 47,8 47,8 - FDI 6,3 13,2 13,9 (Nguồn: Cục Thống kê: Niên giám thống kê 2002 – NXB Thống kê 2003 [23]) Có thể nói trong thời gian qua, FDI đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế nước ta, khai thác hiệu quả các tiềm năng phát triển của đất nước, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập và xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa vì lợi ích chung, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001 – 2005) tổng vốn FDI đăng ký đạt 18,1 tỷ USD, và thực hiện được 13,6 tỷ, chiếm gần 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giá trị xuất khẩu không kể dầu khí đạt 34,2 tỷ USD , chiếm trên 31% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 3,4 tỷ USD. [18] Quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là quá trình tích tụ và tăng trưởng các nguồn lực như vốn, kỹ năng lao động, công nghệ. Các nước nghèo như nước ta thường bị vướng vào một vòng lẩn quẩn: thu nhập thấp do đó tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư, vốn đầu tư thấp dẫn đến không phát triển được sản xuất kinh doanh, không nâng cao được thu nhập của người lao động, thu nhập thấp lại dẫn đến tích lũy thấp... Do đó, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp sẽ là nguồn vốn bổ sung rất quan trọng cho các nước nghèo trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì đầu tư nước ngoài là một nguồn vốn rất quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù tài nguyên thiên nhiên của chúng ta dồi dào, nguồn nhân lực lớn, nhưng do tốc độ phát triển kinh tế chậm chạp, tỷ lệ gia tăng dân số lại nhanh; do đó, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác luôn rơi vào tình trạng thiếu SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 10 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN vốn để đầu tư sản xuất và tự biến mình thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của các nước khác. Để đánh thức các tiềm năng, lợi thế của đất nước nhằm phát triển kinh tế quốc gia, chúng ta rất cần vốn đầu tư. Do vậy, ngoài nguồn vốn hạn hẹp trong nước, cần phải tăng cường thu hút nguồn đầu tư dồi dào ở nước ngoài. Trong công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước hiện nay, đầu tư nước ngoài có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế - xã hội, cụ thể là: - Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp giải quyết về lao động.Trong 5 năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta đã thu hút được khoảng 86 vạn lao động trực tiếp.. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao khả năng quản lý kinh doanh. Do được tiếp xúc với trình độ quản lý kinh doanh tiên tiến của các nước, công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia đã giúp các nhà quản lý kinh doanh trong nước nâng cao trình độ quản lý kinh doanh của mình, từ đó nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài đẩy nhanh tiến trình cải tiến máy móc, công nghệ. Thông qua đầu tư nước ngoài, các nước nhận đầu tư đã có dịp tiếp cận với máy móc, công nghệ hiện đại, giúp rút ngắn khoảng cách về khoa học kỹ thuật với các nước tiên tiến. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cải thiện cơ sở hạ tầng. Ngoài việc các nhà đầu tư tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nước chủ nhà cũng tích cực cải thiện cơ sở hạ tầng của mình để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần gia tăng tài sản cho quốc gia thông qua thu nhập của người lao động, thuế thu được... làm cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo sự cạnh tranh cho các thành phần kinh tế cùng phấn đấu. Thực tế cho thấy, khả năng huy động FDI cho phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay còn rất lớn. