BÀI 6:
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
A.
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
Sau khi nghiên cứu, học tập, học viên cần nắm được:
- Các kiến thức cơ bản về quản lý ngân sách Nhà nước.
- Cơ chế phân định ngân sách Nhà nước và quy trình ngân sách Nhà nước .
- Cùng với nó, là nắm được cách thức tổ chức quản lý ngân sách Nhà nước .
- Rèn luyện các kỹ năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.
B.
BỐ CỤC BÀI GIẢNG: Gồm 3 phần chính
I. Ngân sách Nhà nước và hệ thống ngân sách Nhà nước.
II. Những nội dung cơ bản của quản lý ngân sách Nhà nước.
III. Tổ chức quản lý ngân sách Nhà nước.
C. PHƯƠNG PHÁP
I. Giảng viên
- Phương pháp diễn giảng, thuyết trình
- Phương pháp đàm thoại nêu vấn đề.
II. Học viên
- Tái hiện kiến thức
- Sử dụng sách, tài liệu là chính
D.CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình trung học chính trị, kinh tế học chính trị Mác-Lênin, tập
II ( Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh-Hà Nội năm 2004).
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin ( Khoa KTCT – Phân viện
Báo chí và Tuyên truyền- Nxb CTQG Hồ Chí Minh, H 2002).
3. Luật ngân sách Nhà nước năm 2002.
4. Tạp chí Kinh tế.
1
5. Tạp chí Cộng sản.
6. Các Văn kiện VIII, IX của Đảng về điều chỉnh bổ sung luật Ngân
sách Nhà nước.
7. Các tài liệu khác.
E. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
LỜI NÓI ĐẦU
Trong các xã hội hiện đại thì Nhà nước luôn có các chức năng, nhiệm vụ
về nhiều mặt như: Chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức
năng trấn áp và các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện được
các chức năng, nhiệm vụ đó thì Nhà nước cần phải đặt ra một quỹ tài sản để
chi cho những hoạt động của mình mà quỹ đó là do nhân dân, các thành phần
kinh tế, xã hội đóng góp vào theo quy định pháp luật của Nhà nước. Quỹ đó
được hình thành bởi thuế và các lệ phí và quỹ tài sản lớn nhất do Nhà nước
nắm giữ và quản lý đó chính là ngân sách Nhà nước. Đây là quỹ ngân sách cơ
sở vật chất đảm bảo cho Nhà nước tồn tại và hoạt động. Trong giai đoạn hiện
nay thì chức năng của Nhà nước thể hiện rõ nét nhất là chức năng kinh tế. Nhà
nước can thiệp vào các quá trình kinh tế để chỉnh sửa những sai lầm của thị
trường, để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và đảm bảo tính hiệu
quả, công bằng và ổn định của nền kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước là sự
can thiệp gián tiếp thông các chính sách cụ thể như chính sách thuế, thuế khóa,
chính sách chi tiêu và các luật lệ của Nhà nước. Như vậy bên cạnh bàn tay vô
hình của thị trường còn có bàn tay hữu hình của Nhà nước.
2
PHƯƠNG PHÁP
NỘI DUNG
I. NGÂN SÁCH VÀ HỆ THỐNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1. Ngân sách Nhà nước
a. Khái niệm của bản chất ngân
sách Nhà nước.
Trong lịch sử nhân loại, sự ra đời
của ngân sách Nhà nước gắn với sự
xuất hiện và tồn tại của Nhà nước. Để
đáp ứng những nhu cầu chi tiêu của bộ
máy quản lý và thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, xã hội như đảm bảo an
ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế,
Nhà nước huy động nguồn lực trong
xã hội để hình thành nên quỹ tiền tệ
tập trung. Quỹ đó chính là ngân sách
Nhà nước.
Vì vậy ngân sách Nhà nước là gì?
Là: một phạm trù kinh tế-lịch sử
gắn với chức năng, vai trò của Nhà
nước.
Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà
nước khá lâu, nhưng thuật ngữ “ngân
sách Nhà nước” lại xuất hiện muộn
hơn vào cuối chế độ phong kiến và
đầu thời kỳ TBCN.
Xét về mặt hình thức thì:
Ngân sách Nhà nước là một bảng
tổng hợp các khoản thu và khoản chi
3
của Nhà nước trong một năm tài chính
theo dự toán đã duyệt (năm tài chính
1-1 đến 31-12).
Nhưng xét về mặt bản chất kinh tế
thì:
Ngân sách Nhà nước thể hiện quan
hệ kinh tế giữa Nhà nước với các
doanh nghiệp, các đơn vị hành chính
sự nghiệp, các tổ chức dân cư với các
tổ chức trung gian tài chính và thị
trường tài chính.
Trong điều kiện nền kinh tế mở thì:
Ngân sách Nhà nước còn bao gồm
cả: các quan hệ kinh tế
giữa Nhà
nước với bộ phận Tài chính đối ngoại.
Nhìn bề ngoài thì:
Ngân sách Nhà nước là hoạt động
thu chi quỹ tiền tệ của Nhà nước là sự
vận động của các nguồn lực tài chính
giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế
xã hội khác (như doanh nghiệp, hộ gia
đình, các tổ chức xã hội ).
Luật ngân sách Nhà nước năm
1996 và luật sửa đổi Luật Ngân sách
Nhà nước năm 2002 của Việt Nam
quy định:
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan Nhà nước có
4
thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước.
Từ khái niệm trên ta có thể chú ý
đến mấy điểm sau:
- Ngân sách Nhà nước đó là dự
toán về thu-chi trong thời gian một
năm và được Quốc hội phê duyệt.
- Thu – chi phải được thực hiện
(tức là quyết toán hàng năm).
- Dự trữ thường xuyên không nằm
trong khái niệm ngân sách.
Tuy nhiên đằng sau hoạt động thu
– chi đó là các quan hệ kinh tế – xã
hội.
Vậy, bản chất của ngân sách ở đây
là:
Đó là mối quan hệ kinh tế- xã hội
giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế
khác trong nền kinh tế thông qua việc
tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Từ khái niệm và bản chất nêu trên,
ta có thể rút ra những điểm cơ bản của
ngân sách Nhà nước đó là:
- Thứ nhất: Hoạt động thu chi ngân
sách Nhà nước dựa trên quyền lực của
Nhà nước và gắn với việc thực hiện
5
các nhiệm vụ kinh tế xã hội của Nhà
nước.
- Thứ hai: Mọi hoạt động thu – chi
của ngân sách Nhà nước đều phải dựa
trên cơ sở pháp luật của Nhà nước,
như các luật: Pháp lệnh, chế độ, quy
định về huy động vào ngân sách và
chi tiêu ngân sách Nhà nước.
- Thứ ba: Quỹ ngân sách Nhà nước
được hình thành thông qua quá trình
phân phối lại dưới nhiều hình thức,
trong đó thuế là hình thức chủ yếu và
phổ biến nhất.
- Thứ tư: Đằng sau các hoạt động
thu – chi ngân sách Nhà nước là các
quan hệ kinh tế mà trước hết là quan
hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với
các chủ thể kinh tế xã hội.
b. Chức năng, vai trò của ngân
sách Nhà nước.
- Chức năng:
Cũng giống như tài chính, ngân
sách Nhà nước có hai chức năng chủ
yếu sau:
+ Thứ nhất, Chức năng phân phối:
Chức năng phân phối của ngân
sách Nhà nước là chức năng mà nhờ
6
vào đó mà các nguồn lực đại diện cho
những bộ phận của cải xã hội được
đưa vào quỹ tiền tệ khác nhau để sử
dụng cho các mục đích khác nhau,
đảm bảo những nhu cầu khác nhau và
những lợi ích khác nhau của đời sống
xã hội.