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, dự kiến trong thời gian tới sẽ phải huy động hơn nữa FDI, để tỷ trọng của nguồn vốn này chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội. Có thể thấy mức độ tăng tỷ trọng đó trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 như sau: SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 11 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN Đơn vị: Nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành) Ước thực hiện 2000-2005 Kế hoạch 2006 - 2010 Tổng số Cơ cấu (%) Tổng số Cơ cấu (%) TỔNG SỐ 1191,2 100 2675 100 Vốn thuộc khu vực Nhà nước 619,4 52 1203 45 Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 345,3 29 911 34,1 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 193,5 16,2 460,5 17,2 Nguồn vốn khác 33,0 2,8 100,5 3,7 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) [18] 1.1.2. Khái niệm, các hình thức và vai trò của ngành du lịch: 1.1.2.1. Khái niệm: Tại Pháp, người ta gọi du lịch là “Le tourisme”. Chữ này có nguồn gốc từ danh từ “le tour” tức là đi một vòng. “Le Tour” có nghĩa đen là sự lữ hành được kết thúc bằng việc quay về điểm xuất phát ban đầu. Yếu tố căn bản của du lịch là sự ra đi hay lữ hành. Tuy nhiên trong du lịch loại trừ những trường hợp du canh du cư, tức là phải có định cư mới có du lịch. Nói cách khác, du lịch chỉ được tính đối với người có nơi cư trú định cư thường xuyên ở một nơ nào đó của một quốc gia. Sau chuyến lữ hành, du khách lại trở về nơi sống thường xuyên của mình. [27] Trước đây, người ta cho rằng thời gian ra đi của một du khách không được ít hơn 24 giờ và không nhiều quá 3 tháng. Nhưng ngày nay, người ta cho rằng thời gian ra đi có thể ít hôn 24 giờ, nhưng đòi hỏi du khách phải nghỉ đêm ở khách sạn hoặc mua các loại dịch vụ du lịch ở nơi đến. Du khách cũng có thể đi du lịch với thời gian dài hơn 3 tháng, 6 tháng hoặc hơn nữa, nhưng đòi hỏi đến lúc nào đó du khách phải trở về nơi thường xuyên sống của mình. [27] Trước đây, người ta không công nhận sự làm việc của du khách ở nơi đến để nhận thu nhập. Người ta cho rằng du lịch chỉ thuần tuý là sự nghỉ ngơi hoặc dưỡng bệnh, thăm hỏi... Ngày nay người ta cho phép du khách có SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 12 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN thể kết hợp công việc (hội họp, tìm hiểu thị trường, tiếp xúc, giao dịch, thể thao, tôn giáo...) trong chuyến đi du lịch của mình.[27] Theo Luật Du lịch 2005, “Du lịch” là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. [3] Liên quan đến khái niệm du lịch còn có một số khái niệm sau: “Khách du lịch” là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. [3] “Hoạt động du lịch” là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. [3] “Đô thị du lịch” là đô thị có lợi thế phát triển du lịch và du lịch có vai trò quan trọng trong hoạt động của đô thị. [3] “Sản phẩm du lịch” là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. [3] Tùy theo mục đích của chuyến đi mà người ta chia ra làm nhiều loại du lịch khác nhau như: − Du lịch để giải trí, dưỡng bệnh, hồi phục sức khoẻ. − Du lịch sinh thái, tìm hiểu môi trường thiên nhiên khác lạ, giao lưu với các nền văn hóa, dân tộc khác nhau. − Du lịch vì mục đích nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán... − Du lịch kết hợp với thăm hỏi, đoàn tụ, lễ tết, nghỉ ngơi... − Du lịch kết hợp với thể thao, hội hè, tôn giáo. − Du lịch kết hợp với hội thảo, ngoại giao, văn hóa nghệ thuật, nghiên cứu thị trường, triển lãm, buôn bán, giao dịch, hội chợ... − Du lịch vì nhu cầu nếp sống hưởng thụ với chất lượng cao của tầng lớp thượng lưu như chơi gofl, sống trên tàu du lịch... SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 13 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN 1.1.2.2. Các hình thức du lịch ở nước ta và ở tỉnh Bình Thuận hiện nay: Các hình thức du lịch ở nước ta hiện nay khá đa dạng, phong phú. Tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng mà có lợi thế phát triển cho một số những loại hình du lịch khác nhau. Nhìn chung những hình thức du lịch phổ biến nhất ở nước ta