Phân phối của ngân sách Nhà
nước có những đặc điểm cơ bản sau:
. Phân phối của ngân sách Nhà
nước là phân phối chỉ diễn ra dưới
hình thức giá trị, nó không kèm theo
sự thay đổi hình thái giá trị.
. Phân phối của ngân sách Nhà
nước là sự phân phối luôn luôn gắn
liền với sự hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ nhất định.
. Phân phối của ngân sách Nhà
nước là quá trình phân phối diễn ra
thường xuyên, liên tục bao gồm phân
phối lần đầu và phân phối lại, trong đó
phân phối lại có phạm vi rộng lớn và
mang tính chất chủ yếu.
Quá trình phân phối tổng sản phẩm
xã hội dưới hình thức giá trị được tiến
hành như sau:
* Phân phối lần đầu được tiến hành
trong lĩnh vực sản xuất. Số doanh thu
7
này được phân phối cho các quỹ sau:
Quỹ bù đắp TLSX
Quỹ trả công cho người lao
động
Quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH,
BHYT).
Các khoản thuế nộp cho Nhà
nước phần còn lại là lợi nhuận doanh
nghiệp để mở rộng sản xuất và nâng
cao phúc lợi doanh nghiệp.
Khi kết thúc phân phối lần đầu, sẽ
diễn ra hoạt động phân phối lại trong
lĩnh vực
sản xuất và phi vật chất
nhằm thỏa mãn nhu cầu chung của
toàn xã hội: Duy trì bộ máy Nhà nước,
phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục,
y tế, thể thao…
* Quá trình phân phối lại: Thông
qua ngân sách Nhà nước, các tổ chức
tài chính trung gian: ngân hàng
Thương mại, hợp tác Tín dụng, công
ty Bảo hiểm…
Kết quả của chuỗi những phân phối
lại rất chằng chịt, đan xen nhau hình
thành nên một quỹ tích lũy, quỹ tiêu
dùng của xã hội. Chức năng phân phối
lại của ngân sách Nhà nước được thực
8
hiện thông qua chi ngân sách như chi
đầu tư, chi thường xuyên. Việc thực
hiện chức năng phân phối không chỉ
nhằm huy động nguồn lực vào ngân
sách, đảm bảo nguồn tài chính để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước mà còn nhằm điều tiết, điều
chỉnh nền kinh tế.
+ Thứ hai, chức năng Giám đốc:
Chức năng Giám đốc của ngân
sách Nhà nước là chức năng mà nhờ
vào đó mà việc kiểm tra bằng đồng
tiền được thực hiện với quá trình vận
động của nguồn tài chính để tạo lập
quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo
mục đích đã định.
Chức năng Giám đốc là một thuộc
tính khách quan vốn có của ngân sách
Nhà nước. Ở đâu sử dụng nguồn lực
ngân sách Nhà nước thì ở đó có sự
kiểm tra giám sát. Chức năng Giám
đốc của ngân sách Nhà nước bao gồm:
Kiểm tra và giám sát quá trình thực
hiện; quản trị rủi ro và tư vấn…
Giám đốc ngân sách Nhà nước có
đăc điểm sau:
Giám đốc ngân sách Nhà nước
là Giám đốc bằng đồng tiền, nhưng nó
9
không đồng nhất với mọi loại Giám
đốc bằng đồng tiền khác trong xã hội.
Giám đốc tài chính được thực hiện
đối với quá trình tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ, nhưng không phải tất
cả các chức năng của tiền tệ mà chủ
yếu với 2 chức năng: Phương tiện
thanh toán và phương tiện cất trữ.
Giám đốc Ngân sách Nhà nước
là loại giám đốc rất toàn diện, thường
xuyên, liên tục, rộng rãi.
Thực hiện chức năng Giám đốc tức
là thông qua sự vận động của đồng
tiền để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, chống tham ô, lãng phí…
Đó là việc kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động thu chi ngân sách Nhà
nước, thông qua đó để kiểm soát các
hoạt động trong nền kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước,
để thực hiện đầy đủ các chức năng của
ngân sách Nhà nước thì phải có điều
kiện sau:
Có mặt bằng thống nhất
Hệ thống báo biểu khoa học,
chính xác.
Có hệ thống pháp luật, thanh tra
10
ngân sách hoàn chỉnh.
Vậy ngân sách Nhà nước có những
vai trò quan trọng gì?
- Vai trò:
Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, ngân sách Nhà nước có vai trò rất
quan trọng. Nó đảm bảo những điều
kiện vật chất cần thiết để thực hiện,
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước và là công cụ để định hướng,
điều tiết nền kinh tế nhiều thành phần.
Đối với ngân sách Nhà nước thì
việc hiểu đúng và hiểu đủ về vai trò
của nó là vấn đề hết sức quan trọng và
nó quyết định tới việc sử dụng ngân
sách Nhà nước đúng mục đích.
Vậy vai trò của ngân sách Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường thể
hiện ở những mặt cụ thể sau:
+ Thứ nhất, ngân sách Nhà nước là
công cụ chủ yếu phân bổ nguồn lực tài
chính quốc gia, định hướng phát triển
sản xuất, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thông qua hoạt động thu ngân
sách,trong đó chủ yếu là thuế, Nhà
nước tác động vào các quá trình kinh
tế, các ngành, các lĩnh vực để điều
11
chỉnh cơ cấu đầu tư, định hướng sản
xuất kinh doanh.
Chi ngân sách không những nhằm
đáp ứng nhu cầu chi tiêu và điều hành
kinh tế
xã hội của Nhà nước,mà
thông qua đó để điều chỉnh, điều tiết
sản xuất. Thông qua chi đầu tư phát
triển ngân sách Nhà nước có tác động
kích thích phát triển, các ngành, lĩnh
vực quan trọng góp phần to lớn vào
việc phát triển kết cấu hạ tầng, tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh
+ Thứ hai: ngân sách Nhà nước là
công cụ để điều tiết thị trường, ổn
định giá cả và kiềm chế lạm phát.
Nền kinh tế thị trường luôn tiềm
ẩn trong đó sự mất ổn định kinh tế,
tích chất chu kỳ kinh doanh và những
biến động giá cả, lạm phát. Những
biến động đó tác động xấu đến phát
triển kinh tế xã hội. Do đó Nhà nước
thường xử dụng các nguồn lực vật
chất được hình thành từ ngân sách
như quỹ bình ổn giá, dự trữ quốc gia
và các công cụ tài chính khác để ổn
định giá cả từng mặt hàng cũng như
12
mức giá chung.
+ Thứ ba: ngân sách Nhà nước là
công cụ để điều chỉnh thu nhập, góp
phần thực hiện công bằng và tiến bộ
xã hội.
Thông qua thu chi ngân sách Nhà
nước điều chỉnh thu nhập của các đối
tượng có thu nhập cao dưới nhiều hình
thức như đánh thuế thu nhập, đánh
thuế hàng hóa cao cấp, hàng xa xỉ để
trợ cấp cho các đối tượng có thu nhập
thấp, các đối tượng chính sách hay
đầu tư vào phúc lợi công cộng. Các
biện pháp này có tác dụng làm giảm
chênh lệch quá mức về thu nhập và
mức độ thụ hưởng phúc lợi xã hội, rút
ngắng khoảng cách giầu nghèo. Ngoài
ra thông qua chi ngân sách cho các
động như y tế, giáo dục đào tạo, chi
hỗ trợ cho chính sách dân số, chính
sách việc làm…để nâng cao chất
lượng nguồn lực và đổi mới cơ cấu
dân số, lao động trong xã hội.