hiện nay là: ™ Hình thức du lịch nghỉ dưỡng: Đây là một trong những hình thức du lịch phổ biến nhất ở nước ta hiện nay. Du lịch nghỉ dưỡng là hình thức du lịch gắn với các hoạt động nghỉ ngơi, thư giãn của khách du lịch, thường là ở các khách sạn nhà hàng, ở các resort, khu du lịch nghỉ dưỡng... ™ Hình thức du lịch sinh thái: Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triền bền vững. Du lịch sinh thái thông thường gồm hai loại hình là du lịch sinh thái rừng và du lịch sinh thái biển. ™ Du lịch dã ngoại: Du lịch dã ngoại là hình thức du lịch gắn với những hoạt động vui chơi sinh hoạt tập thể, cắm trại, gắn với thiên nhiên. ™ Du lịch Spa: Đây là một hình thức du lịch khá mới mẻ. Du lịch Spa là du lịch gắn với phục hồi sức khỏe, chữa bệnh, làm đẹp. ™ Du lịch Văn hóa, tín ngưỡng: Du lịch Văn hóa, tín ngưỡng là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc, tôn giáo với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. ™ Du lịch Mice: Du lịch Mice là một hình thức Du lịch - Hội thảo, tức là hoạt động du lịch được lồng ghép vào các chuyến đi hội thảo của du khách. Đây cũng là một hính thức du lịch mới mẻ và đang được nghiên cứu phát triển. ™ Du lịch làng nghề: SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 14 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN Tại Việt Nam có rất nhiều những làng nghề truyền thống, đó là một thuận lợi để phát triển du lịch làng nghề, tức là hình thức du lịch gắn với việc tham quan mua sắm tại các làng nghề truyền thống. ¾ Do lịch sử phát triển du lịch còn khá mới mẻ, tại Bình Thuận hiện nay hầu như chỉ mới phát triển vài loại hình du lịch như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch dã ngoại, còn các hình thức du lịch khác còn rất ít ỏi. Thực tế, Bình Thuận có tiềm năng để phát triển tất cả các loại hình du lịch. Thiên nhiên phong phú với cả cảnh rừng và cảnh biển có thể phát triển du lịch sinh thái và du lịch dã ngoại. Với một số lượng Resort thuộc loại nhiều nhất nước, Bình Thuận là một điểm dừng lý tưởng cho du lịch nghỉ dưỡng. Các nguồn nước khoáng thiên nhiên, suối nước nóng... là điều kiện để phát triển du lịch Spa. Bính Thận cũng là một tỉnh rất đông người Chăm sinh sống, nhiều tôn giáo phát triển và nhiều loại hình văn hóa, lễ hội đặc sắc, do đó dễ dàng thu hút khách du lịch vào hình thức du lịch văn hóa, tín ngưỡng. Ở đây cũng có rất nhiều những làng nghề truyền thống như nghề cá, nghề làm nước mắm... có thể phát triển du lịch làng nghề. Đặc biệt ở Bình Thuận, các khu vực đô thị thường hay tổ chức hội họp lại nằm kề với những nơi có nhiều phong cảnh đẹp (như Phan Thiết, ...), vì vậy loại hình du lịch Mice rất có tiềm năng phát triển. [17] 1.1.2.3. Vai trò của ngành du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội: Du lịch là một ngành quan trọng trong khối ngành dịch vụ - một khối ngành chiến tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế hiện đại. Để tiến lên Công nghệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nước ta là phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trong đó giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, chúng ta phải ra sức phát triển các ngành dịch vụ mũi nhọn. Nước ta là một nước có tiềm năng lớn về du lịch với rất nhiều những cảnh quan đẹp, một nền văn hóa lâu đời và vật giá khá rẻ, là những yếu tố hấp dẫn đối với khách du lịch. Vì vậy chiến lược phát triển kinh tế xã hội của ta đã xác định coi du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển du lịch sẽ kéo theo sự phát triển trên nhiều lĩnh vực khác, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. − Sự mua hàng hóa trực tiếp của du khách đã tạo ra khả năng xuất khẩu tại chỗ, kích thách các ngành sản xuất trong nước, nhất là các mặt hàng truyền thống và hàng thủ công mỹ nghệ (như dệt thổ cẩm, thêu, đan lát, gốm sứ, tranh ảnh...) − Du lịch giúp tạo ra các lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch, các vườn quốc gia, công viên du lịch..., đẩy mạnh việc bảo vệ môi sinh, môi trường. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 15 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN − Du lịch là cơ sở giúp bảo tồn các nền văn hóa dân tộc truyền thống, tôn tạo và giữ gìn các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, phục hồi và bảo vệ các khu phố cổ, phục chế các di phẩm văn hóa. − Du lịch giúp giải quyết việc làm cho khá nhiều lao động, kể cả những lao động trực tiếp làm trong ngành du lịch lẫn lao động làm trong các ngành nghề khác chẳng hạn như buôn bán hàng hóa cho du khách. − Du lịch là chất xúc tác cho sự phát triển và đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế khác. Ngành du lịch của nước ta trong thời gian qua đã có những bước phát triển nhanh và trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thu hút cả khách du lịch trong và ngoài nước. Năm 1990, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chỉ có 250.000 lượt, khách du lịch nội địa 1 triệu lượt. Năm 1998 đã có trên 3.000 khách sạn với trên 50 nghìn buồng, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm đến 10%. Sau năm 2000 ngành du lịch Việt Nam lại khởi sắc sau sự giảm sút do khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thu hút hơn 2 triệu khách nước ngoài và 13 triệu khách trong nước, với doanh thu hơn 2 tỷ USD. Năm 2004, lượng khách du lịch quốc tế xấp xỉ 3 triệu lượt (tăng 11 lần so với năm 1990), khách nội địa 14,5 triệu lượt (tăng 14,5 lần so với 1990). Thu nhập xã hội từ du lịch tăng từ 1.350 tỷ đồng năm 1990 lên 26.000 tỷ đồng năm 2004. [28] 1.1.3. Các nhân tố tác động đến quy mô dòng vốn đầu tư đổ vào các địa phương: Để thu hút đầu tư nói riêng và quản lý nhà nước về đầu tư nói chung, nhà lãnh đạo cần phải nắm rõ đâu là những nhân tố có tác động trực tiếp lên quy mô dòng vốn, từ đó tìm ra những giải pháp khắc phục nhược điểm và phát huy điểm mạnh. Có rất nhiều yếu tố tác động đến quá trình đầu tư của một dự án, trong đó có thể kể đến 7 nhân tố quan trọng chủ yếu sau: Thứ nhất: Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên có tác động đến quy mô dòng vốn nhiều hay ít tuỳ theo từng lĩnh vực đầu tư cụ thể. Riêng đối với lĩnh vực du lịch thì điều kiện tự nhiên là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến đầu tư. Một khí hậu tốt, phong cảnh đẹp, đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi sẽ là động lực thu hút các dòng vốn đổ vào đầu tư du lịch. Thứ hai: Qui mô thị trường của tỉnh Quy mô thị trường là một chỉ tiêu quan trọng để đo lường hiệu quả các hoạt động kinh tế của tỉnh. Quy mô thị trường càng lớn thì càng cung cấp SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 16 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư. Nói cách khác, quy mô thị trường tỷ lệ thuận với lợi thế kinh tế đầu tư. Một trong các chỉ tiêu quan trọng của quy mô thị trường là tổng sản phẩm nội địa GDP. Thứ ba: Trình độ phát triển kinh tế của tỉnh Trình độ phát triển kinh tế bao gồm các chỉ tiêu về kinh tế xã hội của một tỉnh. Mức độ phát triển kinh tế ngày càng cao không chỉ thể hiện các hoạt động kinh tế tốt và sức mua của thị trường ngày càng lớn mà còn bao hàm cả năng suất lao động, chất lượng lao động, công nghệ hiện đại, cơ sở vật chất hạ tầng tốt và môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện. Trình độ phát triển kinh tế của tỉnh có ảnh hưởng tỷ lệ thuận với dòng vốn đầu tư. Chỉ tiêu đo lường chính của nhân tố này là GDP bình quân đầu người. Thứ tư: Các chi phí lao động của tỉnh Theo nhiều nhà đầu tư khi tiến hành việc khảo sát môi trường đầu tư trước khi đầu tư, họ rất quan tâm đến vấn đề nguồn nhân lực tại chỗ và tính toán rất kỹ chi phí đầu tư cho tuyển dụng và đào tạo. Một trong những chi phí quan trọng nhất quyết định đến dòng vốn đầu tư là mức lương. Mức lương có quan hệ tỷ lệ nghịch với dòng vốn đầu tư. Tuy nhiên, mức