Như vậy, xét dưới giác độ kinh tế
xã hội, ngân sách Nhà nước có vai trò
to lớn. Nếu tổ chức hoạt động ngân
sách đúng đắn, phù hợp sẽ có tác động
13
tích cực tới quá trình kinh tế xã hội.
Ngược lại sẽ gây nên những tác động
tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế
xã hội.
* Tóm lại, quan niệm đúng đắn về
những vai trò đích thực của ngân sách
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
sẽ cho phép xác lập và sử dụng có cơ
sở khoa học, có hiệu quả công cụ
ngân sách Nhà nước trong điều hành
kinh tế xã hội. Mặc dù bồi cảnh kinh
tế thay đổi nhưng nếu nhận thức đúng
và hội tụ đủ những điều kiện cần thiết
thì vẫn có thể xây dựng và triển khai
các chính sách kích cầu qua ngân sách
Nhà nước có hiệu quả; vai trò thúc
đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết
kinh tế vĩ mô của ngân sách Nhà nước
được phát huy tác dụng.
Vậy hệ thống ngân sách,vị trí của
cấp ngân sách Nhà nước được bố trí
như thế nào?
2. Hệ thống ngân sách và vị trí
của các cấp ngân sách Nhà nước.
a. Hệ thống ngân sách Nhà nước
ở nước ta.
Tùy thuộc vào mô hình tổ chức bộ
máy Nhà nước và các đặc điểm kinh
14
tế xã hội cũng như truyền thống văn
hóa, lịch sử mà mỗi quốc gia xây
dựng cho mình hệ thống ngân sách từ
trung ương đến cơ sở. Tất cả những
khâu ngân sách nằm trong một hệ
thống thống nhất, tạo thành hệ thống
ngân sách của quốc gia.
Như vậy ta có thể hiểu một cách
khái quát như sau:
Hệ thống ngân sách Nhà nước là
tổng thể các cấp ngân sách liên quan
chặt chẽ với nhau trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp
ngân sách Nhà nước.
Ở nước ta Hiến pháp năm 1992
quy định, mỗi cấp chính quyền có một
cấp ngân sách riêng bảo đảm cơ sở vật
chất cho các cấp chính quyền thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình. Nói cách khác hệ thống ngân
sách Nhà nước ở nước ta tương ứng
với hệ thống tổ chức bộ máy Nhà
nước từ trung ương đến địa phương.
Điều 4 của Luật ngân sách Nhà
nước ghi rõ: “ngân sách Nhà nước
gồm ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương. Ngân sách địa
15
phương bao gồm ngân sách của đơn vị
hành chính các cấp có HĐND và
UBND”.
Và hệ thống đó, được diễn giải và
phân bố theo bảng sau:
Ngân sách Nhà n ước
Ngân sách
T
W
Ngân sách
địa phương
Ngân sách tỉnh, thành
phố trực
thuộcTW
Ngân sách huyện, quyện,
thành phố,thị xã thuộc
tỉnh
Ngân sách xã, phường,
thị trấn
Từ bảng trên, ta có thể nhận thấy
rằng: theo luật định, hệ thống ngân
sách Nhà nước hiện hành gồm có
ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương, trong đó ngân sách địa
phương bao gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh và thành phố
trực thuộc trung ương (gọi tắt là ngân
sách cấp tỉnh).
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là
ngân sách cấp huyện).
- Ngân sách cấp xã, phường, thị
16
trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Với hệ thống ngân sách Nhà nước
như vậy thì vị trí của nó được sắp xếp
như sau:
b. Vị trí của các cấp ngân sách
Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước được sắp xếp
theo vị trí từ cao xuống thấp, và mỗi
một vị trí có một hoạt động riêng, một
chức năng riêng, một nhiệm vụ riêng,
cụ thể là:
- Ngân sách trung ương phản ánh
nhiệm vụ thu-chi gắn với thực hiện
chức năng, nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội của Nhà nước trung ương.
Ngân sách trung ương giữ vai trò
chủ đạo trong hệ thống ngân sách Nhà
nước. Điều đó xuất phát từ vị trí, vai
trò của chính quyền trung ương. Ngân
sách trung ương tập trung nguồn tài
chính quốc gia lớn, đảm bảo chi tiêu
đối với những nhiệm vụ trọng yếu của
cả nước.
- Ngân sách cấp tỉnh phản ánh thu
chi theo lãnh thổ.
Ở đây nhằm làm đảm bảo thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ tổ chức toàn
diện kinh tế – xã hội của chính quyền
cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung
17
ương.
- Ngân sách cấp huyện là một cấp
ngân sách địa phương bao gồm các
hoạt động thu chi ngân sách gắn với
thực hiện chức năng nhiệm vụ của
chính quyền huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh.
- Ngân sách cấp xã gắn với chính
quyền cấp cơ sở, xã, phường, thị trấn
và việc thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế, chính trị, xã hội giao cho cấp chính
quyền này.
Ở đây ngân sách cấp xã được coi
là một ngân sách cấp cơ sở trong một
hệt thống ngân sách Nhà nước. Nó
phản ánh các hoạt động kinh tế xã hội
trực tiếp của Nhà nước đối với nông
dân. Do vậy cấp ngân sách này có vị
trí vai trò quan trọng trong hệ thống
ngân sách nước ta. Điều đó thể hiện
trên các mặt sau:
+ Thứ nhất, xã là chính quyền cấp
cơ sở, là nơi trực tiếp giải quyết các
quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân.
Quy mô và mức độ thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế xã hội của chính
quyền cấp xã phụ thuộc rất lớn vào
nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà
18
nước.
+ Thứ hai, ngân sách xã bao quát
diện rất rộng lớn, gồm trên 11.500 xã,
phường, thị trấn trong cả nước.
Tuy quy mô ngân sách mỗi xã
không lớn, nhưng tổng số ngân sách
xã trong cả nước thì lại rất lớn.
+ Thứ ba, hoạt động thu chi ngân
sách xã gắn với các điều kiện cụ thể ở
địa phương và những đặc thù của cấp
ngân sách cơ sở mà luật pháp đã phân
định.
Trong đó nhiề khoản thu ngân sách
do cấp xã quản lý sẽ có hiệu quả hơn,
chẳng hạn như thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng
đất, các khoản thu hoa lợi công sản…
một số khoản chi do ngân sách xã
thực hiện sẽ kịp thời và đúng đối
tượng, chẳng hạn như chi cho đối
tượng chính sách, chi cứu tế…
+ Thứ tư, ngân sách xã là một đơn
vị dự toán đặc biệt, dưới ngân sách xã
không có các đơn vị trực thuộc.
Do vậy quản lý ngân sách xã vừa
phải thông qua nghiệp vụ thuế, tài vụ,
quỹ ngân sách, đồng thời phải quản lý
tiền mặt, vật tư, tài sản và các hoạt
động kinh tế xã hội khác thuộc địa bàn
19
xã.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC.
Quản lý ngân sách là quá trình tổ
chức, điều hành các hoạt động chủ
yếu của ngân sách Nhà nước như thu
– chi ngân sách và quyết toán ngân
sách Nhà nước.
Quản lý ngân sách Nhà nước bao
gồm các nội dung cơ bản như:
- Quản lý thu ngân sách
- Quản lý chi ngân sách
-Quản lý chu trình ngân sách Nhà
nước.
Dưới đây là một số nội dung chủ
yếu của nội dung quản lý ngân sách
Nhà nước.
1. Quản lý thu ngân sách Nhà
nước.
a. Nguồn thu của ngân sách Nhà
nước.
Nguồn thu của ngân sách Nhà nước
được quy định bởi pháp luật. Các
nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà
nước bao gồm:
- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh
20
- Xem thêm -