lương còn tùy thuộc vào năng xuất lao động. Nếu năng suất lao động thấp thì mức lương sẽ thấp. Do đó chi phí lao động được các nhà đầu tư tính toán ở đây không phải là số tiền lương thực tế đơn thuần mà nhân công nhận được, mà là số tiền lương tính theo hiệu quả công việc. Do đó, đối với địa phương, một giá nhân công rẻ chưa đủ thu hút các nhà đầu tư mà còn kể đến trình độ năng lực làm việc của lao động. Thứ năm: Mức độ tích lũy đầu tư của tỉnh Mức độ tích lũy đầu tư có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư của nhà đầu tư. Mức độ tích lũy càng cao thể hiện môi trường đầu tư của tỉnh tốt, và thế là dòng vốn đầu tư đổ vào tỉnh lại càng nhiều. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tâm lý của các nhà đầu tư trong nước. Vì thông thường, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn là những người khởi đầu cho những địa điểm đầu tư mới lạ, và chính nhờ sự tích luỹ đầu tư ban đầu đó thúc đẩy các nhà đầu tư trong nuớc mạnh dạn đổ vốn đầu tư. Thứ sáu: Sự phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch, là hệ thống điện nước và hệ thống giao thông. Do đó, trước khi có những chính sách thu hút đầu tư, điều mà các nhà cầm quyền ở địa phương quan tâm là phải làm SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 17 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN sao có được một hệ thống cơ sở hạ tầng tối thiểu cho đầu tư và sẽ phải không ngừng phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đó ngày càng đầy đủ, hiện đại hơn. Thứ bảy: Các thể chế chính sách Đây là một nhân tố ít được quan tâm đúng mức, nhưng thực chất lại là một trong những nhân tố có ảnh hưởng hàng đầu đến việc đầu tư. Đó cũng là lý do tại sao có những tỉnh thành có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi nhưng lại không thu hút được nhiều đầu tư như những tỉnh thành khác. Nếu chính quyền địa phương tạo ra được một cơ chế chính sách thông thoáng cho đầu tư, hoặc hơn thế nữa là có sự hỗ trợ ưu đãi cho đầu tư, thì sẽ hấp dẫn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến yếu tố này. Trong tình hình hiện nay của các tỉnh có ngân sách eo hẹp, việc đầu tư cho các nguồn lực truyền thống (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...) khó khăn và cần thời gian dài; thì việc xem thể chế chính sách như một nguồn lực để phát triển là một lợi thế cứu cánh. Vì thể chế chính sách là một nguồn lực dễ tạo ra nhất, ít tốn kém nhất, cũng không đòi hỏi thời gian quá dài mới có được., trong khi tác dụng ảnh hưởng của nó đến việc thu hút đầu tư lại rất lớn. 1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ TỈNH THÀNH TRONG NƯỚC VỀ THU HÚT FDI VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH : 1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới: 1.2.1.1. Quản lý Nhà nước về các dự án FDI tại Hàn Quốc: Hàn Quốc là một quốc gia vươn lên từ những món nợ nần khổng lồ. Bắt đầu từ năm 1960, nợ nước ngoài của Hàn Quốc ngày càng tăng; cho tới năm 1971 đã tăng lên chiếm 30% trong tổng thu nhập từ nhập khẩu. Cùng với vấn đề quản lý nợ, Hàn Quốc còn phải đối đầu với sự suy yếu của kinh tế đất nước như giảm tỷ lệ gia tăng GNP và xuất khẩu, tỷ lệ lạm phát ngày càng tăng. Trước tình hình đó, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách để cải cách nền kinh tế, trong đó có việc chuyển từ chính sách hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài sang một chính sách có tính lưa chọn hơn. Năm 1973, Đạo luật khuyến khích đầu tư của nước ngoài (the Foreign Captail Inducement Act – FCIA) đã được thông qua nhằm khuyến khích những đầu tư nước ngoài phù hợp với mục đích phát triển của Hàn Quốc, và hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào các xí nghiệp mới. Ngoài ra, Chính phủ còn thiết lập một bộ máy hành chính khoa học, có hiệu quả để đáp ứng hoạt động đầu tư nước ngoài. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 18 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN MÔ HÌNH CƠ CẤU HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI HÀN QUỐC: Công ty trong nước (liên doanh) (1) (4) Bộ Tài chính (6) Công ty nước ngoài Cơ quan hải quan (5) (2) Các Bộ và cơ quan ngang bộ (3) FCIDC FCDRVC (FCIDC: Ủy ban xem xét khuyến khích vốn của nước ngoài. FCPRC: Ủy ban xem xét dự án vốn của nước ngoài.) Theo sơ đồ này, quá trình đầu tư nước ngoài vào Hàn Quốc theo các bước sau đây: - Các nhà đầu tư nước ngoài phải đệ trình dự án lên Bộ Tài chính để xin phép đầu tư. - Bộ Tài chính có thể tham khảo các Bộ tương ứng về tình hình nghiên cứu kinh tế và tính khả thi của các dự án được đề nghị, các Bộ tương đương sẽ chuyển các đánh giá của mình cho Bộ Tài chính. - Bộ Tài chính sẽ chuyển dự án chi tiết cùng với các ý kiến của các Bộ khác cho Ủy ban xem xét khuyến khích vốn của nước ngoài (Foreign Capital Inducement Deliberation Commitee – FCIDC) hay Ủy ban xem xét dự án vốn của nước ngoài (Foreign Capital Project Review Committe – FCPRC). - Sau khi được sự đồng ý của FCIDC hoặc FCPRC, Bộ tài chính sẽ cấp giấy phép cho dự án đầu tư nước ngoài. SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 19 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: Ts. ĐÀO ĐĂNG KIÊN - Sau khi được Bộ tài chính cấp giấy phép, nhà đầu tư nước ngoài phải đệ trình danh mục về hàng hóa và số tư bản cụ thể cho Bộ tương quan để xin phép loại hàng nhập khẩu. - Giấy phép này phải được chuyển cho cơ quan hải quan. Vào năm 1981, để nâng cao sức cạnh tranh của Hàn Quốc trên trường quốc tế, Chính phủ đã thông qua một chính sách thúc đẩy đầu tư trực tiếp. Theo đó đã loại bỏ hầu hết những điều khoản khắc nghiệt về đầu tư nước ngoài. Tiếp sau đó là hàng loạt những chính sách khác nhằm ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài. Điểm đáng lưu ý trong việc quản lý Đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc là chính phủ đã có một nền tảng hành chính rộng lớn để kiểm soát đầu tư của nước ngoài. Các nguyên tắc đã được áp dụng một cách linh hoạt nên chính phủ đã có quyền quyết định theo ý mình nội dung các dự án. Ví dụ: nếu như dụ án nào được coi là gắn liền với các vấn đề của quốc gia như: phát triển kinh tế, phúc lợi xã hội hay tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế; Bộ Tài chính có quyền thông qua các dự án này ngay cả khi dự án đó không được đề cập trong hướng dẫn chung. Đồng thời, chính phủ Hàn Quốc cũng khuyến khích đầu tư vào các liên doanh có tầm quan trọng đặc biệt. Ví dụ, nếu một dự án nào đó được coi là nhằm chuyển giao kỹ thuật thì việc thông qua dự án sẽ được áp dụng linh hoạt mà không tính đến tiền nộp tuỳ thuộc vào tài sản của đối tác trong nước. Các công ty nước ngoài liên doanh với những công ty cỡ vừa và nhỏ của Hàn Quốc có lợi từ những ưu tiên này. Nói chung, hệ thống quản lý của Nhà nước Hàn Quốc khá cứng rắn và hiệu quả, luôn đảm nhận một vai trò lớn hơn, áp đặt hơn và quyết đoán trong quan hệ với các nhà đầu tư. Chính phủ chỉ chấp nhận những dự án có khả năng thắng lợi tương đối chắc chắn rõ ràng và kiểm soát, điều tiết các hoạt động của đầu tư nước ngoài theo cách thức phù hợp với lợi ích quốc gia. 1.2.1.2. Những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Trung Quốc: Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc ra đời ngày 01 tháng 7 năm 1979 đến nay FDI được coi là chìa khoá vàng cho tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc. Có thể nói, Trung Quốc là một trong những quốc gia đạt được những thành công lớn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng đã tận dụng được FDI để thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những thành công như vậy, đó là nhờ Chính phủ Trung Quốc đã không ngừng nỗ lực để cải thiện môi trường đầu tư. Những nỗ lực đó tập trung vào một số điểm chính sau đây: SV: NGUYỄN THU HỮU HẠNH http://www.ebook.edu.vn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan